Riêng gửi đến các
bạn đã sống trong Thành nội sẽ hình dung lại suốt trận chiến nầy : Khanh
- Thọ - Trí .....
Trận Tết Mậu Thân Tại Vùng I Năm 1968: Mặt Trận Trong Thành Nội
Huế...
Sáng hôm sau tiểu đoàn được chở cấp tốc bằng trực thăng Chinook vào giải tỏa
thành nội Huế. Để tránh phòng không địch, phi công chỉ bay là đà sát ngọn cây,
vậy mà cũng có một số bị thương vì đạn AK từ dưới bắn lên!
Bãi đổ quân là một sân trống, trước bệnh viện Nguyễn Tri Phương, trong đồn Mang
Cá. Lúc nầy tình hình Huế vô cùng bi đát! Địch đã làm chủ hết các cổng thành và
bờ cao kiên cố, chỉ còn lại một góc nhỏ là đồn Mang Cá.
Tại đây, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Sư Đoàn 1, đang chỉ huy cố thủ bằng
những “Lính kiểng” cơ hữu. Mặc dù hằng ngày chịu đựng nhiều loạt pháo, họ vẫn
bảo vệ được đồn, trong đó chứa hàng ngàn thương binh.
Trước khi kể đến cuộc quần thảo của Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù với sư đoàn chính qui
của Việt Cộng trong Thành Nội, tôi muốn nói qua về Tướng Ngô Quang Trưởng, một
vị tướng mà toàn quân hết sức khâm phục. Ngoài đức tính liêm khiết (nhứt Thắng,
nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng). Ông còn là người đầy mưu lược, lễ độ,
và vô cùng dũng cảm.
Trong trận tái chiếm Quảng Trị năm 1972, ông đã dùng kế hoạch “Phong Lôi” rất
tài tình. Do biết rõ địch đã gài nhiều nội tuyến trong các đơn vị, nhất là Bộ
Binh và Địa Phương Quân. Ông lừa địch bằng cách phổ biến ngày N, sẽ cho quân Dù
và Thủy Quân Lục Chiến vượt sông Mỹ Chánh tái chiếm Quảng Trị. Đối phương được
tin, vội dàn quân tăng cường dầy đặc, gồm bộ binh chủ lực, hỏa tiễn 122 ly,
chiến xa T-54, phòng không 30 ly,...dọc theo bờ Bắc sông Mỹ Chánh, để chuẩn bị
nghênh chiến.
Nhưng vào ngày N, Tướng Trưởng đã cho B-52 rải thảm suốt đêm, dọc theo tuyến án
ngữ của địch. Ban ngày thì pháo binh, phản lực, và hải pháo luân phiên nã vào
vị trí đối phương, khiến địch không có một phút nào yên ổn, để ngốc đầu trốn
chạy. Thật đúng như là bị “Thiên lôi đánh”!
Chờ vài ngày sau, biết địch không còn dám dàn quân như thế nữa. Họ phòng thủ
hời hợt, vì tưởng ta chỉ pháo dọa chứ không dám làm thiệt. Đúng lúc đó, Tướng
Trưởng đích thân dùng trực thăng ban khẩu lệnh cho từng đơn vị trưởng. Các
Chiến đoàn Dù lập tức vượt sông vào lúc 1 giờ khuya, bên phải Quốc lộ I có Sư
đoàn Thủy Quân Lục Chiến, tất cả đồng loạt khởi binh!
Mới 8 giờ sáng đã nghe Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù tịch thâu tới 11 khẩu phòng không 30
ly! Đây là chiến lợi phẩm lớn nhất từ trước tới giờ. Trong vòng một thời gian
ngắn, Tiểu đoàn 11 Dù đã bắn cháy hơn mười chiến xa T-54, và Thủy Quân Lục
Chiến đã chiếm được cổ thành Quảng Trị.
Ngũ Giác Đài và các tướng lãnh Mỹ và Pháp hết sức ngạc nhiên. Trước đây họ chỉ
đánh giá cao tướng VC Võ Nguyên Giáp ở trận Điện Biên Phủ, nhưng tướng Giáp đã
dùng chiến thuật biển người, phải nướng hơn trăm ngàn bộ đội. Cộng Sản đã bất
chấp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích theo chủ thuyết Duy Vật: “Cứu cánh biện
minh cho phương tiện”.
Tướng Giáp quả đúng là “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Tướng Trưởng trái
lại, ông quý trọng và giữ gìn sinh mạng của từng người lính. Ông cũng khuyến
khích, kiểm soát và chỉ dẫn cho từng sĩ quan, dù là sĩ quan cấp trung đội.
