Fr: NHDong
QUỐC GIA
Qua loạt bài đã viết, chúng ta bàn với nhau về
Nhân Bản, Dân Chủ, Bình Đẳng, Quốc Hội, Dân Biểu, Tổng Thống, Chính
Quyền, Tư Pháp, Hiến Pháp và Viện Bảo Hiến..
Đó là những tư tưởng nền tảng của một Quốc Gia.
Chúng ta muốn cho Việt Nam là một Quốc Gia Nhân
Bản và Dân Chủ,
- trong đó mọi người đều có
quyền Bình Đẳng;
- một Quốc Gia Hiến Định,
trong đó quyền và nhiệm vụ của mỗi thành phần Quốc Gia đều được Hiến Pháp xác
định và bảo đảm.
- Chính Quyền hành xử quyền
bính trong giới mức do Hiến Pháp quy định rõ rệt, không được tác oai tác quái
tuỳ hỷ đối với nhân phẩm , quyền và tự do của con người;
- một Quốc Gia có được các dân
biểu đại diện do kết quả của
* " cuộc bầu cử phổ
quát, trực tiếp, tự do, bình đẳng và kín" ( Điều 38, đoạn 1 Hiến
Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức),
nói lên tiếng nói trung thực và nguyện vọng của
từng lớp dân chúng trong Quốc Hội với nhiệm vụ " kiểm soát và
hướng dẫn đường hướng chính trị Quốc Gia", qua các động tác " chuẩn
y hay bác bỏ các đạo luật và chương trình hành động " đối với
Hành Pháp.
Qua những tư tưởng đã được bàn, giờ đây chúng ta
có thể dùng những quan niệm đó để phát họa một vài nét chính cho ý nghĩ Quốc
Gia mà chúng ta muốn đem lại cho đất nước chúng ta trong tương lai.
Dĩ nhiên đã gọi là phát họa, thì có nghĩa là
chưa hoàn hảo, xác định vĩnh viễn. Nhưng ít nhứt cũng có một sơ đồ để từ đó dần
dần chúng ta có thể thêm bớt, sửa đổi cho hoàn hảo hơn, bởi vì Quốc Gia là một
thực thể sống động, tăng trưởng và thích nghi để đáp ứng với hoàn cảnh và nhu
cầu dân tộc, qua các biến chuyển của lịch sử.
Đàng khác các ý tưởng về Quốc Gia cũng như Hiến
Pháp có thể được sửa đổi, tu chính để kịp đà biến chuyển của cuộc sống,
- nhưng một số tư tưởng nền
tảng về địa vị bất khả xâm phạm của con người, về Nhân Bản và Dân Chủ,
- tính cách đại diện và nhiệm
vụ chuẩn y hay bác bỏ luật pháp của Quốc Hội,
- cũng như tính cách
bảo chứng ( garantisme) của Hiến Pháp sẽ là những ý tưởng nồng cốt bất di
dịch, được chúng ta tồn giữ trong tổ chức Quốc Gia tương lai của chúng ta, nếu
chúng ta còn muốn cho Việt Nam là một Quốc Gia Tự Do, Nhân Bản và Dân Chủ.
I - Vài hình thức Quốc
Gia.
Không kể đến các tổ chức
bộ lạc và xã hội " không đầu não" ( acéphale), những hình
thức tổ chức xã hội mộc mạc còn sót lại mà các nhà khảo cứu xã hội học quan sát
được ở một vài miền đất Phi Châu, tổ chức cộng đồng có ý nghĩa nhứt cho cuộc
sống chung là tổ chức "Thị Xã" ( Polis) của người Hy Lạp thời
cổ, mà chúng tôi đã có dịp nhắc đến trong bài THAM VỌNG CHÍNH TRỊ.
a) Tổ
chức " Thị Xã" được chúng ta gọi là " tiền
Quốc Gia"
-
không những là những tổ chức chỉ thực hiện được được trong lãnh vực nhỏ bé của
Thị Xã, cũng như những bất lợi, mà chúng ta đã có dịp bàn đến như chọn người
lãnh đạo bằng cách rút thăm thay gì bầu cử,
-
mà còn là những tổ chức của thể chế dân chủ trực tiếp, không mảy may
có kinh nghiệm nào về tổ chức Quốc Gia theo thể chế dân chủ đại diện của chúng
ta, với các cơ cấu Quốc Gia được tổ chúc theo chiều cao, cách điều hành nhịp
nhàn của nhiều đơn vị khác nhau và với nhau.
b)
Tổ chức " Nước Cộng Hoà Roma" ( Res
Publica Romana).
Theo nguyên ngữ " Res
Publica Romana": công việc, tổ chức, cơ chế cộng đồng của dân Roma.
Việc lãnh đạo
của tổ chức được nhiều Thẩm Phán Đoàn đảm nhận.
Các Thẩm Phán Đoàn có
nhiệm vụ khác nhau , từ Hành Pháp đến Tư Pháp. Một trong những nhiệm vụ nổi bậc
của Thẩm Phán Đoàn là biện hộ miển phí cho người dân, khi họ cần đến ( Provocationem
ad Populorum).
Tổ chức " Nước
Cộng Hoà Roma " đặt nền tảng trên dân chúng ( Populus)
và trên thành phần quý tộc ( Aristocratia).
Dân chúng hợp lại, có
quyền bầu ra Thẩm Phán Đoàn.
Thành phần qúy tộc, được
coi là qúy tộc kể cả những vị giữ chức thẩm phán trong nhiệm kỳ trước, có nhiệm
vụ chọn các Thượng Nghị Sĩ ( Senator) để hợp thành Thượng
Viện ( Senatus) với nhiệm vụ đối ngoại.
Mặc dầu tổ chức " Nước
Cộng Hoà Roma" không có những yếu tố tổ chức Quốc Gia của chúng ta,
nhưng Bộ Luật Roma là di sản cho nhiều tổ chức Quân Chủ ở Âu
Châu thời Trung Cổ, có ích nhiều ảnh hưởng đến quan niệm tổ chức Cộng Đồng Quốc
Gia của chúng ta hiện tại:
- "
Bất cứ điều gì làm nhà vua hài lòng là có giá trị luật pháp " ( quod
principi placet, habet vigorem).
-
" Nhà vua có quyền cai trị trên mọi người, còn thần dân có quyền
tư hữu" ( ad reges potestas omnium pertinet, ad singolos proprietes).
Và không những thời
Trung Cổ, mà cả hiện tại chúng ta cũng dùng nhiều tư tưởng của Bộ Luật Roma:
- "
Trao trả cho mỗi người, điều gì thuộc về anh ta" ( Suum cuique tribuere).
Nhiều Bộ Dân
Luật ( Droit Civile) của các nước Tây Âu đều dựa vào Bộ Luật Roma. Các nhà
làm luật, mỗi khi đề cập đến bộ luật trên chỉ cần nhắc là:" theo điều
đã được ghi trong Luật Roma" ( Ratio Scripta).
Và nếu ai có học về Giáo
Luật của Giáo Hội Công Giáo, cũng sẽ thấy Bộ Giáo Luật trích dẫn nhiều điều
khoản của Bộ Luật Roma.
c) Tổ
chức lãnh thổ phong kiến ( féodalisme).
Tổ chức Quốc Gia hiện
nay của chúng ta khác với các tổ chức lãnh thổ phong kiến, trong đó
-
quyền của vua,
-
quyền của các lãnh chúa đối với vua
- và
các lãnh chúa đối với nhau là những mạn lưới chằng chịt đan kết, dụng chạm
nhau.
Tình trạng đó đã khiến
cho thời Trung Cổ được coi là thời kỳ tranh chấp, nội chiến, lãnh địa nầy chống
lãnh địa kia, hoàng tộc nầy chống hoàng tộc nọ.
Trong tổ chức Quốc Gia
chúng ta trái lại: quyền cai trị đất nước được quy về một mối, nơi các
cơ quan công quyền.
Dù có những dị biệt đó,
tổ chức lãnh thổ phong kiến, với các đại diện cho hệ phái, khu vực, lãnh
thổ là tiền thân của hình ảnh những vị dân biểu, đại diện cho
quận, tỉnh, vùng, đảng phái, nghiệp đoàn trong tổ chức Quốc Gia chúng ta.
II - Bối cảnh lịch sử.
Chúng ta đã duyệt qua
những tổ chức " tiền Quốc Gia" của thời Thượng Cổ và
Trung Cổ, cùng với những ưu khuyết điểm liên hệ.
Câu hỏi được đặt ra: có
phải vì ý thức đến những bất toàn của các tổ chức trên , không đáp ứng được
nguyện vọng tiện bộ xã hội đương thời mà các Quốc Gia, nhứt là các Quốc Gia Tây
Âu đã nghĩ ra cách tổ chức Quốc Gia để thích ứng hay Quốc Gia được thành hình
do những nguyên cớ nào khác?
Câu trả lời cho vấn nạn
đó, chúng ta tìm được qua những bối cảnh lịch sử dưới đây.
Tổ chức Quốc Gia hiện
đại là một tổ chức chính trị, nhằm đáp ứng lại những đòi hỏi chính trị nào
đó, nên nguyên nhân tổ chức đất nước thành Quốc Gia phải đặt nền tảng
trên lãnh vực chính trị.
Giở lại lịch sử, chúng
ta nhận thấy thế giới ngay từ cuối thế kỷ 15 đã sống trong tình trạng bất ổn,
nhiều trận chiến liên miên với những đoàn quân hùng hậu, ồ ạt của nước nầy qua
xâm chiếm nước khác. Và chiến tranh vẫn còn kéo dài cho đến thế kỷ
20, qua hai cuộc đệ I và đệ II thế chiến đã làm cho bao nhiệu triệu người phải
thiệt mạng , mà ai trong chúng ta cũng biết được.
Đàng khác, như đã đề cập
ở trên, thế giới của các lãnh thổ phong kiến là thế giới của nội
chiến, của băng đảng, phe nhóm, trả thù phục hận.
Đứng trước hoàn cảnh đó,
các Quốc Gia, nhứt là các Quốc Gia Tây Âu, nếu muốn sống còn, không có cách nào
khác hơn là phải tổ chức lãnh thổ thành Quốc Gia,
- để
minh xác sự hiện hữu của mình trên chính trường quốc tế
- cũng
như để dẹp nội loạn, nguyên cớ làm giảm thiểu tiềm lực chống đỡ ngoại xâm của
mình:
" Nhiều vị
lãnh đạo đất nước phải đáp ứng với tình thế, cần tổ chức đất nước, lãnh địa
thành Quốc Gia, để bành trướng sức mạnh nội địa, cũng cố biên giới lãnh thổ,
ngăn cản và chia tách chiến tranh ra khỏi hoà bình" ( Nicola Matteucci, Lo
Stato Moderno, Bologna, Il Mulino, 1993, 2).
Và muốn bành trướng sức
mạnh nội địa cũng như giữ vững biên giới khỏi ngoại xâm, Quốc Gia tân tiến
không thể chỉ trao dồi thủ thuật chiến tranh hay "Bấp thịt trước đã",
nói như tựa đề một quyển sách dạo nọ ở Sàigòn, mà lúc còn học sinh trung học,
chúng tôi rất say mê.
Quốc Gia còn phải suy tư
về nhiều chương trình khác, mà chúng ta sẽ đề cập đến khi chúng ta định nghĩa
về Quốc Gia.
Nhưng bối cảnh lịch sử
với những biến chuyển trên bình diện quốc tế như vừa kể không phải là những yếu
tố duy nhứt để biến những tổ chức " tiền Quốc Gia" đến
hình thức tổ chức Quốc Gia hiện nay.
Tâm thức của những nhà
lãnh đạo không những muốn Quốc Gia
- vững
mạnh về quân sự, để phô trương " Bấp thịt trước đã "
đối với quốc tế hầu bảo vệ biên cương,
- mà
còn nhằm thay đổi đường lối cai trị thành chương trình lãnh đạo, quản trị Quốc
Gia một cách tự do và hợp lý, trong đó con người được bảo đảm phẩm giá của mình
và có cơ hội phát triển hoàn hảo con người mình.
Đường hướng lãnh đạo
Quốc Gia một cách tân tiến như vừa kể chịu ảnh hưởng sâu đặm hai cuộc cách mạng
vào cuối thế kỷ XVIII.
Đó là
- Cuộc
Cách mạng Hoa Kỳ 1776
- và
Cuộc Cách Mạng Pháp 1789.
Tinh thần cải tổ của hai
Cuộc Cách Mạng trên, chúng ta có thể nói là những Cuộc Cách Mạng Dân Chủ, là
qui luật một cách xác thực và rõ ràng những điều khoản luật pháp, nền tảng cho
đất nước, mà từ trước đến nay chỉ dựa vào những quy luật cố hữu, tập tục không
biết từ bao đời.
Mục đích chính của tinh
thần hai Cuộc Cách Mạng, nhứt là Cuộc Cách Mạng Pháp Quốc là quy định
một Hiến Pháp, làm bảo chứng cho quyền và tự do của con người và người dân
(Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân 1789 ).
Hiến Pháp nhằm bảo
vệ quyền làm người và quyền tự do chính trị chống lại mọi lạm
quyền của Hành Pháp.
Trong tinh thần đó,
người công dân không phải là thần dân có nhiệm vụ phục dịch vua như tôi tớ, mà
- Quốc
Gia được tổ chức để phục vụ người dân nói riêng
- và
lợi ích chung của đất nước nói chung.
Tinh thần của luật pháp
( Rule of Law), tinh thần của Hiến Pháp (Constitutionalisme),
tính cách bảo chứng của Hiến Pháp ( Garantisme) hay luật lệ
Quốc Gia ( Rechstaat) đều nói lên tinh thần bênh vực và bảo vệ người
dân chống lại mọi lạm quyền của Chính Phủ.
Nhìn qua Hiến Pháp các
Quốc Gia Tây Âu, kể cả Hoa Kỳ, chúng ta thấy Hiến Pháp bảo vệ người dân bằng
hai hình thức:
- Hình
thức thông thường mà ai trong chúng ta cũng biết, đó là Hiến Pháp phân
chia quyền lực Quốc Gia thành ba cơ cấu độc lập: Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp,
để tránh sự tập trung quyền lực vào tay một tổ chức hay một cá nhân, như trường
hợp các thể chế Quân Chủ độc tôn (Monarchie absolue hay
Absolutisme). Chúng ta vẫn thường nghe các thành ngữ như:
-
" Vua đại diện trời để trị dân" ( Dei Vicarius),
-
" Vua không bị luật lệ nào ràng buộc" ( Legibus solutus),
-
" Vua có quyền toàn năng" ( Plenitudo potestatis),
- "
Vua không nhận biết quyền lực nào cao hơn" ( Superiorem non riconoscens),
- "
Điều gì vua khoái là luật" ( Quod principi placet, habet vigorem).
Hiến Pháp được lập ra
trong thể chế dân chủ là vậy.
Biết đâu trong tương lai
chúng ta cũng cần có một Hiến Pháp
- để
bảo vệ người dân thấp cổ bé họng,
- để
họ đạp bỏ đi tư cách hách dịch tự phong cho mình là " Đảng và Nhà
Nước Cộng Sản Việt Nam có công giải phóng đất nước, nên được quyền cai trị vĩnh
viễn" ( Plenitudo potestatis sine fine dicentes).
- Hình thức lằn
mức hiến định.
Dĩ nhiên chúng ta có thể
tìm thấy cả hai hình thức trong cùng một Hiến Pháp,
* đó
là Hiến Pháp giới hạn rõ rệt ranh giới mà Hành Pháp không thể vượt qua,
* hoặc
những cơ chế khác có thể hạn chế, điều tra, xét xử và truất phế Hành Pháp,
trong trường hợp Chính Phủ không tuân hành các điều khoản của Hiến Pháp.
Như đã trình bày ở trên,
chúng ta thấy kết quả của hai Cuộc Cách Mạng Dân Chủ vừa kể là để thiết lập ra
Hiến Pháp, quy định các điều khoản của Công Pháp ( Droit Public)
thành văn bản rõ ràng, chính xác và hữu lý để bảo vệ dân chúng đối với các cơ
chế Quốc Gia nói chung và đặc biệt đối với Hành Pháp.
Đó là tinh thần và nền
tảng của một Quốc Gia Tự Do.
Nói cách khác, khi chúng
ta nói: " Việt Nam là một Quốc Gia Tự Do ", điều đó
không có gì khác hơn là
-
" Việt Nam là một Quốc Gia trong đó mọi quyền tự do của người dân
Việt Nam được Hiến Pháp xác định và bảo vệ một cách rõ rệt hay Việt Nam là một
Quốc Gia Pháp Trị ( État de droit).
Kế đến nếu hai Cuộc Cách
Mạng dân chủ vừa kể đã viết thành văn bản các điều khoản của Công Pháp thành
Hiến Pháp, thì công trạng không kém của những vị tiền phong dưới đây đã quy
định lại hệ thống luật lệ thời Trung Cổ thành văn bản của Bộ Dân Luật:
- Vua
Friedrich II của Đức,
-
Hoàng hậu Marie Thérèse của Áo,
- Thủ
Tướng H.F. Daguesseau của Pháp.
Các vị trên đây bắt tay
vào việc đúc kết hệ thống luật lệ của thời Trung Cổ thành Bộ Dân Luật, với ý
hướng rằng nền hành chánh của vương quốc phải dựa trên hệ thống luật
pháp thống nhất.
Hệ thống luật pháp của
thời Trung Cổ vẫn có hiệu lực đến thế kỷ XIX, dựa vào các bản luật sau đây:
- Bộ
luật Napoléon của Pháp,
- Bộ
luật 1794 của Đức,
- Bộ
Luật ( ) của Áo.
- Các
luật lệ dựa vào tập tục cổ truyền,
- Các
luật lệ dựa theo luật tự nhiên,
- Bộ luật
Roma.
Một hệ thống luật dựa
trên bao nhiêu yếu tố luật như vừa kể, không thể nào có tính cách thống nhất và
mạch lạc được.
Do đó việc áp dụng luật
pháp cũng trở thành mập mờ, không chắc chắn. Quy định luật lệ có nghĩa là sắp
đặt lại hệ thống, mạch lạc, dựa vào những nguyên tắc tổng quát và căn cứ vào những
quan niệm hữu lý có liên quan đến hành động con người. Từ đó rút ra những áp
dụng vào các trường hợp cá biệt.
Kết quả của việc quy
định lại Bô Dân Luật trên là hệ thống luật của Tây Âu trở thành hệ thống khuôn
thước đóng kín, khách quan, hữu lý và vô tư, nhà làm luật hay nhà khoa học có
thể dùng lý luận suy diễn từ nguyên tắc chung đến áp dụng thực tế được.
Qua những dòng tìm hiểu trên,
chúng ta thấy rằng hoàn cảnh thúc đẩy sự thành lập tổ chức Quốc Gia để đáp ứng
lại nhu cầu mới của " diễn biến quốc tế " cũng như đáp
ứng lại tâm thức của những người lúc đó suy nghĩ về cách tổ chức Quốc Gia phải
thể hiện tâm thức ước vọng tự do, dân chủ của người dân Tây Âu vào các thế kỷ
XVII- XX.
Đó là những yếu tố giúp
chúng ta dễ tìm hiểu hơn tư tưởng về Quốc Gia mà qua những phần
trình bày dưới đây chúng ta sẽ có dịp phân tích sâu xa hơn.
III - Quốc Gia, định
nghĩa theo nguyên ngữ.
Từ ngữ Quốc Gia của
chúng ta có cùng nghĩa với danh từ " State" ( Anh ngữ), "
État" (Pháp ngữ), " Stato" ( Ý ngữ) và "
Staat" ( Đức ngữ).
Các danh từ trên đều
phát xuất từ " Status" ( La ngữ).
Các Quốc Gia trên dùng
danh từ phát xuất từ " Status" của Latin để diễn tả tư
tưởng "Imperium" ( Vương Quốc) theo ý nghĩa của thời cổ
hoặc "
Dominium" hay "Herrschaft" ( Lãnh điạ, đất đai của lãnh
chúa, của hoàng đế).
Thật ra danh từ "Status" của
La ngữ có nhiều ỳ nghĩa khác nhau.
Thoạt tiên "
Status" trong các từ ngữ " Status publicus"
( hoàn cảnh hay tình trạng công việc chung) hoặc " Status Rei
Publicae" ( hoàn cảnh của tổ chức chung, của công việc chung ) .
"Status" cũng có nghĩa là
điều lệ, nội quy hay hiến pháp.
" Status" là thể chế tổ
chức hành pháp: " Status regalus": đất nước theo thể chế
quân chủ; "Status Optimatorum": quốc gia do thành phần
trổi vượt,élites, cai trị,
" Status
popularis": quốc gia của đại chúng.
- Macchiavelli trong
quyển « Il Principe » ( 1513) diễn tả Quốc Gia như là « diện
tích » (estensione) của một lãnh thổ hay là " số lượng đông đảo quần
chúng", hoặc cả hai ý nghĩa.
- J. J. Rousseau
trong quyển « Du Contrat Social » cho rằng Quốc Gia là « số
lượng đông đảo quần chúng thụ động dưới quyền cai trị tối thượng ( souverain)
của vua ".
- Nhiều triết gia gán
cho Quốc Gia ý nghĩa lịch thiệp hơn. Người Hy Lạp cho rằng Quốc Gia là một « cộng
đồng chung sống » ( koinomia politeia).
- Các triết gia La Tinh
cho tư tưởng Quốc Gia là « cộng đồng văn minh hay cộng đồng thành
phố » ( comunitas civilis).
Và điều nổi bậc mà chúng
tôi thán phục là Cicero, mặc dầu sống cách biệt với chúng ta từ
thời đế quốc Roma cũng đã ý thức rằng Quốc Gia là một tổ chức, dù theo hình
thức nào đi nữa, cũng phải dựa trên « juris consensus »
( sự đồng thuận dựa trên căn bản pháp lý, hay nói theo ngôn từ của chúng
ta là dựa trên căn bản Hiến Pháp) nếu muốn tồn tại lâu dài.
-
Hobbes không gọi Quốc Gia là State mà là « Common Wealth » (
sự thịnh vường chung).
Vào thế kỷ XVI, Giovanni
Botero cùng với các tư tưởng gia về lý thuyết « Nguyên
Lý Quốc Gia », trong quyển La Ragione di Stato cho
rằng Quốc Gia là chủ quyền vững chắc trên dân chúng ( dominio fermo
sopra i popoli).
- Vào
khoảng năm 1800, nền văn chương Đức cống hiến cho chúng ta tư tưởng Quốc
Gia là « trung tâm điểm của cuộc sống cộng đồng » (
Hegel, Grundlinien der Philosophie des Rechts, 1821).
- L.
von Ranke với quyển « Grossen Maechte » ( 1883) và
« Weltgeschichte » ( 1881-1885) cùng với J. Burchkhard,
trong quyển "Weltgeschichte Betrachtungen" ( 1905) và các luật
gia như C.F. von Gerber, P. Laband, G. Jellinek đã thiết lập
hệ thống luật học về chủ nghĩa quốc gia, trong đó « Quốc Gia là
một chủ thể pháp nhân ».
- Ở
Pháp J. Bordin với các quyển « Six Livres
de la République »( 1576) đề cập đến « quyền tối thượng » ( souverainneté)
theo đó thì quyết định cao nhứt ( tối thượng) và sau cùng ( tối hậu) thuộc về Quốc
Gia. Điều đó nói lên quyền lực của Quốc Gia là quyền lực ở « đỉnh
cao tột độ của mọi quyết định về chính trị » cho đất nước.
Quốc gia có quyền tối
thượng đó do chính bản thể của mình là tổ chức có trách nhiệm cho sự sống còn
của đất nước. Quyền tối thượng đó, Quốc Gia không cần phải nhận lãnh nơi
bất cứ tổ chức nào khác trong lãnh thổ của mình, cũng không từ quốc gia hay tổ
chức nào khác trên chính trường quốc tế.
Đúc kết lại những tư
tưởng duyệt qua trên đây, chúng ta rút ra được những yếu tố chính sau đây :
Quốc Gia là một tổ chức
chính trị
* có chủ quyền trên một lãnh thổ ( Status,
Imperium, Dominium, Herrschaft),
* có chủ quyền trên một dân
tộc ( J. J. Rousseau ; Giovanni Botero),
* chủ quyền của Quốc Gia dựa
trên căn bản Hiến Định ( Cicero),
* là chủ thể có tư cách pháp
nhân ( Hegel, L. von Ranke, J. Burckhard và các luật gia Đức),
* có quyền tối thượng trong
việc hành xử quyền bính của mình đối với đất nước ( J. Bordin),
Nói một cách ngắn gọn hơn : Quốc Gia
là một Cộng Đồng Dân Chúng, cùng sống trên một Lãnh Thổ, được tổ chức theo một
thể chế.
Những yếu tố tóm lược vừa kể sẽ giúp chúng ta
hiểu biết cơ cấu và cách hành xử quyền bính của Quốc Gia.
IV - Quốc Gia hiện đại.
Qua những phân
tích kể trên, chúng ta nhận thấy rằng tư tưởng Quốc Gia không phải là ý thức
bộc phát của một thức giả nào đó qua một đêm không ngủ, mà là tư tưởng tiềm
tàng, qua bao nhiêu biến chuyển lịch sử cũng như do suy tư của bao nhiêu nhà tư
tưởng , học giả, nguyên thủ quốc gia từ hậu bán thế kỷ XVI đến nay.
Chúng ta có thể nói rằng
bao nhiêu khối óc của nhân loại, nhứt là những khối óc lỗi lạc của Tây Âu đã
thao thức, suy tính làm sao để thiết lập nên một cộng đồng xã hội, trong đó con
người được sống an toàn, bình đẳng và sung mãn, hạnh phúc và tiến bộ.
Cộng đồng mơ ước đó hiện
đang là những khuôn mẫu cho cuộc sống tự do, dân chủ và đem lại tiến bộ cho các
nước Tây Âu.
Đó là tổ chức Quốc Gia.
Và sau đây là những đặc
tính :
Quốc Gia là một tổ chức
chính trị, nắm quyền kiểm soát trên một đoàn thể dân chúng, cư ngụ trên một
lãnh thổ xác định,
tổ chức đó khác biệt với
những tổ chức khác, đang hoạt động trong cùng một lãnh thổ,là một tổ chức tự
lập,có các tổ chức của mình, được phối hợp minh xác với nhau ( C.
Tilly, The Formation of National States in Western Europe, Princeton University
Press, 1975, 70).
Trong dịnh nghĩa vừa
qua, chúng ta có được những yếu tố chính sau đây :
- là
một tổ chức,
- có
quyền năng trên một đoàn thể dân chúng, cư ngụ trên một lãnh thổ xác
định
- và
một vài đặc tính khác, chúng ta sẽ đề cập đến dưới đây.
1 - Quốc Gia là một tổ
chức.
Quốc Gia khác với tổ
chức quân chủ, trong đó tất cả quyền bính tập trung vào tay vua. Vua tượng
trưng và nắm hết quyền thống trị của vương quốc. Hay nhà vua vừa là Vị Nguyên
Thủ Quốc Gia, vừa là Vị Lãnh Đạo Hành Pháp, nói theo ngôn từ chính trị học.
Những trích dẫn ở phần
trên của bài nầy, trong đoạn nói về lịch sử, cho chúng ta thấy rỏ ý hướng đó.
Quyền lực Quốc Gia cũng
không tậ trung vào tay một vị nguyên thủ độc tài nào đó : « Quốc Gia,
chính là tôi đây ! » ( L'Etat, c'est moi !)
Trái lại Quốc Gia là một
tổ chức. Quyền lực Quốc Gia được phân chia và ủy thác cho các cơ quan có trách
nhiệm theo thể thức hiến định. Mỗi cơ quan có nhiệm vụ riêng biệt, tự
lập ( autonomie), nhưng cùng hoạt dộng nhịp nhàng với nhau, mang lại lợi
ích chung cho đất nước.
2 - Quốc Gia có quyền
năng trên đoàn thể dân chúng của mình.
Quyền lực trên dân chúng
của Quốc Gia được thực thi dưới hình thức có tính cách cưỡng bách.
Quyền lực của Quốc Gia
trên dân chúng là quyền lực tối thượng. Điều đó có nghĩa là Quốc Gia trong các
nước dân chủ, một khi được dân giao phó cho quyền hành xử ( exécutif)
theo các thể thức dân chủ, xử dụng quyền lực của mình không cần phải xin phép
ai nữa.
Tính cách tối thượng
quyền lực Quốc Gia không phải để cho Chính Quyền độc tài, mà là đặc tính thiết
yếu để bảo vệ toàn vẹn tính mạng, thân thể và tài sản của người dân cùng với
những quyền làm người khác được Hiến Pháp và luật pháp ấn định.
Quốc Gia có toàn quyền
thi hành quyền lực một cách cưỡng bách trên người dân. Mặc dầu trong cuộc sống
thường nhật, trừ những trường hợp đặc biệt, ở các nước dân chủ ít khi chúng ta
thấy Chính Quyền dùng võ lực. Bởi lẽ trước khi dùng võ lực, các cơ quan công
quyền thường dùng những hình thức yêu cầu hoặc khuyến cáo trước. Tính cách
cưỡng bách
của quyền lực Quốc Gia
trong cuộc sống thường nhật, nhiều khi chúng ta không để ý, nhưng không vì đó
mà thiếu hiệu lực. Một mảnh giấy để trả thuế hay một tờ giấy phạt vì chúng ta
vi phạm luật đi đường xem ra « vô thưởng vô phạt ».
Nhưng chúng ta thử làm ngơ vài ngày xem. Một ngày nào đó, «bạn sẽ thấy lù lù
xuất hiện trước cửa nhà bạn chiếc xe bít bùng và một vài ba nhân
viên cảnh sát » ( P. Berger, Invitation to Sociology, Garden City, N.Y.,
Doubleday, 1963, 69).
Trên dân chúng mình,
Quốc Gia dành cho mình quyền hành xử quyền lực có tính cách cưỡng bách ( đôi
khi cả bằng võ lực) là để bảo đảm an toàn cho mọi người.
Trong một Quốc Gia, ít
nhứt là Quốc Gia Tây Âu, không ai được dùng quyền lực có tính các cưỡng bách
trên, ngoại trừ những ai thừa hành quyền lực Quốc Gia.
Quốc Gia dành cho mình
toàn quyền xử dụng quyền lực, nhứt là võ lực, để tránh xô xát, trả thù, nội chiến
của cá nhân hay phe nhóm với mục đích bảo vệ an ninh cho từng cá nhân và an
ninh công cộng.
Không ai có thể tự cho
mình làm « cân bằng cán cân công bằng cho chính mình »,
bằng cách trả thù, trả đủa, mà phải nhờ đến quyền lực Quốc Gia. Bởi lẽ chỉ có
Quốc Gia mới là tổ chức chính danh ( légitime), hợp pháp ( légale)
và có đủ mọi phương tiện xử dụng quyền hành một cách có hiệu quả.
Khi có cuộc tranh chấp
giữa người dân với nhau, Quốc Gia có quyền giải quyết bằng cách áp đặt quyết
định của mình cho cả đôi bên.
3 - Quốc Gia có thẩm
quyền trên lãnh thổ mình.
Chính trên lãnh thổ đất
nước mình, mà Quốc Gia có toàn quyền tối thượng, độc hữu (exclusif)
và bất khả xâm phạm.
Quốc Gia có quyền xử
dụng quyền lực của mình trên lãnh thổ để thiết lập an ninh trật tự công cộng và
bảo toàn biên giới, chống lại bất cứ quyền lực ngoại xâm nào khác.
Sau ba yếu tố trên, sau
đây là những đặc tính của Quốc Gia :
- Quốc Gia là một tổ
chức chính trị, khác với những tổ chức khác hoạt động trên lãnh thổ.
Quốc Gia là một tổ chức
chính trị, nên trên nguyên tắc, hoạt động của Quốc Gia chỉ thuần nhứt nhằm vào
các hoạt động chính trị. Chúng tôi vừa nói là « trên
nguyên tắc ». Ở những trang kế, chúng ta sẽ suy luận nhiều hơn cho tư
tưởng vừa kể.
Hoạt động của Quốc Gia
nhằm vào các hoạt động chính trị, khác với những tổ chức khác không có tính
cách chính trị. Quốc Gia ý thức rằng con người có khả năng, khuynh hướng và
quyền được có những ước vọng và lợi thú khác, ngoài lãnh vực chính trị. Bởi đó
trong xã hội, có những tổ chức không có tính cách chính trị. Quốc Gia nhìn nhận
tính cách chính danh và hợp pháp của các tổ chức đó.
Quốc Gia cũng xác nhận
tính cách hoạt động chính tri của mình, độc lập nhưng hổ tương với các tổ chức
trên.
a)
Quốc Gia và Tôn giáo.
Với tiến trình tách rời
hoạt động chính trị ra khỏi tôn giáo, tiến trình thế tục hoá
(sécularisation), đừng nên lầm lẫn với khuynh hướng " vô thần
hóa, vô tôn giáo hóa hay vô đạo hóa, sécularisme", Quốc Gia chỉ
cho mình có trách nhiệm những gì thuộc về đời sống chính trị, về những lãnh vực trần
thế của đất nước.
Mọi hoạt động tôn giáo
của các tôn giáo, cũng như những gì thuộc về đời sống tôn giáo,
phượng tự của người dân, đều không thuộc về quyền hạn Quốc Gia, mà của từng cá
nhân hay của tổ chức tôn giáo.
Quốc Gia có bổn phận tạo
điều kiện để trợ giúp và bảo đảm các hoạt động tôn giáo được tự do theo tinh
thần dân chủ và nhân bản hiến định.
Trên nguyên tắc thì như
vậy, nhưng dần dần người ta ý thức rằng hoạt động chính trị không thể thiếu tôn
giáo. Người hoạt động chính trị, kinh tế và xã hội để phục vụ đất nước phải là
con người có tài năng và đức độ.
Nền giáo dục tự mình có
thể đào tạo được những người lãnh đạo tài ba, nhưng khó mà cống hiến cho Quốc
Gia con người có đức độ nếu không dựa vào tôn giáo. Bởi lẽ luân lý phải được
đặt nền tảng trên tôn giáo.
Đàng khác cùng đích của
tổ chức Quốc Gia là con người toàn diện được phát triển hoàn hảo các chiều
hường của mình chớ không phải hiệu năng tối đa của kinh tế, bấp thịt trước đã
của quân sự phục vụ chính trị để thống trị hoàn cầu.
Tổ chức Quốc Gia thiếu
tôn giáo sẽ khó mà định hướng, có một cái nhìn đứng đắn hoàn hảo về con người
với tất cả các chiều hướng phải có và con người là yếu tố then chốt cho mọi
tiến trình tổ chức đất nước.
Tổ chức Quốc Gia và các
tổ chức xã hội trung gian không có tính cách chính trị, gia đình, học đường,
hiệp hội, phong trào, nghiệp đoàn và cả các Giáo Hội của các tôn giáo, mỗi tổ
chức vẫn giữ vai trò và quyền hạn biệt lập của mình, nhưng cùng cộng tác trong
những lãnh vực mà mình cho là có ích cho đất nước.
Chính quyền của các nước
Tây Âu nhìn nhận sự trợ giúp thiết yếu của tôn giáo, nên coi tôn giáo ít ra
cũng như là những tổ chức lợi ích cho xã hội. Việc Chính
Phủ Cộng Hoà Liên Bang Đức trả lương cho các linh mục coi họ đạo hay
linh mục tuyên úy như công chức , cũng như Chính Phủ Ý dành cho tôn giáo 8 phần
ngàn lợi tức dân chúng nói lên xác tín đó, vì ít ra việc làm của các ngài được
coi là có lợi ích cho xã hội.
b - Quốc Gia và những tổ
chức xã hội trung gian.
Đối với những tổ chức có
tính cách xã hội, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật,Quốc Gia chỉ đứng ra kiểm soát
trên phương diện tổng quát và trừu tượng, bảo đảm những điều kiện thuận lợi cho
các tổ chức trên được hoạt động tự do và hiệu nghiệm.
Đối với các hoạt động
kinh tế, mọi hoạt động sản xuất, phân phối đều thuộc về sáng kiến cá nhân. Quốc
Gia chỉ xác định luật lệ, kiềm soát sao cho các hoạt động đó hợp pháp , không
làm tổn thương đến an ninh và danh dự của con người, cũng như không phương hại
đến lợi ích xã hội ( Điều 41, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Nói như vậy, không có
nghĩa là Quốc Gia không thể can thiệp vào kinh tế bằng hệ thống tiền tệ, chính
sách thuế vụ, đầu tư thiết lập hạ từng cấu trúc để tạo điều kiện và kích thích
phát triển, kể cả trợ giúp thành phần yếu thế bằng thuế khóa và tính dụng dễ
dãi tạo điều kiện cho kinh tế phát triển điều khắp. Nói cách khác, ở đâu và lúc
nào " Bàn Tay Nhiệm Mầu với luật cung cầu" của Adam Smith
trong kinh tế thị trường tự do không hoạt động trôi chảy, chúng ta cần có
"Khối Óc Khôn Ngoan" của Quốc Gia can thiệp và trợ lực.
Nhưng Quốc Gia trợ lực
và kích thích cho kinh tế thị trường của tự do sáng kiến cá nhân là một chuyện,
chỉ huy và tiêu diệt mọi sáng kiến cá nhân trong kinh tế chỉ huy của các nước
Xã Hội Chủ Nghĩa Anh Em Vĩ Đại là chuyện khác.
c - Quốc Gia là tổ chức
tự lập và tập trung quyền bính.
Tính cách tự lập nói lên
quyền tối thượng của Quốc Gia.
Trong lãnh thổ mình,
Quốc Gia có quyền tối thượng hành xử quyền lực mà dân chúng giao cho một cách
chính danh. Quốc Gia thi hành quyền lực mình được dân chúng giao phó không cần phải
được phép tắc của một nhân vật hay cơ chế nào khác trong lãnh thổ mình.
Quốc Gia cũng không cần
phải có ai thoả thuận, chuẩn y, ngay cả ai đó là một nước khổng lồ nào đó ở sát
biên giới cũng vậy. Nếu không thì Quốc Gia đã mất chủ quyền, như Việt Nam do
Cộng Sản cai trị đã mất chủ quyền phần đất của Ải Nam Quan đối với Tàu.
d - Quốc Gia phối hợp
các cơ cấu của mình một cách minh xác.
Mặc dầu Hiến Pháp các
Quốc Gia tự do, dân chủ minh định việc phân chia quyền lực Quốc Gia thành các
cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp để bảo đảm cho người dân chống lại mọi
lạm quyền của các cơ quan Quốc Gia, nhứt là cơ quan Hành Pháp, các cơ quan vừa
kể hoạt động độc lập nhau nhưng liên hệ mật thiết với nhau để mưu cầu lợi ích
chung cho đất nước. Ví dụ Quốc Hội có nhiệm vụ hướng dẫn đường lối chính trị
Quốc Gia đối với cơ quan Hành Pháp.
Ngay cả trong cơ quan
Hành Pháp cũng vậy. Mặc dầu mỗi cơ quan hành chánh hoạt động độc lập, nhưng
cũng theo chỉ thị của Chính Phủ Trung Ương để hoạt dộng nhịp nhàng hầu đạt được
mục đích chung.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment