Date:
Wed, 20 Mar 2013 03:01:06 -0700
Subject: [ChinhNghiaViet] Huỳnh Ngọc Chênh là ai?
Subject: [ChinhNghiaViet] Huỳnh Ngọc Chênh là ai?
Huỳnh Ngọc Chênh là ai?
-Bài
1-
Hàn Giang Trần Lệ
Tuyền
Là
một sinh viên đã từng hoạt động rất đắc lực trong “phong trào phản chiến”.
Nhưng điều cần phải nói là suốt trong thời gian trước ngày 30/4/1975 Huỳnh Ngọc
Chênh đã từng sát cánh, kề vai với Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Hữu Thái v…v… để hô
hào “chống Mỹ,” chống chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, đòi Mỹ phải rút quân…
Và,
trước khi viết tiếp, thì người viết tự thấy, cũng cần phải nhắc lại:
Những giải thưởng đã từng được trao cho nhiều người, trong đó, có giải Nobel
Hòa Bình, vốn là một giải cao quý theo như nguyện vọng ghi trong di chúc của
Alfred Nobel. Giải Nobel Hòa Bình được trao “cho
người đã có đóng góp to lớn trong việc đẩy mạnh tình đoàn kết giữa các quốc
gia, trong việc giải trừ hoặc hạn chế các lực lượng vũ trang và trong việc tổ
chức hay xúc tiến các hội
nghị hòa bình”. Có nhiều người cho
rằng Nobel đã lập ra giải thưởng này trong di chúc như một cách đền bù cho các
loại chất nổ của ông đã phát minh vốn được sử dụng rộng rãi trong chiến tranh
như dynamite hay ballistite. Thực tế thì ngoại trừ ballistite, không một loại
chất nổ nào của Nobel được sử dụng trong chiến tranh khi ông còn sống.
Giải
Nobel Hòa bình được trao hàng năm vào ngày 10 tháng 12, ngày mất của Alfred
Nobel tại thủ đô Oslo của Na Uy.
Thế
nhưng, sau khi Alfred Nobel mất, rồi sau đó, giải Nobel Hòa Bình đã “biến
thể” để chỉ còn là một loại giải dành cho những “điều kiện - mặc cả”; như trước
đây, người ta đã thấy Giải Nobel Hòa Bình đã được trao cho những người không hề
mang lại một phút hòa bình nào cho chính dân tộc của họ. Trường hợp của Lê Đức
Thọ, đã được trao giải, (mặc dù Lê ĐứcThọ không nhận) nhưng là
một điển hình.
Như
đã nói, cho đến ngày hôm nay, giải Nobel Hòa Bình đã “biến thể” để trở thành
như thế, thì thử hỏi, những loại “giải thưởng” khác có còn chăng những ý nghĩa
và giá trị như lúc ban đầu. Và cũng cần phải biết rằng: Đối với những người
Việt Nam, đã được các tổ chức của ngoại quốc trao những giải khác nhau, là do
sự “vận động” của các “tổ chức tranh đấu” của người Việt tại hải ngoại, chứ các
“hội đồng trao giải” không biết gì về người được trao giải cả, trong đó, có
Huỳnh Ngọc Chênh.
Vậy,
đây là một Huỳnh Ngọc Chênh, bằng những dòng của chính Chênh đã viết, qua bài: “Bất
An” và đã được các báo trong nước giới thiệu như sau:
“Huỳnh
Ngọc Chênh (SN 1952) hiện sống tại Việt Nam, xuất thân là một giáo viên mãi đến
1992 ông mới vào nghề báo, từng là cựu
Thư ký tòa soạn báo Đảng, Thanh Niên Chủ Nhật.
Trước
75, ngay khi sống trong thời chiến, tôi vẫn luôn cảm thấy an lành. Những năm
chiến tranh ác liệt ấy, gia đình tôi tách ra làm hai. Ba tôi xuống thành phố,
còn mẹ tôi vẫn ở lại quê bám trụ. Tôi đi đi về về cả hai nơi. Đêm ngủ ở quê,
thường xuyên nghe tiếng đại bác nổ ven rìa làng do lính Mỹ bắn cầm canh từ phi
trường Đà Nẵng. Thỉnh thoảng cũng có vài quả đại bác bay lạc vào nhà dân gây ra
cảnh tang thương chết chóc thế nhưng không hiểu vì sao tôi vẫn không cảm thấy
bất an”.
“Sinh
năm 1952”, như vậy, cho đến ngày 30/4/1975, Huỳnh Ngọc
Chênh 23 tuổi. Và chính ngày này, Huỳnh Ngọc Chênh đã cùng với Trịnh Công
Sơn và Nguyễn Hữu Thái “Chủ tịch Sinh viên Sài Gòn” và cũng là người đã
từng đứng trong “Mặt trận Giải phóng miền Nam” là một trong những tổ chức ngoại
vi của đảng Cộng sản Hà Nội, và thêm một số sinh viên “phản chiến” nữa. Tất cả
đã lên Đài Phát Thanh Sài Gòn để cùng nhau hát bài: “Nối
vòng tay lớn”, như một trích đoạn của Nguyễn Hữu Thái đã
được BBC Tiếng Việt đăng tải vào lúc 14 h 14 GMT, ngày 19 tháng 5 năm
2005 như sau:
19
Tháng 5 - 2005 - Cập nhật 14h14 GMT
“Trích
đoạn cuốn: Những điều chưa nói hết về 30-4-1975:
“Đó
là một cuốn sách rất mỏng với nội dung liên quan cuộc chiến Việt Nam, chưa đầy
50 trang giấy.
Tác
giả cuốn sách không phải là người ở phía bên kia, mà đã từng tham gia phong
trào đấu tranh sinh viên ở Sài Gòn, ở lại Việt Nam cho đến năm 1990. Ông vẫn
giữ quan hệ với người ở trong nước và thường viết bài cho các báo ở Việt Nam
Tuy
vậy, khi gửi về Việt Nam để in, bản thảo chỉ nhận sự im lặng và theo tác giả,
cuốn sách ‘hơi tế nhị và nhạy cảm trong giai đoạn này’ vì không đúng với một số
văn bản chính thức trong nước.
Tác
giả, ông Nguyễn Hữu Thái, nói với đài BBC rằng
trong sách, ông mô tả lại từ góc độ nhân chứng về diễn biến của ngày 30-4-1975
ở Sài Gòn.
Ông
nói với đài BBC rằng ông vẫn để dành bản thảo để chờ một ngày in trong nước vì
đối tượng độc giả ông nhắm đến là người ở Việt Nam và vì trong thời chiến, ông
là người có cảm tình và hoạt động trong phong trào cách mạng chứ không phải
đứng ở bên ngoài.
“...Giáo
sư Vũ Văn Mẫu phát biểu tiếp theo:
“Trong
tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi, giáo sư Vũ Văn Mẫu, thủ tướng, kêu
gọi tất cả các tầng lớp đồng bào hãy vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân
tộc, và trở lại sinh hoạt bình thường. Nhân viên của các cơ quan hành chính
quay trở về vị trí cũ dưới sự hướng dẫn của chính quyền cách mạng”.
Và
cuối cùng là lời chấp nhận đầu hàng của chính ủy Bùi Văn Tùng:
“Chúng
tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố
Thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không
điều kiện của ông Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn”.
Và
Thái tiếp tục nói: “…Quân Giải phóng đã tiến vào dinh Độc Lập và đã làm chủ
hoàn toàn các điểm chốt quân sự cũng như dân sự của vùng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia
Định…”
Phải
chăng những khoảnh khắc, những tuyên bố đó đã chấn động lòng người, làm nước
mắt trào ra từ nhiều đường rừng, mặt trận và cả ở miền Bắc nước ta. Người ta
mừng rỡ, hồi hộp và lắng nghe từ xa.
Sáng
30/4, trong chiến khu miền Đông, nhà báo Đinh Phong không dám rời chiếc radio
nhỏ đeo bên mình. Các anh em đã xuất quân hết vào sáng 29/4. Trước khi đi anh
Hai Khuynh (Nguyễn Huy Khánh) trong ban biên tập báo Giải Phóng nói nhỏ với
anh: “Phải bám chặt đất Sài Gòn suốt đêm ngày”. Gần trưa đài phát thanh Sài Gòn
mất sóng. Anh nghĩ thầm: Chắc là có chuyện rồi. Hồi Tết Mậu Thân năm 1968, mình
cũng chờ mãi như thế. Thì ra ta đã chiếm được đài phát thanh Sài Gòn rồi nhưng
không vận hành được!
Gần
trưa thì có tiếng rọt rẹt. Tất cả anh em đều bỏ ăn cơm ngồi bên chiếc radio chờ
đợi. Bỗng có tiếng nói, giọng nam còn trẻ: “Chúng tôi là những người đại diện
cho Ủy ban nhân dân cách mạng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định… Chúng tôi là giáo sư
Huỳnh Văn Tòng và cựu chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn Nguyễn Hữu Thái…”
Tiếp đó là lời đầu hàng của tướng Dương Văn Minh.
Cả
cơ quan reo hò tung chén dĩa, mũ nón. Biết tôi là người theo dõi phong trào đô
thị, anh em quây lại hỏi:
-
Huỳnh Văn Tòng và Nguyễn Hữu Thái là ai?
Nhà
báo Đinh Phong chỉ biết tên Nguyễn Hữu Thái qua phong trào học sinh sinh viên
Sài Gòn, biết anh là chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn khóa 1963-64. Vì vậy,
anh bèn nói với anh em:
-
Nhất định đó là ‘người của ta’ rồi, người của ta chiếm đài phát thanh mới cho
đọc lời đầu hàng của Dương Văn Minh…
Xong
việc, hai chỉ huy bộ đội đưa đoàn tướng Minh về lại dinh Độc lập. Chính ủy Bùi
Văn Tùng tuy đã thực hiện được một công tác cấp bách và cần thiết phát đi được
lời đầu hàng của tướng Minh, nhưng ông vẫn bị cấp trên rầy rà cho đó là một
việc làm mạo hiểm. Nếu có mệnh hệ nào cho tướng Minh thì rất khó ăn nói cho
phía cách mạng đối với dư luận trong và ngoài nước.
Thái
đích thân đứng ra điều hành buổi phát thanh ấy, đọc thêm bảng công bố của Cách
mạng đối với vùng mới giải phóng, mượn của một chính trị viên.
Thái
và Tòng cố tình xưng tên tuổi mình là nhắm tạo tâm lý trấn an nhân dân Sài Gòn.
Gần đây, nhân dân phía Nam từng bị guồng máy tâm lý chiến của Mỹ và Sài Gòn ra
rả tung tin thất thiệt, mô tã nào cảnh tắm máu khi bộ đội đến
miền Trung làm dân Sài Gòn sợ điếng hồn. Mọi người thực sự đang kinh hoàng, chỉ
mong tìm đường tháo chạy thoát thân với bất cứ giá nào! Hy vọng khi nghe được
tên tuổi Thái, Tòng họ sẽ nghĩ: “À, nếu mấy tên tư sản kiểu như Tòng, Thái mà
còn đó thì chắc cũng không đến nỗi nào!”. Về sau nghe nói có nhiều người lấy
tàu chạy ra biển xa đã quay lại và bị bắt đi học tập hoặc bị giam giữ đã trách
cứ Thái, Tòng lừa gạt họ!
Nhóm
sinh viên chủ động tự biên tự diễn chương trình phát thanh, chủ yếu làm sao đưa
ra được lời tuyên bố đầu hàng của tướng Minh, thông báo chính sách của chính
quyền cách mạng lâm thời về vùng mới giải phóng và trấn an dư luận dân chúng
Sài Gòn, vùng Đồng bằng sông Cữu Long, các hải đảo. Xen kẽ vào các lời ghi âm sẳn
phát đi phát lại nêu trên, họ tranh thủ kêu gọi đại diện đồng bào các giới đến
lên tiếng trên làn sóng phát thanh.
Thấy
trong đám đông ùa đến đài có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, sinh viên Huỳnh
Ngọc Chênh đưa anh vào và tất cả cùng anh hát vang bài “Nối
vòng tay lớn”.
***********
Trên
đây, là những dòng của Nguyễn Hữu Thái đã cho biết vào ngày 30/4/1975, đã có
mặt cả Huỳnh Ngọc Chênh và Nguyễn Hữu Thái, Trịnh Công Sơn tại Đài Phát Thanh
Sài Gòn. Những điều này, người viết sẽ nói đến ở bài sau. Còn bây giờ, người
viết cần phải nhắc lại những điều mà chính Huỳnh Ngọc Chênh đã viết trong bài: “Bất
An” như sau:
“Trước
75, ngay khi sống trong thời chiến, tôi vẫn luôn cảm thấy an lành. Những năm
chiến tranh ác liệt ấy, gia đình tôi tách ra làm hai. Ba tôi xuống thành phố,
còn mẹ tôi vẫn ở lại quê bám trụ. Tôi đi đi về về cả hai nơi. Đêm ngủ ở quê,
thường xuyên nghe tiếng đại bác nổ ven rìa làng do lính Mỹ bắn cầm canh từ phi
trường Đà Nẵng. Thỉnh thoảng cũng có vài quả đại bác bay lạc vào nhà dân gây ra
cảnh tang thương chết chóc thế nhưng không hiểu vì sao tôi vẫn không cảm thấy
bất an.”
Nên
biết, ngày 30/4/1975, tất cả những thanh thiều niên từ mười hai tuổi trở lên,
không phân biệt nam, nữ, sinh viên, học sinh, kể cả dốt chữ đều bị Việt cộng
bắt hết, đem lên rừng, để làm du kích, “nữ cứu thương” cho “bộ đội” hoặc “du
kích bác Hồ”, nếu lỡ đi lọt vào những vùng mất an ninh, mà người dân thường gọi
là “vùng xôi đậu”. Nghĩa là, những nơi ấy, cứ ban ngày có thể có bóng dáng của
các Chiến Sĩ Địa Phương Quân- Nghĩa Quân VNCH, còn ban đêm, thì Việt cộng hoàn
toàn kiểm soát, mà cũng có khi Việt cộng kiểm soát cả ngày lẫn đêm.
Những
điều đã nói ở trên, là hoàn toàn đúng với sự thật, vì chính gia đình của người
viết đã từng bị du kích Việt cộng bắt, rồi đem giam dưới hầm đất, bất kể nắng
mưa trước khi được cứu thoát. Vì thế, nên những đêm mưa, Mẹ của người viết phải
ngồi canh, thức trắng, để tát nước trước miệng hầm, vì sợ các con của mình phải
chết vì hầm ngập nước. Huỳnh Ngọc Chênh hãy thôi, đừng lừa gạt mọi người nữa.
Trở
lại với những lời của Huỳnh Ngọc Chênh, mặc dù không cho biết “mẹ
tôi vẫn ở lại quê bám trụ”,
là “bám trụ” ở quận, thôn, xã nào
gần thành phố Đà Nẵng. Nhưng, không một ai không biết rằng: Một khi đã quyết
định “ở lại quê bám
trụ”, là chính người đó, đã chấp nhận sống chung với
Việt cộng, và ngược lại Việt cộng cũng chấp nhận họ được ở lại, trong khi chồng
tức là cha của Huỳnh Ngọc Chênh lại xuống sống tại Đà Nẵng. Điều này, dễ hiểu,
vì có “đôi bên cùng có lợi”.
Riêng
Huỳnh Ngọc Chênh một sinh viên đã trưởng thành mà “vẫn
cứ đi đi về cả hai nơi mà vẫn không cảm thấy
bất an”. Nghĩa là Việt cộng chấp nhận cho Huỳnh Ngọc
Chênh được “cứ đi đi
về về” mà không bắt bớ, không hề làm khó dễ gì đối
với cha mẹ vả cả Huỳnh Ngọc Chênh hết. Nhưng còn nữa, cho dù Huỳnh Ngọc Chênh
không nói, song ai cũng biết, “gia đình tôi tách làm
hai. Ba tôi xuống thành phố,
còn mẹ tôi vẫn ở lại quê bám trụ” thì chắc chắn, không
riêng Huỳnh Ngọc Chênh mà cả cha của Huỳnh Ngọc Chênh cũng được Việt cộng cho
tự do “cứ đi đi về về” để thăm vợ con nữa,
chưa nói đến những hành vi khác trong bóng tối của cả gia đình này...
Huỳnh
Ngọc Chênh viết tiếp:
“Đêm
ngủ ở quê, thường xuyên nghe tiếng đại bác nổ ven rìa làng do lính Mỹ bắn cầm
canh từ phi trường Đà Nẵng. Thỉnh thoảng cũng có vài quả đại bác bay lạc vào
nhà dân gây ra cảnh tang thương chết chóc thế nhưng không hiểu vì sao tôi vẫn
không cảm thấy bất an”.
“Đêm
ngủ ở quê” là ở quê nào, mà “thường
xuyên nghe tiếng đại bác nổ ven bìa làng do lính Mỹ bắn cầm canh từ phi trường
Đà nẵng”???
Huỳnh
Ngọc Chênh cần phải biết: Lính Mỹ hay Không quân Việt Nam Cộng Hòa ở phi trường
Đà Nẵng chỉ có dội bom vào những vùng đất đã bị Việt cộng hoàn toàn kiểm soát,
còn “đại bác”, thì do Binh chủng Pháo Binh bắn vào, nhưng
cũng chỉ bắn vào những nơi đã bị Việt cộng kiểm soát, có thể là cái vùng quê,
mà cha mẹ của Huỳnh Ngọc Chênh đã chấp nhận sống cùng với Việt cộng, chứ Pháo
Binh không bao giờ bắn “đại bác” vào những khu dân cư
ở những vùng Quốc Gia kiểm soát.
Ngoài
ra, Huỳnh Ngọc Chênh đã viết: “cứ đi đi về về”.
Vậy, khoảng thời gian ấy là bao lâu, vì quê của Huỳnh Ngọc Chênh phải ở gần
thành phố Đà Nẵng, thì mới di chuyển như thế được. Bởi vì, nếu cái “làng” của
Huỳnh Ngọc Chênh ở quá xa phi trường Đà Nẵng, thì “đại
bác” không bắn tới, mà ở gần quá, thì Phi trường Đà Nẵng, với tầm
đạn của “đại bác” cũng không trực xạ “cầm
canh” được.
Huỳnh
Ngọc Chênh cần phải biết hai điều:
1
- Cho dù là loại “đại bác” 155 ly, 175 ly, thì cũng chỉ bắn ở tầm xa cỡ 10 đến
13 km mà thôi.
2-
Ngày xưa, trước năm 1975, cha mẹ của Huỳnh Ngọc Chênh đã “bám
trụ” và “đi đi về về”
ở các quận nào nằm quanh thành phố Đà Nẵng như: Hòa Vang, Hiếu Đức, Hậu Đức,
Thượng Đức, Khâm Đức, Quế Sơn, Tiên Phước, Thăng Bình, Tam Kỳ Hương An... hay
Hiên, Giằng, Phú Túc, Ái Nghĩa, Túy Loan, Hòa Khánh, Phước Tường...? Nên biết,
ở những nơi ấy, đều có những Trại Lực Lượng Đặc Biệt - Biệt Kích, (sau này, đã
“cải tuyển” thành những Tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng) và mỗi trại đều có
một Pháo Đội Pháo Binh của Mỹ, để đêm đêm thì bắn hỏa châu soi sáng cả một vùng
đồi núi, để các anh chiến sĩ ngồi trên những vọng gác dễ dàng theo dõi những di
chuyển của địch quân, và nếu phát hiện ra, thì các anh sẽ gọi về căn cứ, để
pháo binh kịp thời chôn xác địch bằng những quả “đại bác”
cỡ 155 ly, 175 ly, chứ không cần đến “đại bác”
của phi trường Đà Nẵng, mà chỉ cần những quả bom của Không đoàn tại Phi trường
Đà Nẵng nổ chụp xuống những vùng đất địch để tiêu diệt Cộng quân.
Và
ngoài các Trại Lực Lượng Đặc Biệt - Biệt Kích ấy, còn có một trong số 58 Tiểu
Đoàn Pháo Binh đều luôn luôn tăng phái một Pháo đội đến các vùng mất an ninh,
để yểm trợ cho các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân... mà tại Quảng Nam - Đà
Nẵng Tiểu Đoàn 22 Pháo Binh: KBC 4869, và Tiểu Đoàn 34 Pháo binh: KBC 4451/31/C/HQ.
Hai Tiểu đoàn này, luôn luôn thay phiên tăng phái những Pháo Đội Pháo Binh đến
đóng trên những tiền đồn ở những vùng xa xôi ấy, và lúc nào cũng sẵn sàng chấm
tọa độ một cách chính xác, để tiêu diệt địch quân.
Nói
tóm lại: Huỳnh Ngọc Chênh đã viết những điều hoàn toàn LÁO, vì không bao giờ có
cái chuyện “thường xuyên nghe tiếng đại bác nổ ven rìa
làng do lính Mỹ bắn cầm canh từ phi trường Đà Nẵng. Thỉnh thoảng cũng có vài
quả đại bác bay lạc vào nhà dân gây ra cảnh tang thương chết chóc”.
Xin
mọi người đừng quên: Ngày xưa, Thích Nhất Hạnh và Võ Văn Ái đã lừa bịp được cả
Mỹ, Pháp và nhiều nước nữa, với những câu chuyện hoàn toàn bịa đặt, láo khoét
trong cuốn Ngụy thư: “Hoa Sen Trong Biển Lửa”,
thì ngày nay, Huỳnh Ngọc Chênh đã bịa đặt ra những câu chuyện trong bài viết: “Bất
An” thì không có gì là lạ. Bởi vì, tất cả đều ở trong cái lò “phản
chiến” mà ra cả đấy thôi.
Và
hôm nay, Huỳnh Ngọc Chênh hiện đang có mặt tại nước Pháp, Huỳnh Ngọc Chênh hãy
trả lời những điều mà người viết đã nêu ra như trên. Còn rất nhiều những điều
khác, người viết sẽ nói đến trong bài kế tiếp.
Paris,
19/03/2013
Hàn
Giang Trần Lệ Tuyền
----------------------------------------------------------
|
|
Huỳnh
Ngọc Chênh (SN 1952) hiện sống tại Việt Nam, xuất thân là một giáo viên mãi
đến 1992 ông mới vào nghề báo, từng là cựu Thư ký tòa soạn báo đảng, Thanh
Niên Chủ Nhật.
Ông
thường viết về những bất công xã hội và kêu gọi dân chủ hoá Việt Nam cũng như
lên tiếng phê phán chế độ độc tài đảng trị, nhũng lạm và đang làm tình làm
tội nhân dân ta.
***
Trước
75, ngay khi sống trong thời chiến, tôi vẫn luôn cảm thấy an lành. Những năm
chiến tranh ác liệt ấy, gia đình tôi tách ra làm hai. Ba tôi xuống thành phố,
còn mẹ tôi vẫn ở lại quê bám trụ. Tôi đi đi về về cả hai nơi. Đêm ngủ ở quê,
thường xuyên nghe tiếng đại bác nổ ven rìa làng do lính Mỹ bắn cầm canh từ
phi trường Đà Nẵng. Thỉnh thoảng cũng có vài quả đại bác bay lạc vào nhà dân
gây ra cảnh tang thương chết chóc thế nhưng không hiểu vì sao tôi vẫn không
cảm thấy bất an. Đêm ngủ ở Đà Nẵng thỉnh thoảng lại nghe hú còi báo động có
pháo kích của Việt Cộng bắn về thành phố, nhiều người phải chạy vào nấp dưới
hầm, riêng tôi vẫn nằm tỉnh queo trên giường, không chút lo sợ.
Bây
giờ sống trong hòa bình, mà hòa bình đã gần 40 năm rồi sao trong lòng cứ thắc
thỏm bất an. Do tuổi già ư? Không phải như vậy.
Làm sao mà yên ổn được khi
bước ra đường phải lo sợ trước bao nhiêu điều hiểm nguy đang rình rập. kẹt
xe, khói bụi ô nhiễm, tai nạn giao thông, đinh tặc, cướp giật, va quẹt xe đưa
đến bị hành hung, cây đổ, dây điện đứt, sụp hố cống.... Một ngày ở thành phố
lớn như Sài Gòn, xảy ra không biết bao nhiêu vụ tai nạn giao thông, bao nhiêu
vụ cướp giật, hành hung, đâm chém...thấy tận mắt hoặc đọc báo, nghe đài mà
oải cả người.
Hầu như mọi thứ thức ăn
đều có nguy cơ chứa chất độc hại do dư lượng thuốc trừ sâu, dư lượng kháng
sinh, do chất kích thích hoặc do làm ra gian dối. Không thể nào yên tâm với
thức ăn ở các hàng quán. Cà phê hóa chất, phở ngâm formol, dầu ăn từ cống
rãnh, chế biến thức ăn bên cạnh nhà vệ sinh... Thực phẩm mua ở chợ về tự chế
biến cũng hoàn toàn không yên tâm. Rau, giá, trái cây đầy rẫy chất kích thích
cực độc (nhất là trái cây Trung cộng), cá thì bị ướp hàn the, thịt thì không
kiểm định hoặc thịt bị dùng chất tăng trưởng độc hại. Bất an với món ăn ở
hàng quán nhưng cũng không thể nào an tâm với bửa ăn tự nấu nướng ở nhà.
Tình trạng ô nhiểm thì
kinh hồn. Đường xá thì khí thải và bụi bẩn bay mù mịt, cống rãnh và kênh rạch
thì đen ngòm vì chất thải bẩn. Rồi ô nhiểm âm thanh mới kinh hồn.
Trong công việc mưu sinh,
bất an khắp mọi nơi. Vật giá liên tục leo thang, quá nhiều công ty nợ nần phá
sản, chiếm dụng vốn và lừa đảo khắp mọi nơi. Khuyến mãi lừa đảo, bán hàng đa
cấp lừa đảo, thế chấp vay lừa đảo... Sự bất an do suy thoái kinh tế làm người
có vốn không dám bỏ tiền ra đầu tư, người làm công cứ thắc thỏm lo mất việc
từng ngày.
Khi bị ngã bệnh, phải đến
bệnh viện thì người dân hoàn toàn không yên tâm. Chỗ nằm thiếu, phương tiện y
tế lạc hậu, tay nghề cũng như lương tâm thấp kém của y bác sĩ có thể làm cho
bệnh nhân không những không được cứu chữa thích đáng mà còn gây ra tử vong vô
lý nữa. Biết bao nhiêu cái chết oan khiên được nêu ra và không được nêu ra do
sự tắc trách của bệnh viện.
Hành chính thì nhũng nhiễu, thường gây ra sự phiền hà cho dân để công chức ăn hối lộ thay vì tận tụy phục vụ dân. Có việc đến cơ quan công quyền như thuế vụ, hải quan, nhà đất, ủy ban các cấp, công an...người dân phải khúm núm quỵ lụy và lo lót thì sự việc mới trơn tru. Có lỗi bị tạm giữ trong đồn công an, người bị tạm giữ hoàn toàn không yên tâm. Chuyện bị chết trong đồn công an đã trở nên quá phổ biến.
Chuyện an ninh quốc phòng
thì được nghe nói đã có đảng và nhà nước lo nhưng người dân hoàn toàn thấy
bất an. Ngư dân ra khơi là bị Trung cộng đuổi bắt hoặc đâm chìm tàu. Tàu
chiến, tàu hải giám, tàu cá của Trung Cộng hầu như đã chiếm lĩnh toàn bộ biển
Đông. Trong đất liền thì chỗ nào, lãnh vực nào cũng có mặt người Tàu.
Cơ quan chức năng và ban
bệ rất nhiều, người dân phải è lưng ra đóng thuế để nuôi một bộ máy nhà nước
vô cùng cồng kềnh, nhưng bộ máy ấy hoàn toàn không làm cho người dân an
tâm.Bất ngờ đau ốm không dễ dàng có xe cấp cứu đến, bị cướp bóc trấn lột
không dễ gì gọi được công an. Thức ăn nhiểm bẩn hầu như không có cơ quan nào
quan tâm.... Người dân cảm thấy bị bơ vơ đơn độc giữa cuộc đời.
Một nhà nước yếu kém, bất
lực và vô trách nhiệm như vậy mà sao vẫn tồn tại lâu vậy nhỉ? Đây có lẽ là
nỗi bất an lớn nhất mà người dân phải mang nặng trong lòng.
|
--------------------------------------------
Trịnh
Công Sơn và tôi
Nguyễn Hữu Thái. Viết
nhân ngày 30/4 năm 2010.
Tác giả bài viết là
người cùng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS) hát bài “Nối vòng tay lớn” tại đài phát
thanh Sài Gòn vào trưa ngày 30/4/1975. Anh nguyên là chủ tịch Tổng hội Sinh
viên Sài Gòn (1963-64), từng là bạn học với TCS ở Huế và cũng là một nhân chứng
trong ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Tôi và TCS cùng học năm tú tài I niên khoá 1956-57 tại trường Thiên Hựu (Providence) ở Huế. Cuộc chiến đã đẩy chúng tôi mỗi người một ngã. Và thật kỳ lạ, chỉ sau 18 năm chúng tôi mới gặp lại nhau tại đài phát thanh Sài Gòn vào trưa ngày lịch sử 30/4/1975 và cùng nhau hát vang bài “Nối vòng tay lớn” nói lên khát vọng hòa bình và thống nhất đất nước. Sau ngày đó anh đã quyết tâm ở lại đất nước, từng kinh qua nhiều bước thăng trầm, nhưng vẫn tiếp tục sáng tác những ca khúc hóa giải hận thù, hòa giải dân tộc nhắm sớm làm lành vết thương chiến tranh...
Vào cái ngày lịch sử
trọng đại ấy
Huỳnh Ngọc Chênh khi đó thuộc nhóm sinh viên tranh đấu Sài Gòn viết lại trên báo Thanh Niên:
“Sáng sớm 30-4, các sinh
viên Hà Thúc Huy và Nguyễn Tân, Huỳnh Ngọc Chênh
cùng một nhóm anh em tập trung ở đại học Vạn Hạnh. Họ đã gặp giáo sư Huỳnh Văn
Tòng và Nguyễn Hữu Thái, một lãnh tụ sinh viên tranh đấu và được phân công
xuống trường đại học Nông lâm súc đối diện đài truyền hình Sài Gòn để tiếp thu
đài. Thấy nhiều người hôi của lục lọi phá phách, họ phân công một nửa số sinh
viên ở lại canh giữ. Huy dẫn nhóm còn lại ra cổng Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn
Thị Minh Khai) để chuẩn bị sang tiếp thu đài phát thanh (ở đường Nguyễn Bỉnh
Khiêm). Đang lúc đó thì xe tăng giải phóng ầm ầm kéo vào, theo đường Hồng Thập
Tự tiến vào dinh Độc Lập. Họ mừng rỡ chạy theo xe tăng để hoan hô. Đến ngã tư
Đinh Tiên Hoàng-Hồng Thập Tự (Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay) thì gặp một xe tải
quân sự chở đầy bộ đội dừng lại hỏi đường đến đài phát thanh. Họ nhảy lên xe
quân sự này để dẫn đường. Khi đến nơi, đài bỏ trống. Đơn vị bộ đội triển khai
canh giữ chung quanh. Họ ùa vào đài để tìm cách mở máy nhưng thất bại vì không
ai rành kỹ thuật. Và không ai biết mình sẽ phát đi lời gì...”
Chênh ghi tiếp:
“Sinh viên và bộ đội
đang loay hoay chưa biết làm gì thì bỗng dưng có hai chiếc xe jeep chở đầy
người chạy vào khuôn viên đài phát thanh. Rất nhiều bộ đội cùng dân sự bước
xuống và họ nhận ra ngay hai ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu, tổng thống và
thủ tướng mới nhậm chức của chính quyền Sài Gòn. Một trong hai người chỉ huy
yêu cầu sinh viên tìm cách cho tướng Minh đọc lời đầu hàng trên đài phát thanh.
Ông nói xong, kéo cả đoàn người mới đến lên lầu một, vào phòng khách theo hướng
dẫn của sinh viên. Trong lúc đó, một sinh viên chạy đi tìm nhân viên đài. Tại
phòng khách, ngoài hai ông Minh-Mẫu, hai chỉ huy bộ đội (sau này họ mới biết là
trung tá chính ủy lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng và đại úy bộ binh Phạm Xuân
Thệ) và vài anh bộ đội còn có hai người dân sự nữa là anh Nguyễn Hữu Thái và
một nhà báo nước ngoài (nhà báo Tây Đức Borries Gallasch của đài truyền hình
Đức)”.
Trưa
30/4/1975 tại đài phát thanh Sài Gòn, tác giả cầm tập giấy trắng
Tôi đích thân đứng ra
điều hành buổi phát thanh ấy, giúp tổ chức ghi âm và giới thiệu lời đầu hàng
của tổng thống cuối cùng Việt Nam Cộng hòa đại tướng Dương Văn Minh cùng lời
chấp nhận đầu hàng của chính uỷ Bùi Văn Tùng.
Cùng hát vang “Nối vòng
tay lớn”
Nhóm sinh viên chủ động
tự biên tự diễn chương trình phát thanh, chủ yếu làm sao đưa ra được lời tuyên
bố đầu hàng của tướng Minh, thông báo chính sách của chính quyền cách mạng đối
với vùng mới giải phóng nhằm trấn an dư luận dân chúng Sài Gòn, vùng Đồng bằng
sông Cữu Long, các hải đảo. Xen kẻ vào các lời ghi âm sẳn phát đi phát lại nêu
trên, chúng tôi tranh thủ kêu gọi đại diện đồng bào các giới đến lên tiếng trên
làn sóng phát thanh.
Về phía nghệ sĩ thì nhạc
sĩ Nguyễn Đức là người lên tiếng đầu tiên chào mừng thắng lợi vĩ đại của dân
tộc và kêu gọi anh chị em nghệ sĩ yên tâm hợp tác với chính quyền cách mạng. Có
lẽ do nghe tiếng nói những người quen như tôi và Nguyễn Đức mà TCS mạnh dạn
xuất hiện. Thấy trong đám đông ùa đến đài có nhạc sĩ TCS, anh em sinh viên đưa
anh vào và tất cả cùng anh hát bài Nối vòng tay lớn. Không có đàn trống,
chúng tôi vổ tay, khỏ nhịp lên bàn cùng nhau hát vang:
Rừng
núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà
Mặt đất bao la anh em ta về
Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng
Trời rộng bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam
........
Từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay
Ta đi từ đồng hoang vu vượt hết núi đồi
Vượt thác cheo leo tay ta vượt đèo
Từ quê nghèo lên phố lớn
Nắm tay nối liền biển xanh sông gấm nối liền một vòng tử sinh.
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà
Mặt đất bao la anh em ta về
Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng
Trời rộng bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam
........
Từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay
Ta đi từ đồng hoang vu vượt hết núi đồi
Vượt thác cheo leo tay ta vượt đèo
Từ quê nghèo lên phố lớn
Nắm tay nối liền biển xanh sông gấm nối liền một vòng tử sinh.
Bài
hát ra đời từ mấy năm trước, nói lên giấc mơ của dân tộc nay mới trở thành hiện
thực. Đây là bài hát đầu tiên được phát lên sóng của đài phát thanh Sài Gòn
ngày giải phóng. Phải gần 20 năm sau tôi mới gặp lại người bạn học cũ, gặp nhau
trong ngày trọng đại này.
Bài
hát này xuất hiện cùng với Huế Sàigòn Hà Nội, Ta phải thấy mặt trời, Việt
Nam ơi hãy vùng lên, Đồng dao hòa bình... vào các năm 1968-69 cổ vũ cho
tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc, nói lên khát vọng hòa bình, thống nhất đất
nước. Ngày 30-4-1975, chiến tranh chấm dứt tại Sài Gòn mà không đổ máu, ước mơ
trong các bài hát của TCS đã trở thành hiện thực. Có hạnh phúc nào bằng? Vinh
dự biết bao! Thế hệ chúng tôi tự hào có TCS phát lên tiếng gọi hòa hợp hòa giải
dân tộc đầu tiên ngay sau khi chấm dứt chiến tranh. Làm một người nghệ sĩ, TCS
chỉ cần sự kiện sáng tác Nối vòng tay lớn, hát Nối vòng tay lớn như
thế là đã có tên trong bảng đồng bia đá rồi.
Trịnh Công Sơn và Nguyễn Hữu Thái - 1980
Sau
này khi được nghe tiếng nói thật lòng thân thương của anh bộ đội Nguyễn Văn Thọ
thì tôi càng thấy hết ý nghĩa cần thiết của tiếng hát TCS và bạn bè vào giờ
phút lịch sử ấy:
“Bài
hát đã có tác động làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hàng
triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế thật quá trọng
đại !” Đó là cảm giác ghi lại của anh bộ đội Nguyễn Văn Thọ khi tiến vào Sài
Gòn trên chiếc xe Jeep Mỹ từ phía Củ Chi. Anh viết tiếp :
“Mặt
đất bao la anh em ta về gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng...”
Lời
ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như
kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận
và hằn học. Chúng tôi tiến vào Sài Gòn... Chiến tranh nào bao giờ chẳng có mặt
trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều
thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc dễ nổi cáu và nổi dóa”.
Cảm
nhận của những người trẻ ngày nay cũng không mấy khác. Nhân kỷ niệm 30 năm ngày
giải phóng Sài Gòn, một em viết rằng:
“Khi
Trịnh Công Sơn viết bài hát Nối vòng tay lớn, ắt hẳn anh đã vô cùng
thiết tha mong mỏi cái ngày mà Trời rộng, bàn tay ta nắm, nối trọn một vòng
VN.
Thuở
ấy, từ những năm cuối thập niên 1960, phải chăng Nối vòng tay lớn đã trở
thành một trong các bài hát phổ biến trong sinh hoạt tập thể SVHS ở miền Nam.
Thuở ấy, Nối vòng tay lớn đã được tuổi trẻ hát lên với tất cả niềm hân
hoan nhiệt thành. TCS đã viết Nối vòng tay lớn cho khắp cả miền Nam cùng
hát, thế nhưng ít ai có dịp nghe anh hát. Vậy mà có một ngày, cái ngày trọng
đại của thành phố Sài Gòn và cũng là của cả nước, 30-4-1975, người dân Sài Gòn
bỗng được nghe TCS hát Nối vòng tay lớn.
Chiều
30-4-1975, phần lớn người dân Sài Gòn đều túa ra đường để được tận hưởng bầu
không khí hân hoan, phấn khởi của ngày thành phố được giải phóng. Chính vào lúc
ấy, những người dân ở nhà mở radio nghe tin tức qua Đài phát thanh Sài Gòn đột
nhiên có cảm giác khác lạ khi chương trình chợt lặng đi một chút và tiếp ngay
đó là tiếng của TCS: “Tôi là Trịnh Công Sơn...”, rồi anh cất tiếng hát bài Nối
vòng tay lớn.
Mặc
dù lúc đó TCS chỉ hát “chay” nhưng người nghe cảm thấy xúc động dâng trào khi
nghe anh hát trong giờ phút lịch sử ấy của dân tộc. Bài hát thể hiện lòng mong
ước của tuổi trẻ sinh viên học sinh, của toàn dân tộc Việt Nam nay đã trở thành
hiện thực.
Giờ
đây, đã 30 năm qua. Trong phút giây thiêng liêng kỷ niệm 30 năm lịch sử này,
sao cứ tưởng như vẫn còn nghe đâu đây tiếng hát của anh: Trời rộng, bàn tay
ta nắm, nối trọn một vòng Việt am...”
Vậy
mà sự kiện này cũng có không ít người xuyên tạc. TCS buồn và đắng cay cho cái
bi kịch cuộc đời trước những ấu trĩ đó. Anh tâm sự với một người bạn từng hiểu
và giúp đỡ tinh thần anh nhiều. Người này khuyên TCS: “Đừng buồn nữa vì dù sao
tiếng hát Sơn cũng đã đi vào lịch sử, mà lịch sử thì đâu có chờ đợi ai!”
Không
phải chỉ có TCS, mà chính bản thân tôi một thời gian dài sau 30/4/1975 cũng
từng bị gán cho là “cướp công cách mạng”, dám có mặt tại Dinh Độc Lập giúp bộ
đội kéo cờ lên nóc Dinh Độc Lập và giới thiệu lời đầu hàng của tướng Dương Văn
Minh tại đài phát thanh Sài Gòn.
Tiếng
hát hóa giải hận thù, hòa giải dân tộc
Lần
đầu tiên tôi nghe những bài hát phản chiến của TCS khi ở tù ra bị đưa thẳng vào
quân trường Quang Trung đi lính vào cuối năm 1967. Người bạn học cũ bấy giờ
đang sáng tác nhạc, xuất sắc nhất là loạt bài Ca khúc da vàng. “Tôi có
người yêu chết trận Pleime. Tôi có người yêu ở chiến khu Đ chết trận Đồng
Xoài...” Những lời ca bi thảm của ca sĩ Khánh Ly trong những đêm quân trường
vang lên rờn rợn như từ nhà mồ làm tình cảnh những người như chúng tôi càng thê
lương và rã rời hơn.
Cùng
học với nhau một năm thì Sơn thi rớt tú tài và biến đâu mất. Tôi còn giữ tấm
hình lưu niệm nhỏ trao đổi nhau khi rời ghế nhà trường năm ấy. Một thanh niên
điển trai, khỏe mạnh lạc quan nhìn về tương lai. Khác với hình ảnh hiện nay của
Sơn, gầy ốm, tiều tụy. Nghe nói bấy giờ anh cũng đang trốn lính, sống phiêu bạt
và đói rách lắm! Tôi không ngờ người bạn học thời trung học nay lại sáng tác
được những lời ca làm xúc động lòng người đến như vậy. Trước khi vào tù, tôi có
thoáng nghe mấy bài tình ca của anh, nhưng lại không để ý lắm vì tôi đã từ bỏ
những ca khúc yêu đương lãng mạn và tìm về những bài ca gây sự phấn khích đấu
tranh. Trong những năm chiến tranh, các băng cát xét hàng loạt bài nói về tình
yêu, chiến tranh và thân phận con người của TCS đã thực sự có mặt khắp hang
cùng ngõ hẻm miền Nam và có tác dụng gây ý thức chán ghét chiến tranh.
Tuy
vậy, nội dung nhiều ca từ cũng gợi lên hình ảnh nội chiến không được phía Giải
phóng tán đồng. “Một nghìn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, hai
mươi năm nội chiến từng ngày”. Tuy vậy, tôi vẫn nghĩ có lẽ chưa có ai ở miền
Nam lại nói lên được thân phận của lớp thanh niên chúng tôi bằng TCS qua những
ca khúc ngày càng mang tính chống chiến tranh, chống ngoại xâm. Tôi chưa gặp
lại TCS trong những năm này, nhưng vợ tôi Trần Tuyết Hoa khi còn sinh viên lại
chơi thân với anh do hoạt động trong phong trào hòa bình và thúc đẩy anh sáng
tác ca khúc phản chiến, tổ chức cho anh trình diễn trong tập thể sinh viên.
Cuộc chiến đã đẩy chúng tôi mỗi người một ngã, không biết ngày mai sẽ ra sao
đây?
Giòng
nhạc của TCS sau 30/4/1975 lại gây tranh luận, nhất l trong cộng đồng người
Việt ở nước ngoài. Anh phải chăng là “một kẻ phản bội chính nghĩa Quốc gia”
(đối với người chống Cộng ở nước ngoài) hay “một kẻ lừng chừng không có lập
trường rõ rệt” (đối với chính quyền cách mạng trong nước)?
Đối
với TCS, văn hóa luôn đứng trên chính trị, cho nên anh chỉ đơn giản là hiện
thân của tâm hồn Việt Nam sống sót sau chiến tranh, nhất định không rời bỏ quê
hương và đồng bào mình, không muốn phân biệt đối xử với ai. Anh luơn sng tc với
một tấm lòng mong muốn mọi người nhanh chóng vượt qua khó khăn và những chấn thương
chiến tranh, tìm ra được tiếng nói hòa giải lẫn nhau giữa những con người Việt
để cùng bảo vệ cái ‘Hồn dân tộc’ vẫn mãi tồn tại sau chiến tranh.
Những
nhà nghiên cứu về TCS ở nước ngoài hoặc đã cố tình bỏ qua một mảng sáng tác rất
quan trọng này của TCS hoặc có làm thì cũng chưa nhận thức rõ chúng một cách
khách quan. Có lẽ do họ không sâu sát được tình hình trong nước sau chiến
tranh. Riêng anh đã xác định thế đứng của mình là không ra đi khi nói với cc nh
bo Php rằng: “Trong các bài hát tôi đều kêu gọi hòa bình, thống nhất.
Làm sao tôi có thể nghĩ đến chuyện ra đi !” Và cũng xác định quan niệm
đứng trên mãnh đất quê hương để sáng tác: “Nếu tôi ra nước ngoài, tôi
không viết được. Không thể trồng một cây Việt Nam trên đất Mỹ hay Pháp được!”
Thật
vậy, những ca khúc TCS sáng tác sau chiến tranh đã nói lên thân phận con người
sống sót sau chấn thương chiến tranh, tình yêu quê hương và ý hướng hòa giải
dân tộc: Em còn nhớ hay
em đã quên, Huyền thoại mẹ, Đời gọi em biết bao lần, Chiều trên quê hương tôi,
Em ở nông trường em ra biên giới, Chiếc lá thu phai, và cả Nhớ mùa thu
Hà Nội, Thành phố mùa xuân, Tình khúc Ơ bai, Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui,...
Vào
thời điểm khó khăn sau chiến tranh đó mà TCS vẫn rất nhân bản khi nói về con
người Việt: “Văn hóa Việt Nam vẫn tồn tại. Chiến tranh cùng những hậu quả
chỉ làm đổ vở vật chất. Nhưng linh hồn vẫn sống...” Và anh xác định tính
cách nhân ái của người mình: “Người Việt Nam dễ tha thứ. Họ thừa khả năng
quên đi những kỷ kiệm không hay...” Điều đó thực hiện ngay nơi chính bản
thân anh, một người Việt: “Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi”(Mỗi
ngày tôi chọn một niềm vui).
Di
hại của chấn thương chiến tranh thật ghê gớm, kéo dài hàng mấy thập kỷ sau ngày
ngưng tiếng súng. Ngoài nước, người Mỹ vẫn thù hận, tiếp tục dựng lên cả một
chiến dịch quân sự lẫn chính trị quốc tế bao vây và làm tổn hại Việt Nam suốt
hai thập kỷ. Người Việt chống Cộng bên ngoài thì tiếp tay với các thế lực thù
địch quốc tế điên cuồng chống phá quê hương... Ở trong nước, xuất hiện không ít
ấu trĩ của giai đoạn đầu của chế độ cách mạng khiến hàng vạn người Việt Nam
tiếp tục bỏ nước ra đi, tạo sự phân biệt đối xử với người còn ở lại. Nhưng nhân
dân Việt Nam dù đứng trong phía nào của các phe đối nghịch nhau đây đó trong và
ngoài nước đều cất tiếng hát TCS để được “ru dỗ” mình trong những cơn hoảng
loạn tinh thần, bế tắc của giai đoạn khó khăn đó.
Đây
là một sự kiện lạ lùng có một không hai trong lịch sử Việt Nam lẫn của cả thế
giới. Dần dần tiếng hát đó đã có tác dụng tạo được một nhịp cầu nối liền những
người Việt ở các phía đối nghịch xích lại gần nhau. Một quá trình hóa giải hận
thù, hòa giải hòa hợp đang hình thành và vẫn còn tiếp diễn...
TCS
đã là một phần trong cuộc sống của chúng tôi rồi...
Sau
ngày giải phóng, chúng tôi gặp gỡ nhau thường xuyên hơn do gắn bó với nhau qua
phong trào “Ca khúc chính trị” của Hội trí thức yêu nước. Anh cùng Phạm Trọng
Cầu, Trương Thìn, Trần Long Ẩn, Hoàng Hiệp, Thanh Hải, Miên Đức Thắng... là
những cái đinh trong phong trào văn nghệ sôi nổi này.
Vào
đầu những năm ’90 của thế kỷ trước khi TCS sang Canada, cả nhà tôi đều gặp mặt
anh, riêng tôi không gặp để đỡ gây phiền toái cho anh đối với những người chống
Cộng còn quá hận thù Việt Nam. Nhưng từ khi về nước làm việc sau 1995, tôi
thường gặp lại anh, cùng nhau ngồi ôn lại thời học cũ, nói với nhau về những
người bạn chung, nay ở đâu, ai còn ai mất. Và nhất là nghe con trai tôi Thái
Hoà cùng Jennifer Thomas hát những ca khúc mới của anh.
TCS
vẫn quyết tâm ở lại đất nước sau năm 1975, tuy bị đố kỵ không ít suốt từ Huế
đến Sài Gòn. Nhưng rõ ràng là tài năng lẫn lòng yêu nước của anh đã được khẳng
định. Tôi nhớ mãi sau ngày giải phóng, loạt ca khúc chính trị của anh dẫu tích
cực cách mấy cũng bị xuyên tạc và phê phán nghiệt ngã, cuối cùng người ta mới
hiểu ra. Con trai và con gái tôi là Thái Hoà và Thiên Nga về nước lại thân
thiết với anh hơn tôi vì họ cùng chơi nhạc với nhau.
Lần
cuối gặp gỡ TCS khi tôi cùng giáo sư Trần Văn Khê đến thăm anh ở nhà đường Duy
Tân cũ năm 1998. Họ đều nhiều bệnh và mãi tâm sự nói với nhau về căn bệnh chung
là tiểu đường. Sơn đã gầy yếu quá và chỉ mấy năm sau là anh vĩnh viễn ra đi, để
lại một gia tài âm nhạc thật to lớn. Không ai ngờ người bạn bình thường ngày
nào đó là một tài năng văn nghệ mà có lẽ hàng trăm năm đất nước mới sản sinh
được một người. Chúng tôi vẫn gọi TCS là Nguyễn Du của thế kỷ 20.
Tác giả với Trịnh Công Sơn tại nhà - 1998
Mối
tâm giao giữa TCS cùng tôi và gia đình chúng tôi khởi đầu từ tình bạn thời học
sinh, sinh viên rồi kinh qua những năm thao thức và trăn trở thời tuổi trẻ
đấu tranh Sài Gòn. Nhưng trên hết có lẽ là tác động của âm nhạc TCS, nó đã trở
thành một phần trong cuộc sống và hoạt động của chúng tôi rồi...
Riêng
đối với tôi, sự kiện cùng TCS hát bài Nối vòng tay lớn vào trưa ngày
30/4/1975 tại đài phát thanh Sài Gòn không những có một ý nghĩa đặc biệt đón
chào ngày hòa bình thống nhất đất nước mà cũng đánh dấu bước khởi đầu cuộc hành
trình mới sau chiến tranh của thế hệ chúng tôi trong công cuộc làm lành vết
thương chiến tranh, hòa giải dân tộc.
Nguyễn Hữu Thái
Viết nhân ngày 30/4 năm 2010.
Viết nhân ngày 30/4 năm 2010.
Thật ghê sợ cho những tư tưởng hận thù và hẹp hòi khi cố đọc bài trên!
ReplyDeleteMấy thằng chó Bắc kỳ CS hận thù còn ghê gớm hơn sao chú mày không thấy ?...Hay bị ăn phân HCM rồi ?
Delete