Tướng Trưởng còn là người biết trọng lễ nghĩa, khi nghe Tướng Đống ra Huế, ông
đã đến phi trường sớm, và ra tận cầu thang máy bay tiếp đón người thầy cũ của
mình. Mặc dù lúc đó hai người cùng cấp bậc, nhưng SĐND thì trực thuộc quyền chỉ
huy của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật. Tướng Đống
cũng rất biết điều, mỗi lần họp hoặc nhận lịnh Quân Đoàn, ông thường cho Tư
Lệnh Phó ra mặt. Riêng ông có mặt ở Huế để đốc thúc và trấn an các quân nhân
trong SĐND (Vì các đơn vị trưởng rất nể trọng Tướng Tư Lệnh; có mặt ông, họ sẽ
làm việc siêng năng hơn).
Tướng Trưởng còn là người rất can đảm, mặc dù địch đã làm chủ hầu hết thành nội
Huế, Đồn Mang Cá như chỉ mành treo chuông, nhưng ông vẫn cùng các lính kiểng ở
lại cố thủ một diện tích nhỏ hẹp, ngày đêm chịu đựng mưa pháo, để bảo vệ an
toàn cho hàng ngàn thương binh. Ông còn là người rất năng động nhiệt thành
trong mọi công việc. Khi còn là Tiểu đoàn Trưởng TĐ5ND, lúc chạm địch, ông xung
phong trước hàng quân. Ông đã chỉ huy linh động tài giỏi giành thế chủ động
chiến trường, dù trong những tình thế khó khăn,...Trận Đỗ Xá ở Quảng Ngải năm
1965, trận Liên Kết năm 1966 đã đưa Tiểu đoàn nầy được hơn 6 lần tuyên dương
trước quân đội và tiểu đoàn được đeo dây biểu chương màu Đỏ.
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, đơn vị xuất sắc đã cung hiến cho QLVNCH tám vị Tướng lãnh
tài ba: Nguyễn Chánh Thi, Ngô Quang Trưởng, Trương Quang Ân, Hồ Trung Hậu, Đỗ
Kế Giai, Lê Quang Lưỡng, và hai vị tướng đã hiển danh “Vị quốc vong thân”:
Tướng Phạm Văn Phú và Nguyễn Khoa Nam.
Sư Đoàn 1 rồi Quân Đoàn I, dưới tay ông, đã làm khiếp vía địch quân ở vùng Hỏa
Tuyến.
Bây giờ xin trở lại trận chiến Tết Mậu Thân tại thành nội Huế. Về tình hình
địch, bộ đội Bắc Việt từ hướng Tây Bắc, vùng thung lũng A Shau, A Lưới vừa xâm
nhập, phối hợp với du kích địa phương, chĩa nhiều mũi dùi tiến vào cố đô Huế.
Hướng Tây từ quận Nam Hòa, Nam Giao băng qua cầu Bạch Hổ chiếm cửa Chánh Tây.
Hướng Bắc từ rặng Trường Sơn, qua chùa Thiên Mụ, Kim Long. Hướng Đông từ Đồng
Xuyên, Mỹ Xá, dọc theo La Vân Thượng tới An Hoà chiếm cửa Đông Ba. Cánh cuối
cùng từ Phú Thứ, Đập Đá, qua cầu Trường Tiền chiếm cửa Thượng Tứ.
Về tình hình bạn, đại đội Hắc Báo của anh bạn cùng khóa Phan Gia Lâm đang bị
bao vây trong Đại Nội. Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù và Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù sáng Mùng 1
Tết, chạy băng đồng marathon gần 20 cây số từ Sịa, Quảng Điền, và cây số 17, An
Lỗ về giải cứu cố đô (Hai tiểu đoàn bị chận lại ở An Hoà mãi tới mùng 3 mới vào
được BTL Sư đoàn 1 BB). Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù chúng tôi ở mặt trận Quảng Trị đã
hao hơn trăm chiến sĩ, tới Huế vào trưa mùng 4 Tết, tạm bố trí trong đồn Mang
Cá.
Sáng Mùng 5 Tết, chúng tôi xuất phát để tái chiếm phi trường Tây Lộc và Cửa
Chánh Tây. Vừa mới ra khỏi đồn được 200 thước, tôi gặp Thiếu tá Lê Minh Ngọc,
Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù đang dẫn binh đi ngang qua. Hỏi thăm thì biết
lúc nầy quân số của Tiểu Đoàn 2 và 7 Nhảy Dù chỉ còn phân nửa! Họ bị thiệt hại
nặng từ đêm Giao Thừa khi chiếm đầu cầu An Hòa, và đã giao tranh với địch trong
Thành Nội mấy ngày qua. Chỉ 3 ngày mà đơn vị bạn đã hao quá nhiều. Chúng tôi ai
nấy mặt mày bí xị, vì mình sắp sửa tiến vào vùng tử địa! Không biết ai
còn, ai mất, đúng là:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao
(Chinh Phụ Ngâm)
Khi vào tới gần tường thành Đại Nội, chúng tôi thấy phía trước có nhiều bóng
đen thấp thoáng và nghe vài tiếng súng lẻ tẻ. Cả đại đội dàn quân xung phong,
gặp một số người mặc áo đen giơ tay đầu hàng. Hỏi ra mới biết đó là binh sĩ của
đại đội Hắc Báo.
Gặp lại bạn đồng
khoá Phan Gia Lâm, hai đứa bắt tay mừng mừng lo lo. Lâm nói giọng Huế:
__ Lính mi sao còn nhiều quá vậy? Lính của tao chuồn về nhà ăn Tết gần hết!
Hỏi thăm Lâm về tình hình phía trước, rồi chúng tôi thận trọng tiến dọc theo bờ
kinh, thẳng về hướng phi trường L-19 ở Tây Lộc. Khu nầy nhờ Tiểu đoàn 2 và 7
Nhảy Dù đã dọn sẵn, nên chỉ chạm địch lẻ tẻ, thỉnh thoảng có vài binh sĩ bị bắn
tỉa từ phía bên kia bờ kinh. Sau khi chiếm phi trường, tiểu đoàn tiến về cửa
Chánh Tây. Đánh trong thành phố thật không dễ, chúng tôi phải phá tường, leo
cửa sổ để di chuyển. Các ngõ hẻm, cao ốc, đường cái, và ngả tư, đều có thượng
liên địch chực sẵn.
Khi đến gần cửa Chánh Tây, tôi thấy có rất nhiều địch đội nón cối, tay đang cầm
súng Ak-47, B-40, đi qua lại trên bờ thành. Chúng tôi chờ trời tối cho khinh
binh lén leo lên dùng lưỡi lê đánh cận chiến, chiếm được một góc thành làm đầu
cầu cho đại đội nhào lên bắn ào ạt khiến địch trở tay không kịp. Dùng cách nầy
tuy tổn thất nhiều, nhưng vì địch quân đã có lợi thế bờ thành cao trên 5 thước,
nếu không liều mạng vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con. Càng dây dưa trì
hoãn thì càng tổn thất tiêu hao dần dần, rốt cuộc không có thành quả gì. Trong
hai ngày tiểu đoàn chiếm lại được cửa Chánh Tây và bàn giao lại cho Sư đoàn 1
BB trấn giữ. Chúng tôi bọc ngược trở lại để chiếm cửa Đông Ba .
Tại đây có cây thượng liên đặt nơi cửa thành cao và rất kiên cố, chúng tôi thử
xung phong nhiều lần mà không lên được cửa. Trung đội tôi lúc ấy còn 21 người,
nhưng do khí thế chiến thắng từ Quảng Trị và cửa Chánh Tây vừa rồi, nên binh sĩ
rất tự tin. Đợi ngay khi điều chỉnh pháo binh dập nát khẩu thượng liên, cả
trung đội vừa bắn vừa hô xung phong tiến nhanh lên và chiếm được cửa thành.
Thấy tên xạ thủ thượng liên chết nằm trên súng, hai chân bị khoá bằng dây xích.
Kiểm điểm quân số lại thấy chỉ còn mười người nguyên vẹn. Mười một mạng người
chết và bị thương, để đổi lấy cửa thành nầy đây. Lính Nhảy Dù trả nợ máu cho
quê hương miền Nam, lấy lại sự thanh bình cho đồng bào xứ Huế. “Chúng tôi không
cầu an lạc dễ dàng mà chỉ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm”. Gần ba mươi
năm qua, trên đất Mỹ, tôi vẫn nhớ cảm giác cay cay đau đớn khi đứng trên cổng
thành đổ nát của mùa xuân năm xưa! Mùa Xuân rây máu của xứ Huế mù trời sương
đục, tang tóc đau thương!
Mấy ngày sau, tiểu đoàn tiếp tục mở rộng kiểm soát các khu vực bên trong Thành
Nội. Sáng Mùng 10, chúng tôi chuẩn bị vượt qua hồ Tỉnh Tâm để tìm cách đánh lấy
lại cửa Thượng Tứ, cửa chính Nam, đi thẳng vào Đại Nội. Suốt tuần lễ, người
không tắm rửa, chân không rời đôi giày trận, sống giữa màn trời chiếu đất, lót
dạ bằng những chén cháo trắng. Tuy lương thực không được tiếp tế, nhưng lúc đó
không ai ăn vô nổi, vì hằng ngày nhìn thấy xác chết đầy đường, không có người
thu dọn. Chúng tôi sống với và giữa những người chết, họ là những người dân đã
sống trong chịu đựng và chết trong oan khiên. Họ đã chết cho ai, vì ai?.. Bao
nhiêu năm câu hỏi vẫn còn, không được ai đứng ra lãnh trách nhiệm trả lời.
Trung đội vượt qua hồ Tỉnh Tâm phía ngoài Cầu Kho, tiến vào lục soát ngôi biệt
thự khá sang trọng. Khi vừa rút ra khỏi nhà, thì nghe “Đùng” một tiếng, một quả
lựu đạn hay súng cối gì đó rơi đúng vào giữa đội hình trung đội tôi! Mọi người
đều ngã lăn vì trúng mảnh đạn. Lưng tôi bị đầy mảnh, máu ướt đẩm cả áo trong
lẫn áo ngoài.
Tôi đang kiệt sức dần, thì bỗng nhiên thấy một tên lính địch chạy qua nhà tôi
đang nằm. Trong khi tên bộ đội chưa phát giác, do từ một phép lạ hoặc bản năng
sinh tồn, tôi đứng dậy, chạy băng về bộ chỉ huy đại đội, các anh em binh sĩ
cũng nhanh chân rút theo. Mắt loáng thoáng nhìn thấy Đại đội trưởng Thành Râu
từ xa, tôi kiệt sức ngã lăn nằm bất tỉnh trước sân đất trước nhà.
Lúc tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên lầu của một biệt thự sang trọng. Anh bạn
tốt là bác sĩ Thiện mượn mền để đắp cho tôi nhưng chủ nhà không chịu. Tối đến
thấy trên mình có cái mền mới tinh, nhưng nó bị trượt qua một bên, vết thương
bắt đầu hành sốt, người run lập cập. Tôi định kéo mền lên đắp, nhưng dở tay
không nổi, đành nằm chịu trận! Nhìn xung quanh thấy có vài thương binh bị nặng
quá đã hy sinh, còn những người khác thì mê man. Sáng ra mới biết anh Thiện đã
lén “Mượn tạm” mền để đắp cho tôi. Sau đó nghe nói chủ nhà nầy là kinh tài
(hãng xe bus vàng) của Việt Cộng. Hắn ta cùng bọn nằm vùng đã làm nội tuyến
hướng dẫn bộ đội vào thành, quấy nhiễu dân chúng, gây bao nhiêu cảnh chết chóc,
lầm than cho những kẻ vô tội trong ba ngày Xuân.
Hơn một tuần quần thảo trong thành nội, Tiểu đoàn 9 Dù còn thảm hơn hai Tiểu
đoàn Dù bạn. Quân số còn lại những người nguyên vẹn không quá một trăm!
Lúc chuyển quân ra Vùng I Chiến Thuật, Tiểu đoàn cần tới 5 chiếc vận tải cơ
C-130, nhưng trở về với một chiếc mà còn thấy rộng. Riêng Trung đội 1 của tôi
thì coi như báo cáo tổn thất “ Nằm, ngồi ”(chết, bị thương) là 100%.
Để diễn tả về trận chiến Tết Mậu Thân tại Vùng Giới Tuyến nầy, tôi xin phỏng
theo hai câu thơ bất hủ ở mặt trận An Lộc, Bình Long :
Cố đô Huế Mậu Thân chiến tích
Chiến sĩ Dù vị quốc vong thân!
Trương Dưỡng
Tân Sơn Hòa chuyển
__._,_.___
ReplyDeleteĐọc bài này vứa thương cãm, vừa căm thù ngùn ngục. Thương cảm cho mấy anh lính Cộng Hòa, cho người dân vô tội bị chết oan khiêng. Căm thù bọn VC gieo rắc kinh hoàng chết chóc cho Huế nói riêng và cho VN nói chung.