Thỏa thuận Thành Đô – bước lùi lịch sử thảm họa
Vương Trí Dũng
Phát triển quan hệ không
thù địch, hơn thế nữa còn phải thân thiện với các nước láng giềng,
là một chính sách đúng đắn của mọi nhà nước yêu chuộng hòa bình
công lý. Chính sách láng giềng thân thiện lại cần được ưu tiên hơn,
khi láng giềng là một cường quốc. Bởi vậy, năm 1990, các nhà lãnh
đạo Việt Nam tiến hành chính sách bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc sau hơn một thập kỷ chiến tranh và xung đột biên giới là việc
cần làm.
Thế nhưng cái cách mà
Việt Nam tiến hành chính sách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc
thì thật không bình thường. Không chỉ như vậy, nội dung bình thường
hóa quan hệ mà Việt nam cố gắng để đạt được, cụ thể hóa bằng Thỏa
thuận Thành Đô (4/9/1990), là một nội dung bất lợi cho Việt Nam. Không
chỉ bất lợi, mà ngày càng thêm thảm họa. Mức độ thảm họa tăng theo
cấp số nhân cùng với thời gian mà chính những người tham gia đàm
phán Thỏa thuận Thành Đô đã không lường trước được.
Hai mươi tư năm trôi qua kể từ ngày ký
Thỏa thuận Thành Đô, hậu quả khôn lường của nó đối với Việt Nam nguy
hiểm đến nỗi mà ai trong số họ còn sống, bề ngoài không dám thể
hiện, hoặc cố viện dẫn hoàn cảnh để thanh minh bào chữa, nhưng trong
sâu xa tâm khảm, đều cảm thấy hối tiếc.
BA SAI LẦM
1. Sự hoảng hốt lịch sử
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và Đông Âu đã làm cho một số lãnh đạo Việt Nam hoảng hốt. Lo sợ sự
sụp đổ thể chế, lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ đã đột ngột biến
kẻ thù truyền kiếp – từng xâm lược Việt Nam năm 1979, liên tục đánh
chiếm biên giới Việt Nam suốt trong thập kỷ 1980, và đã bị ghi vào Hiến
pháp 1980 là kẻ thù – thành người “anh em” cùng phe xã hội chủ nghĩa.
Đó là kết quả của Thỏa thuận Thành Đô ký ngày 4/9/1990 giữa Việt
Nam và Trung Quốc. Đại diện Việt Nam là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, có sự chứng kiến của Cố vấn Phạm Văn
Đồng. Còn đại diện phía Trung Quốc là Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và
Thủ tướng Lý Bằng.
Việc bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc là việc cần làm. Nhưng quá hốt hoảng trước sự sụp đổ của phe
xã hội chủ nghĩa, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã vội vã ký một thỏa
thuận bất lợi cho Việt Nam nhằm bảo vệ chế độ, bất lợi đến nỗi mà
chính cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhiều lần biểu lộ sự băn khoăn.
2. Ảo tưởng về chế độ
Sai lầm thứ hai là ảo tưởng về chế độ
xã hội chủ nghĩa. Đáng lý ra sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và ở các nước Đông Âu phải là vấn đề lý luận nghiêm túc để các
nhà lãnh đạo Việt Nam phân tích suy ngẫm. Rõ ràng chủ nghĩa xã hội
đồng loạt sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải do kẻ thù
bên ngoài, mà do chính các nguyên nhân phát triển nội tại của mô hình
chủ nghĩa xã hội. Qua thực tiễn tồn tại, không khó khăn để nhận ra
rằng, mô hình chủ nghĩa xã hội chứa đựng những lỗi hệ thống mang tính
nguyên tắc, quyết định sự sống còn của mô hình. Muốn sửa đổi các
lỗi hệ thống đó thì phải thay đổi mô hình. Điều đó chứng tỏ các
nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ, tuy dày dạn kinh nghiệm kháng
chiến chống ngoại xâm – mà thắng lợi giành được là do lòng yêu nước
nồng nàn của nhân dân quyết định – lại chưa để tâm cần thiết đến mặt
nghiên cứu lý luận.
3. Nhầm lẫn về Trung Quốc
Nhưng sai lầm đáng buồn hơn cả là nhận
thức không nhất quán về Trung Quốc. Trung Quốc công khai tham vọng xâm
chiếm Việt Nam. Trung Quốc gây ra cho Việt Nam những tổn thất to lớn
trong Hiệp định Genève. Trung Quốc phá hoại cản trở Việt Nam trong
kháng chiến chống Mỹ. Bất chấp bao nhiêu năm “cùng phe xã hội chủ
nghĩa”, từng “anh em bè bạn”, nhưng năm 1979 Trung Quốc đã ngang ngược
mang 60 vạn quân tấn công Việt Nam. Trong suốt 10 năm tiếp theo Trung
Quốc liên tục tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Việt Nam.
Vô vàn cay đắng thâm thù từ Trung Quốc, làm sao mà các nhà lãnh đạo
Việt Nam lúc bấy giờ, trong thời khắc sụp đổ phe xã hội chủ nghĩa, lại
có thể cả tin rằng ý thức hệ xã hội chủ nghĩa là phép màu hoàn lương
được dòng máu bá quyền Tần Thủy Hoàng – Mao Trạch Đông, để Việt Nam
và Trung Quốc lại là “anh em”, cùng chống kẻ thù ý thức hệ?
BỐN HẬU QUẢ THẢM HỌA
I. Lệ thuộc về chính trị
Thỏa thuận Thành Đô gây ra những hậu quả
thảm họa to lớn mà chính những người ký Thỏa thuận đã không ngờ
tới. Từ Thỏa thuận Thành Đô, Việt Nam mỗi ngày càng lệ thuộc chính
trị hơn vào Trung Quốc. Trung Quốc tiến hành một chính sách bắt Việt
Nam dần phụ thuộc chính trị rất thâm hiểm, tập trung trên mấy phương
diện sau.
1. Gây ảnh hưởng về nhân
sự lãnh đạo
Gây ảnh hưởng lên nhân sự lãnh đạo là
nhân tố nguy hiểm số một trong chiến lược bắt Việt Nam lệ thuộc của
Trung Quốc. Trung Quốc sẽ tìm mọi cách loại bỏ, vô hiệu hóa hay giảm
ảnh hưởng của tất cả những ai không theo hoặc không ủng hộ Trung
Quốc. Sự can thiệp vào công việc nhân sự lãnh đạo Việt Nam của Trung
Quốc rất trực diện, thô bạo. Việc yêu cầu loại bỏ Ngoại trưởng
Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi Bộ Chính trị trong Hội nghị Thành Đô là một ví
dụ kinh điển. Đến thời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã không dám đưa ông
Phạm Bình Minh (con trai của cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch) vào
chức vụ Ngoại trưởng vì Trung Quốc không chấp nhận. Gần đây Lễ tang
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng bị cuộc viếng thăm của Thủ tướng
Lý Khắc Cường phủ bóng tối.
2. Gây ảnh hưởng về chính
sách song phương và đối ngoại
Có được ảnh hưởng nhân sự, tổng hợp
với các thế mạnh về kinh tế quốc phòng địa lý, và các mánh khóe
thâm độc gian xảo, Trung Quốc gây áp lực lên các cuộc đàm phán song
phương và chi phối lên quan hệ bang giao quốc tế của Việt Nam.
Việt Nam đã phải nhượng bộ cho Trung
Quốc trong Hiệp định biên giới đất liền năm 1999, cũng như trong thỏa
thuận phân chia đường biên giới trên biển năm 2000. Việt Nam không dám
công khai ủng hộ Philippines kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế mặc dù
Việt Nam được lợi từ vụ kiện này. Việt Nam không thân mật đến mức
liên minh với các nước lớn bởi e dè Trung Quốc. Việt Nam tuyên bố
không liên minh với ai để chống nước thứ ba thực chất là để thanh minh
với Trung Quốc.
3. Gây ảnh hưởng về kinh
tế
Dùng ảnh hưởng về chính trị, dùng sức
mạnh kinh tế, Trung Quốc quyết tâm giành thắng lợi trong đấu thầu các
dự án kinh tế chủ chốt của Việt Nam và biến Việt Nam thành một thị
trường tiêu thụ hàng hóa của Trung Quốc.
Khi đã có được ảnh hưởng kinh tế, tiến
đến lũng đoạn nền kinh tế Việt Nam và gây áp lực lại về chính trị,
bắt lệ thuộc về chính trị. Vòng xoay đó luân hồi kiềm tỏa Việt Nam,
bắt Việt Nam không thể rời quỹ đạo xoay quanh Trung Quốc.
II. Lệ thuộc về kinh tế
Bị lệ thuộc chính trị, nền kinh tế
Việt Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc toàn diện. Sự phụ thuộc toàn
diện của nền kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc thể hiện qua mấy điểm
chủ chốt sau đây.
1. Việt Nam trở thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa
của Trung Quốc
Từ các thiết bị máy móc cho đến hàng
tiêu dùng, khắp nơi đâu đâu cũng tràn ngập hàng Trung Quốc. Cay đắng
hơn đến các mặt hàng nông sản đời sống thường ngày nhỏ nhặt như quả
trứng, trái cam, củ tỏi… mà Việt Nam tự sản xuất được thì nay cũng
bị hàng Trung Quốc lấn át.
Để biến Việt Nam thành một thị trường
tiêu thụ hàng hóa mạnh hơn nữa, Trung Quốc thúc đẩy mở cửa biên giới
để hàng Trung Quốc tràn vào Việt Nam, đồng thời khuyến khích cho
phép buôn lậu qua biên giới những mặt hàng có lợi cho Trung Quốc. Đi
xa hơn, Trung Quốc thiết lập mạng lưới đại lý phân phối hàng hóa và
đưa cả người Trung Quốc sang sinh sống bán hàng tại Việt Nam.
Việt Nam thực sự đã trở thành một thị
trường thuộc địa hàng hóa của Trung Quốc. Trong quan hệ buôn bán hai
chiều, Việt Nam còn kém vị thế một tỉnh của Trung Quốc. Bởi lẽ một
tỉnh của Trung Quốc còn bán được thiết bị máy móc cho tỉnh khác
của Trung Quốc, còn Việt Nam thì chỉ thuàn túy mua, mà không bán lại
được cho Trung Quốc máy móc thiết bị công nghệ.
2. Trung Quốc thắng thầu
hầu hết các dự án xương sống trụ cột của Việt Nam
Trong đấu thầu xây dựng các công trình
kinh tế chủ chốt của Việt Nam, Trung Quốc là nước thắng thầu nhiều
nhất. Trung Quốc tiến hành một chiến lược giản đơn với chủ trương
chào thầu thấp để thắng thầu. Sau đó bằng mọi cách đội giá thầu
lên, khiến cho chi phí xây dựng công trình đắt lên rất nhiều, đắt hơn
cả giá chào thầu ban đầu của các đối tác khác.
Điều nguy hại hơn là, tuy giá thành rất
đắt, nhưng Việt Nam lại bị phải sử dụng các thiết bị công nghệ lạc
hậu, năng thuất thấp, chất lượng kém, độc hại cho con người và môi
trường. Sản phẩm làm ra kém chất lượng, nhanh hư hỏng.
Tất cả các công trình mà nhà thầu Trung
Quốc tham gia xây dựng, không có công trình nào có chất lượng đảm bảo
như của các nước hàng đầu G7, và tai họa hơn là hiệu quả kinh tế
rất thấp.
3. Trung Quốc khai thác thu
mua nhiều tài nguyên khoáng sản của Việt Nam
Với chính sách “Dùng của người, để
dành của nhà” Trung Quốc đã tiến hành chính sách thu mua khai thác
nguồn tài nguyên khoáng sản của các nước khi giá còn thấp, để dành
tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc cho tương lai. Trung Quốc đã tập
trung vào các nước chậm phát triển ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La
tinh.
Việt Nam là nước láng giềng của Trung
Quốc nên càng bị Trung Quốc tận thu hết công suất. Việt Nam không phải
là nước có nhiều khoáng sản, nhưng tất cả những khoáng sản tiềm
năng chủ chốt của Việt Nam đều bị Trung Quốc thâu tóm. Trung Quốc là
khách hàng lớn của Việt Nam về than. Hai dự án lớn về bôxít ở Tây
Nguyên cũng nhường thầu xây dựng trọn gói cho Trung Quốc, và sẽ bán
nguyên liệu thô cho Trung Quốc. Dự án thép ở Vũng Áng cũng bị Trung
Quốc mua lại. Riêng dầu khí ở Biển Đông, không hợp tác khai thác
được,Trung Quốc trắng trợn mang giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam
để tự khai thác. Thâm hiểm ngang ngược đến thế là cùng.
4. Trung Quốc đầu tư kinh
doanh hầu khắp các huyện tỉnh thành Việt Nam
Công nghệ lạc hậu, ô nhiễm độc hại,
chất lượng tồi, giá thành rẻ, Trung Quốc ồ ạt đầu tư khắp các
huyện tỉnh thành của Việt Nam. Đi xa hơn Trung Quốc lập các công ty,
cửa hàng đại lý thương mại khắp nơi nơi, tạo nên các làng phố người
Hoa khắp cả nước Việt Nam. Bằng cách này Trung Quốc đã hình thành
một mạng lưới kinh tế riêng của Trung Quốc trên lãnh thổ của Việt
Nam, cả hàng hóa lẫn con người.
III. An ninh quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng
Chưa bao giờ an ninh của Việt Nam bị Trung
Quốc đe dọa như bậy giờ. Có thể lược nêu một số hiểm họa an ninh
quốc gia sau đây.
1. Đội quân người Hoa trên
lãnh thổ Việt Nam
Trung Quốc đã rất thành công trong việc
đưa người lao động đến khắp sơn cùng thủy tận của Việt Nam, lấy vợ
đẻ con, lập nên nhan nhản các làng phố người Hoa. Đây là mối hiểm
họa bậc nhất cho an ninh guốc gia.
2. Mạng lưới gián điệp
dày đặc
Với làng phố người Hoa khắp mọi nơi,
với sự thâu tóm các công trình yết hầu kinh tế, mạng lưới gián điệp
là ưu thế đặc biệt của Trung Quốc không chỉ trong chiến tranh mà trong
mọi đối phó ứng xử với Việt Nam.
3. Nguy cơ bị đánh sập
nền kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam bị phụ thuộc vào
Trung Quốc. Các công trình do Trung Quốc đầu tư cũng như do Trung Quốc
thắng thầu xây dựng đều tiềm ẩn những nguy cơ khôn lường. Nền kinh tế
Việt Nam có nguy cơ bị tê liệt toàn bộ khi xung đột với Trung Quốc
xẩy ra.
4. Các cơ sở quốc phòng
của Trung Quốc trên đất Việt Nam
Dưới danh nghĩa đầu tư, kinh doanh và nhà
thầu, Trung Quốc có thể bí mật xây dựng những công trình quân sự,
cài đặt những thiết bị phá hủy khắp mọi nơi trên đất Việt Nam. Các
vật tư thiết bị Trung Quốc bán cho các công ty Mỹ đã từng bị Mỹ
phát hiện về những chip gián điệp, thì tất cả những điều đã nêu là
hoàn toàn thực tế.
Chẳng hạn, tử huyệt xung yếu như Đèo
Ngang với chiều dài Đông Tây khoảng 50Km đã bị Trung Quốc án ngự bằng
dự án cảng Vũng Áng trong 70 năm. Trước đây cố Tổng bí thư Lê Duẩn
từng nhận định vùngThanh Nghệ Tĩnh là căn cứ địa khi Trung Quốc huy
động 2 triệu quân tấn công Việt Nam từ phía Bắc.
Nhưng bây giờ với
cảng Vũng Áng và rừng phía Lào đã được Trung Quốc thuê lâu dài, thì
việc chia cắt Việt Nam tại Đèo Ngang, nếu không đề phòng trước, đối
với Trung Quốc có thể là dễ như “trở bàn tay”. Điều tương tự cũng
có thể xẩy ra ở Tây Nguyên khi Trung Quốc tham gia khai thác bôxít và
rừng Campuchia giáp biên giới Việt Nam đã được Trung Quốc thuê đến 99
năm.
Phải một lần nữa nhấn mạnh rằng, chưa
bao giờ an ninh của Việt Nam lại mong manh đến vậy từ mối đe dọa Trung
Quốc.
VI. Độc lập và toàn vẹn lãnh thổ bị xâm phạm
Bị lệ thuộc về chính trị và kinh tế
thì độc lập Dân tộc bị đe dọa là điều đương nhiên. Không chỉ thế,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã bị xâm phạm. Thực
tế cho thấy Việt Nam đã phải nhân nhượng cho Trung Quốc một phần lãnh
thổ trên đất liền trong Hiệp ước biên giới Việt –Trung năm 1999. Trong
Hiệp ước phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ năm 2000, Việt Nam cũng phải
nhường lại cho Trung Quốc một phần lãnh hải so với Công ước Pháp
–Thanh năm 1887.
Việc Trung Quốc đưa dàn khoan HD981 và
tàu chiến vào sâu lãnh hải Việt Nam và đang xây sân bay ở đảo Gạc Ma
cũng là hệ quả của Thỏa thuận Thành Đô. Dã tâm xâm lược Biển Đông
của Trung Quốc là công khai ngang ngược trắng trợn. Phải khởi kiện Trung
Quốc ngay ra Tòa án quốc tế, dựa vào sự ủng hộ quốc tế để vạch
mặt và làm chùn bước chân xâm lược của Trung Quốc. Nếu không hành
động cương quyết, lãnh hải sẽ bị Trung Quốc lấn chiếm thêm nữa.
Thỏa thuận Thành Đô, đúng như cố Ngoại
trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã nhận xét: Một thời kỳ Bắc Thuộc mới rất
nguy hiểm.
NĂM BIỆN PHÁP GIẢI THOÁT
I. Từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô
Lịch sử nhắc đến Nỏ thần và sơ đồ Loa
thành mà Trọng Thủy có được. Lịch sử nhắc đến Hiệp ước cắt ba
tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp. Lịch sử sẽ nhắc đến Thỏa thuận
Thành Đô. Đó là điều chắc chắn.
Bởi vậy, muốn giảm bớt hậu quả tai hại
của Thỏa thuận Thành Đô trước lịch sử, thì điều cần làm là từ bỏ
Thỏa thuận Thành Đô. Thực ra vấn đề cứu vớt sai lầm cho những người
đã ký Thỏa thuận Thành Đô chỉ là vấn đề thứ yếu. Điều quan trọng
nhất chính là từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô để cởi trói cho Dân tộc khỏi
sự lệ thuộc vào Trung Quốc. Thoát Trung là cơ hội lịch sử và là
vấn đề hệ trọng nhất hiện nay, bởi nó liên quan đến độc lập của Dân
tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
II. Xóa bỏ tư duy tương đồng thể chế
Hiện nay một số người Việt Nam, và ngay
cả một số tướng lĩnh, vẫn cho rằng Việt Nam và Trung Quốc là cùng
thể chế xã hội chủ nghĩa, cùng tương đồng ý thức hệ. Và bởi vậy
Trung Quốc sẽ thân tình ưu ái với Việt Nam, Việt Nam với Trung Quốc
là cùng một phe. Đây là một điều lầm tưởng vô cùng nguy hiểm.
Bản thân Trung Quốc đã tự xưng là chủ
nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc. Cái gọi là chủ nghĩa xã hội
ở Trung Quốc hoàn toàn khác biệt với các nước khác. Chủ nghĩa Marx
hay bất cứ học thuyết bất kỳ nào khác được lãnh đạo Trung Quốc vận
dụng đều bị “Hán hóa” hoàn toàn. Chủ nghĩa Đại Hán là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của lãnh đạo Trung Quốc, dù có
được trá hình dưới bất cứ vỏ bọc nào.
Việc Việt Nam và Trung Quốc đều do độc
đảng lãnh đạo không có nghĩa là Việt Nam và Trung Quốc là anh em, là
cùng chung mục đích lý tưởng.
Mục đích của Trung Quốc là bá chủ
thế giới, bành trướng quyền lực và lãnh thổ, là chiếm được càng
nhiều lãnh thổ của Việt Nam càng tốt, và bắt Việt Nam phải hoàn
toàn lệ thuộc vào Trung Quốc. Mục đích này đã được Mao Trạch Đông
trắng trợn công khai tuyên bố với cố Tổng bí thư Lê Duẩn, và được
giới lãnh đạo Trung Quốc tiến hành không khoan nhượng ngày càng hung
tợn hơn trong suốt mấy chục năm qua.
Không có tương đồng thể chế, không có
tương đồng ý thức hệ, không phải cùng một phe. Việt Nam là miếng mồi
của giới lãnh đạo Trung Quốc.
Lời phát biểu tại Philippines ngày
21/5/2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “Không chấp nhận đánh đổi chủ
quyền lấy hữu nghị viển vông lệ thuộc nào đó” phải biến thành hành
động. Một trong những hành động thực tế là xóa bỏ tư duy đồng thể
chế cùng phe với Trung Quốc để thoát khỏi sự kiềm tỏa của Trung
Quốc.
III. Đặt quyền lợi Dân tộc trên quyền lợi của thể chế
Ngay cả cố Tổng bí thư Lê Duẩn, người
hiểu âm mưu xâm lược thâm độc của lãnh đạo Trung Quốc, buộc phải cương
quyết chống lãnh đạo Trung Quốc, vẫn đã có lúc nghĩ rằng, khi chủ
nghĩa xã hội thành công trên toàn thế giới, thì mối đe dọa từ Trung
Quốc sẽ mất đi.
Chủ nghĩa xã hội sẽ không bao giờ thành
công trên toàn thế giới. Chủ nghĩa xã hội, mặc dù trên lý thuyết
chứa đựng những ý tưởng cao đẹp, nhưng trên thực tiễn tồn tại, là
một mô hình què quặt không khoa học. Bởi vậy, vừa mới ra đời chưa
lâu, chủ nghĩa xã hội đã bị tiến trình phát triển của xã hội loài
người đào thải. Chủ nghĩa xã hội bị đào thải ngay ở nước Nga, nơi
đã sinh ra mô hình chủ nghĩa xã hội, sau 74 năm.
Chủ nghĩa xã hội bị
đào thải ở Đông Âu sau 40 năm.
Đối với một nước, mô hình chủ nghĩa xã
hội có tồn tại trong một thời gian nào đó, thì đấy chỉ là vấn đề
tồn tại của một thể chế, một mô hình nhà nước. Một thể chế chỉ
là một khoảng thời gian ngắn so với lịch sử phát triển của một Dân
tộc.
Thay đổi thể chế chỉ liên quan đến thay đổi chính sách, đường
lối và quyền lợi của một bộ phận thuộc Dân tộc. Không nhóm người
này lên cầm quyền thì sẽ có nhóm người khác lên nắm quyền. Nhưng
tất cả họ đều thuộc một đất nước. Khi đề cập đến thể chế là nói
đến vấn đề nội bộ. Còn khi nói đến độc lập Dân tộc, chủ quyền
lãnh thổ là đề cập đến mối quan hệ với các nước khác. Bởi vậy
không thể đặt quyền lợi của thể chế trên quyền lợi Dân tộc.
Từ đó suy ra: Bất cứ điều gì có
lợi cho thể chế mà không có lợi cho Dân tộc thì dứt khoát không làm.
Điều gì có lợi cho Dân tộc nhưng không có lợi cho thể chế thì cũng
cứ làm.
Dân tộc trường tồn hơn thể chế. Nhắc
đến Dân tộc trên bình diện quốc tế là đề cập đến vấn đề quan hệ
Quốc gia. Bởi vậy, bất luận có chủ nghĩa xã hội hay không, mối đe dọa
từ Trung Quốc không bao giờ triệt tiêu, chí ít là cho đến khi triệt
tiêu phạm trù Dân tộc.
VI. Cách mạng thể chế
Chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói
đến phải Đổi mới thể chế trong thông điệp 2014. Đổi mới hoàn toàn
thể chế tức là đã Cách mạng thể chế. Một thể chế mới văn minh dân
chủ tiến bộ sẽ có nội dung hoàn toàn khác biệt với thể chế Trung
Quốc hiện hành, và tự nó là một phép thoát Trung màu nhiệm hiệu
quả nhất.
Việt Nam cần Đổi mới thể chế nhanh, vì
bản thân nhân dân Trung Quốc cũng muốn Thay đổi thể chế, và dứt khoát
nhân dân Trung Quốc sẽ làm được điều đó. Vấn đề chỉ ở thời gian.
Việt Nam cần thoát Trung trước khi Trung “thoát Việt”.
V. Hòa nhập thế giới dân chủ văn minh
Xây dựng một nhà nước dân chủ văn minh,
hòa nhập với thế giới dân chủ văn minh hiện đại là biện pháp tốt
nhất để bảo đảm nền độc lập của Dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ Quốc.
Một mình một đường không giống ai, không
phải là sáng tạo độc đáo, mà là tự tụt hậu yếu nghèo, tự cô lập
chính mình. Mà đã nghèo khó thì sẽ bị ức hiếp phụ thuộc, sẽ
mất đi độc lập Dân tộc và không có khả năng bảo vệ sự toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ Quốc.
Khăng khăng duy trì một
thể chế lạc lõng để bảo toàn quyền lực, làm đất nước bị tụt hậu
yếu nghèo, sẽ có tội trước Dân tộc, có lỗi với cháu con, và sẽ
không tránh được sự phán xét khắc nghiệt của hậu thế.
Một nhà nước Việt Nam
dân chủ văn minh sẽ cho phép xây dựng được một nước Việt Nam thực sự
giàu có hùng cường – nhân tố quyết định sự thắng lợi trong nhiệm vụ
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. Một nhà nước Việt Nam dân
chủ văn minh sẽ huy động tổng hợp được sự đồng lòng nhất trí của
toàn dân, tạo nên sức mạnh vô địch trước mọi kẻ thù.
Tuy
mạnh yếu có lúc khác nhau, nhưng hào kiệt đời nào cũng có, lời của Nguyễn
Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo còn sang sảng núi sông. Chắc chắn những
Hào kiệt mới sẽ xuất hiện để từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô, Cách mạnh
thể chế, và đưa Đất nước hòa nhập với thế giới văn minh dân chủ hiện
đại.
V. T. D.
Không phải dàn khoan. Gạc Ma mới là chuyện lớn!
Nguyễn Khắc Mai
Cả tháng nay, chúng ta tập trung vào vụ dàn khoan HD981.
Dùng dư luận lên án, phản đối, dùng cảnh sát biển, kiểm ngư để ngăn cản… Trung
Hoa cứ lì lợm, tăng thêm lực lượng, tăng cả thủ đoạn hành động, tăng cả đấu
khẩu, bất chấp lý lẽ, mặc kệ thiên hạ chê cười. Vì sao?
Nay đang có thêm một hướng phán đoán mới, để
trả lời câu hỏi vì lý do gì mà Trung Hoa đem giàn khoan vào vùng biển chủ quyền
của Việt Nam. Vấn đề là Gạc Ma!
Có vẻ như “Tàu Khựa” đang dùng mẹo Tôn Tử,
dương Đông kích Tây, đưa giàn khoan xuống để dư luận tập trung vào đây, còn
chúng lại cấp tập, ráo riết đổ vật liệu, biến Gạc Ma thành một căn cứ, một sân
bay quân sự.
Khi Gạc Ma đã trở thành một căn cứ không quân,
bấy giờ mới là vấn đề. Chúng sẽ tuyên bố về một “Vùng phòng ngự không phận”
trên Biển Đông, như chúng đã làm tại biển Hoa Đông. Còn Việt Nam sẽ nghẽn đường
ra Trường Sa. Bởi Gac Ma sẽ như một cứ điểm nằm ở yết hầu của con đường
huyết mạch quan trọng ấy.
Từ năm 1988 sau khi Trung
Hoa dùng vũ lực, tranh cướp Gạc Ma trên tay của Việt Nam, phía Việt Nam chỉ lên
tiếng “bóng gió” rằng Việt Nam có đầy đủ chứng lý, Trường Sa là của Việt Nam.
Tuồng như ban lãnh đạo Việt Nam âm thầm, mặc nhiên công nhận việc chiếm đóng
Gạc Ma của Trung Hoa. Chưa hề có một tố cáo rành mạch, cương quyết việc chiếm
đóng trái phép của phía Trung Hoa. Hơn nữa, hễ ai tưởng niệm những chiến sĩ hy
sinh để bảo vệ Gạc Ma còn bị bắt bớ, cấm đoán, gây khó dễ.
Thâm độc và nguy hiểm đấy, hành động của Trung
Hoa ở Gạc Ma.
Bộ Chính trị, Chính phủ,
Nhà nước không thể tiếp tục lầm lỗi của mình, để phó mặc cho Trung Hoa làm gì
thì làm ở Gạc Ma. Chính đây mới là chỗ để khởi kiện Trung Hoa ra Tòa án quốc
tế. Hãy tập trung khởi kiện hành động dùng vũ lực quân sự để tranh chấp biển đảo
với Việt Nam – một điều bị cấm trong công ước về Luật biển 1982 của Liên Hiệp
Quốc. Rõ ràng đây là sự vi phạm trắng trợn về luật biển của phía Trung Hoa, một
bên đã ký công ước!
Hãy ngăn cản không để cho
Trung Hoa lộng hành, làm việc đã rồi ở Gạc Ma. Hãy chặn đứng hành động nham
hiểm, thâm độc của Trung Hoa ở Gạc Ma.
Bỏ mặc, để Trung Hoa biến
Gạc Ma thành căn cứ không quân của chúng là tội lỗi muôn đời không thể tha thứ!
Không được mắc mưu Trung
Hoa đang dương Đông kích Tây!
N. K. M.
Bà Phạm Chi Lan: Việt Nam tự lệ thuộc Trung
Quốc thế nào?
(Doanh nghiệp) – Tìm kiếm kênh mới, bỏ
tư duy làm ăn kiểu dễ dãi và nâng giá trị, chất lượng sản phẩm mình có là cách
để Việt Nam thoát Trung dễ dàng.
Chia sẻ với Đất Việt trước
hàng loạt các ý kiến cho rằng nền kinh tế Việt Nam phải bước ra khỏi sự lệ
thuộc đối với Trung Quốc, nhất là trong tình hình căng thẳng trên Biển Đông
hiện nay, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nói thằng là: có nhiều kênh để làm
ăn, tạo điều kiện để Việt Nam nâng giá chính mình.
Việt Nam tự đặt mình vào thế lệ thuộc
PV: - Thưa bà, thời gian gần đây
có nhiều ý kiến nhắc tới việc nền kinh tế của Việt Nam phải tìm cách để thoát
khỏi sự lệ thuộc đối với Trung Quốc. Thế nhưng thời gian qua thực tế
tỉ trọng vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam thấp nhưng lại chiếm ở những
ngành trọng điểm. Còn về xuất khẩu với các lĩnh vực Việt Nam hoàn toàn có thể
chủ động nhưng vẫn bị lệ thuộc Trung Quốc (xuất khẩu gạo, nông sản…). Theo bà
điều này có thể lý giải như thế nào?
Chuyên gia Phạm Chi Lan: - Tôi cũng đã nói
trong một số trường hợp vừa qua chính mình đã tự đặt mình vào vị thế lệ thuộc
khi mà các dự án phải dùng tổng thầu EPC đưa ra đấu thầu thì rút cục là hấu hết
các dự án rơi vào tay Trung Quốc.
|
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan:
Trong một số trường hợp vừa qua chính mình đã tự đặt mình vào vị thế lệ thuộc
Trung Quốc
|
Tại sao vậy? Trước hết là chính quy định của
mình trước đây là khi đấu thầu lại chú trọng yếu tố giá cả là số một. Do vậy
khi người ta dùng xảo thuật chào với giá thấp nhưng mà không biết sẽ đảm bảo
chất lượng như thế nào. Họ đã làm mù mờ các điều kiện kỹ thuật mà chỉ nhấn mạnh
điều kiện về giá cả. Rồi chúng ta lao theo và quyết định đưa vào.
Bằng cách đó
chúng ta đã đưa tất cả những dự án này vào tay người Trung Quốc.
Bây giờ Nhà nước đã chỉnh lại. Luật đấu thầu
sửa đổi trong đó tiêu chuẩn số một là phải đáp ứng về chất lượng. Cái đó quá
quan trọng. Những công trình lớn hàng trăm triệu đô la thì yêu cầu số 1 phải là
chất lượng chứ không phải là giá cả rẻ.
Chúng ta hãy nhìn trên thế giới, sẽ không có
sản phẩm chất lượng cao mà giá rẻ đâu. Chúng ta đừng so sánh như vậy. Nếu mình
đặt địa vị mình là người tiêu dùng cuối cùng thì cũng không ai đi mua hàng độc
hại với giá rẻ trong khi chọn lựa ăn ít hơn nhưng dùng hàng chất lượng cao hơn.
Đối với nền kinh tế quốc gia cũng vậy. Trước
đây mình có những chính sách không rõ ràng. Luật trước đây có những kẽ hở tạo
điều kiện cho người dự thầu các dự án được chọn cuối cùng thì lấy tiêu chuẩn
giá là số 1. Vì vậy các công ty của Trung Quốc nhiều khi thắng được các công ty
của Pháp, Đức, Nhật Bản khi chọn làm tổng thầu cho Việt Nam.
Hai nữa là cơ chế giám sát. Thực sự nhà nước
sau đó nhiều khi buông giám sát để cho chủ đầu tư làm là chính. Song nói thật
nếu không có đủ cả trình độ lẫn đạo đức dễ bị bịt mắt nhận những sản phẩm tồi
mà không biết đánh giá như thế nào.
Còn về vấn đề đạo đức cứ có một số tiền lại
quả nào đó là cho qua hết cho những cái yếu, cái tồi (thậm chí vi phạm hợp
đồng)… chọn cho lợi ích riêng của mình.
Phải thoát khỏi kiểu làm ăn dễ dãi
PV: - Vậy theo bà
vấn đề mấu chốt để thoát Trung là gì?
Chuyên gia Phạm Chi Lan: – Để thoát Trung
trước hết tự bản thân mình phải xem lại mình điều chỉnh cách thức phát triển
quan hệ kinh tế đối ngoại của mình. Lâu nay phải nói rằng chiến lược của Việt
Nam đi rất đúng đường. Chúng ta đàm phán tham gia vào WTO, gia nhập một sân
chơi toàn cầu và một loạt các hiệp định với các đối tác quan trọng.
Hiện nay thì ai cũng biết Việt Nam đang đàm
phán Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP) để tham gia vào khối kinh tế trong
đó chỉ có 12 nước tham gia nhưng lại chiếm một lượng kim ngạch xuất khẩu, nhập
khẩu và đầu tư rất lớn. Đây là cơ hội rất lớn cho Việt Nam.
Chúng ta cũng đàm phán với Liên minh châu Âu
hiệp định FTA gồm có 28 quốc gia. Hiệp định này có điều kiện tương tự như TPP
nhưng cao cấp hơn, đòi hỏi chặt chẽ hơn, kể cả về cải cách thể chế nhưng tạo cơ
hội cho Việt Nam nhiều mặt. Nó không đơn thuần là thị trường lớn hơn cho xuất
nhập khẩu hoặc có nguồn đầu tư lớn hơn mà còn tự cải cách được mình về thể chế
kinh tế, cách thức làm ăn để nâng chuẩn mình lên cùng với các nước tiên tiến
trên thế giới.
Tôi nghĩ rằng có rất nhiều kênh khác nhau để
Việt Nam có thể làm ăn. Vấn đề chính ở đây là tự Việt Nam phải thoát ra khỏi
cách làm ăn quen kiểu dễ dãi với một đối tác dễ dãi như Trung Quốc. Bây giờ
xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc khoảng 10% và nhập khẩu tới 30%. Về điều
này hoàn toàn chúng ta có thể điều chỉnh được.
Nếu như xuất khẩu chúng ta có thể giảm dần
việc xuất khẩu khoáng sản thô tiến tới tăng cường chế biến để xuất khẩu thì sẽ
có giá trị hơn, tạo được công ăn việc làm ở trong nước.
Ngay cả đối với nông sản cũng vậy. Chúng ta
kêu gọi mãi xuất khẩu nông sản có hàm lượng công nghệ cao hơn, chất lượng, an
toàn vệ sinh thực phẩm cao hơn thì chắc chắn chúng ta bán được với giá tốt hơn
nhiều so với việc bán giá rẻ sang thị trường Trung Quốc.
Mặt khác nữa về thị trường xuất khẩu cũng có
nhiều cái tôi cho rằng hơi cực đoan khi cứ hướng đến xuất khẩu trong khi thị
trường trong nước vẫn còn rất rộng.
Ví dụ vải Bắc Giang, Hải Dương cứ lo liệu
Trung Quốc năm nay có mua hay không trong khi cả thị trường miền Nam, miền
Trung bao nhiêu người dân cũng có nhu cầu và có thể mua. Tại sao lại cứ lo bán
sang biên giới hơn là trong nội địa.
Hay như dưa hấu miền Nam cũng vậy, chở lên
biên giới để rồi người ta không mua khiến thối hỏng, trong khi dưa hấu ở Hà Nội
và các tỉnh miền Bắc vẫn rất đắt. Những cái đó mình phải tự điều chỉnh thị
trường nội địa.
Nhập khẩu cũng vậy. Về cơ bản chúng ta nhập
khẩu rất nhiều sản phẩm trung gian, đứng về góc độ các nước đang phát triển thì
đây mới là phần mang lại giá trị gia tăng cao. Nó là đầu vào cho các ngành kinh
tế.
Nếu bây giờ chúng ta chuyển sang thực hiện tái
cơ cấu một số ngành sản xuất, tập trung các ngành công nghiệp phụ trợ thì hoàn
toàn có thể chuyển từ thế nhập khẩu thị trường bên ngoài thành những ngành sản
xuất ở Việt Nam để cung ứng cho thị trường Việt Nam. Hoặc tìm kiếm nhập khẩu từ
các nước khác. Các sản phẩm chúng ta đang nhập từ Trung Quốc thì Ấn Độ cũng có.
Một số nước ASEAN khác cũng có cho nên không nhất thiết phải phụ thuộc Trung
Quốc.
Về giá có thể sẽ đắt về ngắn hạn nhưng tôi
nghĩ về trung hạn và dài hạn hoàn toàn có thể bù đắp được. Bởi vì hiện nay
những cái chúng ta nhập khẩu từ Trung Quốc có những khi bị đội giá lên. Điển
hình như các hợp đồng mà Trung Quốc thực hiện ở Việt Nam bị kéo dài thời gian,
ban đầu bỏ thầu một nhưng trên thực tế đắt gấp hai gấp ba lần.
Rồi sự không minh bạch trong làm ăn, tham
nhũng, đi đêm ở đó dẫn đến giá rẻ nhưng lại hóa cao và nền kinh tế phải trả giá
mà chính những người nộp thuế đang phải gánh chịu.
Nếu chúng ta chuyển sang làm với các thị
trường đàng hoàng hơn thì cắt được phần giá cao đó thì thừa đủ bù từ việc tìm
kiếm nguồn công nghệ cao hơn, thiết bị đắt hơn.
Tôi nghĩ hiệu quả kinh tế thì đừng lo. Tôi
trông chờ nhất ở cơ hội này để tạo cơ hội cho Việt Nam tự phát triển. Lý do là
vì mấy năm vừa rồi ngành công nghiệp Việt Nam bị bế tắc, bão hòa khi các doanh
nghiệp cảm thấy những sản phẩm mình vẫn làm nhưng thị trường tiêu thụ khó khăn
– kể cả trong nước. Bây giờ phải đi vào những ngành mới. Đây là những ngành mà
chúng ta cứ cắm cổ mua ở nước ngoài thì bây giờ là cơ hội cho các doanh nghiệp
ở Việt Nam có thể phát triển ở nước mình.
Điều kiện cần là hệ thống
chính sách phải có điều kiện mạnh mẽ, điều chỉnh việc phân bổ nguồn lực làm sao
hướng về những ngành có khả năng tạo lợi nhuận cao. Cũng như hệ thống chính
sách khuyến khích phải làm sao cắt bỏ dần những doanh nghiệp chạy theo hướng
tìm kiếm đặc lợi bằng cách chuyển sang khuyến khích doanh nghiệp làm ra giá trị
gia tăng cao, mang lại lợi ích cho nền kinh tế.
Nếu làm được thì chính các
doanh nghiệp này sẽ tạo nên diện mạo khác cho nền kinh tế, giảm đi thế lệ thuộc
vào Trung Quốc.
Xin trân trọng cảm ơn bà!
Bích
Ngọc (thực
hiện)
Tương lai nào cho một dân tộc dưới chính thể
thân Tàu?
Nguyễn Trần Sâm
Trong những thế lực lớn có ảnh hưởng đến tương lai của các dân tộc trong thế giới ngày nay, Mỹ và Tàu Cộng là hai thế lực điển hình, đại diện cho hai mô hình
xã hội và hai xu thế “phát triển”. Các quốc gia thân Mỹ và các quốc gia thân Tàu đi
theo hai đường hướng khác nhau và
có tốc độ “phát triển” cũng rất khác nhau.
Ví dụ điển hình nhất để so sánh xã hội thân Mỹ với xã hội thân Tàu là hai
miền Cao Ly. Đây là hai quốc gia, phía nam được gọi là Đại Hàn Dân Quốc (Daehan
Minguk), và phía bắc là Triều Tiên Dân Chủ Nhân Dân Cộng Hòa Quốc (theo đúng thứ tự như người Chosŏn đọc: Chosŏn Minjuŭi
Inmin Konghwaguk). Chúng vốn là hai nửa của cùng một đất nước, bị tách ra do sự chiếm đóng của hai thế lực ngoại bang, phía bắc là quân Nga Xô
rồi tiếp sau là Tàu Cộng, phía nam là quân Mỹ. Dù sau này các
thế lực ngoại bang rút đi, nhưng hai chính thể đối kháng được các thế lực đó ủng hộ hoặc dung dưỡng ở hai miền đã đưa hai nửa dân tộc đi theo hai con
đường hoàn toàn khác nhau. Hàn Quốc phát triển theo mô hình
dân chủ đa đảng và đạt được những thành tựu vẻ vang, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao (bình
quân thu nhập năm hiện nay là hơn 20 ngàn US$).
Trong khi đó, chính quyền cộng sản ở Triều Tiên đã đẩy hơn 20 triệu nhân mạng vào một thứ địa ngục thuộc loại khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người (con người phải nhai nuốt bất cứ thứ gì kể cả các loại cỏ dại, với hy vọng đủ sống vật vờ để làm cái công việc quan trọng nhất là ca ngợi công đức các “lãnh tụ vĩ đại” cha truyền con nối).
Việt Nam ta cũng đã
từng bị chia làm hai miền bởi chính các thế lực đó, theo cách gần giống hệt Cao Ly. Chỉ khác là chính
quyền phía bắc, với sự trợ giúp của Nga Xô và Tàu Cộng, đã tìm cách
đánh chiếm (hay “giải phóng”) bằng được miền Nam, và đã
thành công vào năm 1975. Đến khi đó thì dân hai miền có điều kiện để so sánh hai chế độ. Và phải nói rằng nếu vì một nguyên nhân nào
đó mà chưa xảy ra cuộc “thống nhất” Bắc-Nam thì đến nay chắc miền Bắc cũng giống Triều Tiên của các đồng chí lãnh tụ vĩ đại họ Kim, còn miền Nam thì giống như Hàn Quốc.
Một trường hợp tương tự: Đông và Tây Đức. Phía đông bị chiếm đóng bởi một đội quân tuy không
phải Tàu Cộng nhưng cũng là cộng sản (Liên Xô), phía
tây bởi quân đồng minh mà chủ yếu là Mỹ. Đến đây thì sự so sánh có phần hơi khập khễnh. Với tiềm năng của một dân tộc văn minh, và do
sự cai trị của Liên Xô cũng đỡ man rợ hơn của Trung Cộng, người Đông Đức đã xây dựng được một nền kinh tế và khoa học – công nghệ vượt trội hơn cả “thiên đường CS” Liên Xô.
Tuy nhiên, so với Tây Đức, dân Đông Đức vẫn chỉ là dân nghèo và
ít được hưởng những quyền tự do cơ bản (bây giờ, sau 25 năm thống nhất, mức sống hai miền đã khá cân bằng).
Hãy xem trong khối ASEAN. Myanmar
đã từng thân Tàu, và nước này là quốc gia có mức thu nhập thấp gần nhất trong khối. Campuchia, đặc biệt thời Pol Pot, đã từng là đồ đệ của Tàu, học làm “cách mạng” theo hình mẫu “CM văn hóa vô
sản” của lãnh tụ Mao. Cuộc sống ở đó ra sao thì ai
cũng đã được biết. Hãy hình dung, nếu chính quyền theo Tàu của nước này vẫn tồn tại đến bây giờ thì sao? Trong
khi đó, ở những nước thân Mỹ và phương Tây như Malaysia,
Singapore, cuộc sống của người dân tại đó đang là niềm mơ ước của hàng triệu người Việt Nam. Thậm chí hàng vạn người Việt đang muốn nộp hàng chục triệu đồng để được sang các nước đó lao động phổ thông. Đó là một thực tế không thể bác bỏ, và không thể giải thích được bằng lý luận
Marxist-Leninist.
Tất nhiên, chính
quyền Mỹ không đổ tiền ra nuôi dân các
nước thân Mỹ. Không những thế, trong quan hệ với các nước khác, Mỹ cũng có những toan tính
riêng. Là con người, là một dân tộc, không thể ngồi trông chờ sự bố thí của một dân tộc khác. Không thể hy vọng chính phủ một nước giàu và mạnh làm hộ cách mạng dân chủ cho dân tộc mình. Tuy
nhiên, chỉ riêng việc chính quyền một nước lạc hậu mở cửa đón nhận những thành tựu của văn minh phương Tây với nền pháp trị cũng đã mở ra những tiềm năng của chính dân tộc đó, làm nó phát
triển theo quỹ đạo chung mà nhân
loại tiến bộ đang đi.
Còn đối với các nước thân Tàu thì chỉ có một kịch bản. Với “giấc mơ Trung Hoa”,
ngoài việc thôn tính dần tài nguyên, đất đai và biển đảo, chính quyền Đại Hán tìm mọi cách mua chuộc giới cầm quyền các nước này. Tiền và gái là hai
chiêu mà mọi thế hệ vua chúa Trung
Hoa, kể cả vua chúa “đỏ”, luôn dùng, và
dùng với tay nghề bậc nhất thiên hạ. Khi đã mua được quá nửa trong số những nhân vật có thế lực nhất, những kẻ còn lại không chịu theo Tàu sẽ dần dần bị loại bằng đủ mọi cách. Những chuyến thăm “không
chính thức” hay đi nghỉ tại những khách sạn kín cực kỳ xa hoa của các chính khách
hàng đầu các nước theo gợi ý của Trung Nam Hải chính là để phục vụ mục đích đó. (Tất nhiên, đối với các chính khách
ở các nước có những đảng đối lập mạnh thì việc mua chuộc như vậy khó khăn hơn rất nhiều so với cánh đến từ các thể chế độc đảng.)
Một khi đã mua được giới cầm quyền ở một nước, Trung Nam Hải sẽ tiếp tục nuôi dưỡng bọn này để cai trị dân tộc đó bằng bàn tay sắt. Mọi sự phản kháng đều sẽ bị đè bẹp. Những cuộc biểu tình phản đối Trung Cộng nói chung sẽ bị dập tắt. (Tuy nhiên,
đôi khi chính người Tàu cũng có thể mua bọn côn đồ, yêu cầu chúng kích động biểu tình để chuyển hướng thành những cuộc bạo loạn, nhằm nhiều ý đồ khác nhau.)
Một trong những việc mà Bắc Kinh sẽ yêu cầu chính quyền thân Tàu phải làm là chống Mỹ và phương Tây nói chung.
Dân và cả vua quan nước đó sẽ bị biến thành những tên lính xung
kích trên “tuyến đầu chống Mỹ”, và sẽ được phỉnh nịnh như được “lịch sử chọn làm điểm tựa”. Bắc Việt, vốn cũng có quyết tâm lấy lại cả miền Nam, đã bị Tàu Cộng (và Nga Xô) lợi dụng để biến thành tên lính xung kích như vậy. Họ Kim ở Bình Nhưỡng đã được cho ăn để thực thi nhiệm vụ quấy rối Mỹ và Hàn Quốc. Mục đích cuối cùng của Tàu Cộng là tiêu diệt Hoa Kỳ, sau đó
đến các cường quốc văn minh khác,
đặng làm bá chủ toàn thế giới. Đó là nội dung chính của “giấc mơ Trung Hoa” mà họ Tập đã thay mặt cho các đời lãnh tụ Trung Quốc nói ra trước toàn thế giới. Và cố nhiên, tương lai dân tộc ở nước chư hầu của Trung Quốc là con đường hầm càng vào sâu
càng đen tối.
Cho nên, cần thấu hiểu được cái tai họa khôn lường của việc làm chư hầu cho Tàu Cộng.
*
Hãy nhìn lại Việt Nam ta. Trước 1986, nhà nước ta được xây dựng theo mô hình gần giống Trung Quốc của Mao, nghĩa là
khá giống với Triều Tiên (tạm gọi là thái cực A). Không thị trường, đặc biệt là thị trường chứng khoán, vì nó được coi là một cái gì đó cực kỳ xấu xa tồi tệ mà chỉ chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn “giãy chết” mới có. Quá trình “đổi mới” đã chấp nhận thị trường, kể cả thị trường chứng khoán. Dù cắm thêm cái đuôi
“định hướng XHCN” thì việc chấp nhận kinh tế thị trường và tiến hành một vài cải cách nho nhỏ về chính trị và tư pháp vẫn là một bước đi rời khỏi thái cực A, hướng về phía thái cực Z, tức là mô hình các
nước tư bản phát triển. Như vậy, nếu coi bước đi này là đúng
thì phải thừa nhận rằng phía thái cực Z là phía văn
minh, thái cực A là lạc hậu, phản động. Còn nếu không công nhận như vậy thì phải thừa nhận “đổi mới” là sai lầm, là có tội. Chỉ một bộ não chưa có hoạt động nhận thức, chưa tập tư duy, mới không rút ra được kết luận sơ đẳng như vậy.
Tuy nhiên, chút thành tựu mà dân tộc ta vừa có được sau gần 3 thập niên đổi mới ì ạch đang có nguy cơ bị xóa sổ! Vào những ngày này, mặc dù các phương tiện truyền thông đang hàng
giờ nói về những hành động gây hấn của Tàu Cộng, mặc dù một vài quan chức quan trọng của chính phủ đã thể hiện thái độ kiên quyết phản đối Trung Quốc và mặc dù các chính phủ Nhật, Mỹ cũng lên tiếng về tự do hàng hải ở biển Đông, nhưng tất cả chỉ có vậy. Niềm hy vọng vào việc “thoát Hán” và
những thay đổi của xã hội Việt Nam theo hướng dân chủ hóa tỏ ra có khả năng là hão huyền! Nguy cơ đó được thể hiện ở các hiện tượng sau.
Một là sự im lặng khó hiểu của hầu hết những nhân vật trong nhóm quyền lực hàng đầu (đặc biệt là những nhân vật xuất thân từ ngành tuyên huấn). Tai hại hơn nữa, những lời lẽ khẳng định việc kiên trì “tình
hữu nghị” còn phát ra từ miệng người đứng đầu quân đội, lực lượng chịu trách nhiệm bảo vệ đất nước trước mọi sự đe dọa từ bên ngoài. Bài
phát biểu của nhân vật này vừa qua tại Shangri-La chắc chắn phải được khá nhiều nhân vật có thế lực ủng hộ.
Hai là việc lợi dụng những sự lộn xộn trong biểu tình ở một số nơi để cấm đoán và dập tắt biểu tình chống Tàu Cộng, đe dọa đàn áp tàn bạo tất cả những người dám tự tổ chức biểu tình, và việc tiếp tục bắt bớ, hành hung những người nêu ý kiến “trái chiều” với nhà cầm quyền.
Ba là sự thất thế của một vài nhân vật quan trọng có tiếng nói mạnh mẽ lên án việc Tàu Cộng gây hấn. Lý do thất thế rất tiếc là liên quan đến những vụ tham nhũng vô độ, vượt mặt những nhân vật có vị thế cao hơn nhưng không trực tiếp quản lý ngân khố và tài sản quốc gia.
Bốn là việc cố tình trì hoãn
quá trình pháp lý để khởi kiện Trung Quốc ra một tòa án quốc tế. Mặc dù nội dung và các bước đi đã được chuẩn bị xong từ lâu, nhưng những người chủ trương kiện TQ vẫn phải chờ một sự cho phép nào đó,
và có vẻ như những nhân vật có quyền “cho phép”
không hề muốn kiện vì sợ sứt mẻ “tình anh em” và
vì nhiều lý do “tế nhị” khác nữa.
Suốt một tháng qua, mấy chục triệu con dân nước Việt đã chờ đợi một động thái dứt khoát của những người có quyền hành đối với việc gây hấn của tập đoàn Đại Hán. Thế nhưng, có vẻ như sự chờ đợi này sẽ không được đáp ứng. Có vẻ như nhà cầm quyền TQ đang nổi cơn điên vì đám người thân họ vẫn chưa trị được một vài nhân vật cứng đầu. Họ đang làm những động thái quyết liệt để ép nhóm người kia thực hiện những bước đi cuối cùng để VN hoặc quy phục TQ hoàn toàn,
hoặc sẽ phải “hứng chịu sự trừng phạt” từ phía họ.
Nếu kịch bản thứ nhất xảy ra, nghĩa là
nhóm quyền lực của VN không thể rời bỏ được “phương châm 16 chữ vàng”, thì một thời kỳ đen tối nhất đối với dân tộc Việt Nam đang chờ ở phía trước!
Tuy nhiên, tôi tin vào tính quy luật của tiến trình lịch sử. Vận mệnh dân tộc sẽ thay đổi, và đang có những dấu hiệu thay đổi. Những thế lực đưa đất nước vào tình trạng lệ thuộc Tàu Cộng sẽ đến lúc bị dân tộc loại bỏ. Những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống dù có quỳ mọp dưới chân vua chúa
“thiên triều” thì cũng không thể giữ được địa vị thống trị. Thậm chí, bọn họ phải sống những năm tháng cuối đời trong sự ô nhục tận cùng!
Muốn thoát khỏi sự ô nhục, chỉ có một con đường duy nhất là bỏ bọn Đại Hán, quay lại với dân tộc!
__._,_.___
Thoát
Trung hay thoát Cộng?
Kính
Hòa, phóng viên RFA
2014-06-09
2014-06-09
- In trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến của
Bạn
- Email
Phó Thủ tướng Việt Nam
Nguyễn Thiện Nhân (T) bắt tay với Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường trong một
cuộc họp tại Nam Hải, Bắc Kinh vào ngày 10 Tháng 5 năm 2013
AFP photo
Cuộc hội thảo làm thế
nào để thoát Trung được một số trí thức trong nước tổ chức tại Hà nội vào đầu
tháng sáu năm 2014, mặc dù không được báo chí trong nước đưa tin nhưng cũng gây
được sự chú ý nơi công luận. Có nhiều ý kiến cho rằng khuôn khổ của hội thảo đã
rất bị hạn chế.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment