TẠI SAO CHÚNG TA PHẢI THAY ĐỔI
THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ TRƯỚC KHI CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM HAY SỰ QUAN TRỌNG CỦA THỂ CHẾ
CHÍNH TRỊ TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI, XÃ HỘI, VĂN HÓA VÀ VĂN MINH
Posted on June 8, 2014 by HNSG
Nhiều người chưa ý thức rõ vai trò của thể chế hay chế độ chính trị trong đời sống con người và xa hơn nữa là xã hội, văn hóa, văn
minh. Chính vì lẽ đó, mà chúng ta nên có một cái nhìn xét lại, rõ ràng hơn, nhất là trước nguy cơ bành trướng của Tàu cộng.
Hơn nữa bài học trước mắt tại Ukrain, người dân đã xuống đường lật đổ chế độ độc tài, tham nhũng
của Yanukovych, kẻ đã vì quyền lợi cá nhân, gia
đình sẵn sàng bó gối quy hàng Nga, sau đó bầu ra vị tổng thống mới với chủ trương đoàn kết toàn dân, thân
thiện với thế giới tự do, đối thoại bình đẳng với Nga để bảo toàn lãnh thổ.
Thể chế hay chế độ chính trị là mô hình tổ chức nhân xã, nói một cách dễ hiểu, là tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp của một cộng đồng con người.
Người ta thấy có chế độ độc tài, chế độ dân chủ. Trong chế độ độc tài có nghĩa là chế độ mà quyền hành nằm trong tay một người hay một nhóm người (oligarchie).
Trong chế độ dân chủ là chế độ mà quyền hành nằm trong tay người dân, người dân có quyền quyết định số phận của mình, người ta thấy có dân chủ trực tiếp, như ở Thụy sĩ, những quyết định quan trọng đều do trưng cầu dân ý quyết định; và chế độ dân chủ gián tiếp, người dân bầu ra đại diện của mình, trong một nhiệm kỳ, những người được bầu này thay mặt dân lấy những quyết định.
Hiện nay, phần lớn những chế độ dân chủ là những chế độ dân chủ gián tiếp.
Trong chế độ dân chủ gián tiếp, người ta thấy có chế độ tổng thống như ở Hoa kỳ, chế độ đại nghị như ở bên Anh và phần lớn ở các quốc gia trên thế giới. Người ta cũng có thể thêm chế độ nửa tổng thống chế, nửa đại nghị chế, như ở bên Pháp.
I) Sự quan trọng của thể chế chính trị trong đời sống con người
Thể chế chính trị giữ một vai trò tối quan trọng trong sự phát triển đời sống con người. Vì vậy có người ví thể chế chính trị như mảnh đất và người dân như hạt mầm.
Con người dù là da vàng, da trắng hay da đen có
thể ví như hạt mầm, nếu hạt mầm này được gieo vào một mảnh đất tốt, tức sống dưới một chế độ tốt, chế độ tôn trọng con người, những quyền căn bản của con người được bảo đảm, đồng thời được hướng dẫn, dìu dắt bởi một nền giáo dục tốt, một hệ thống an sinh xã hội tốt, thì hạt mầm này sẽ kết bông, nẩy trái.
Ngược lại, nếu hạt mầm này được gieo trên một mảnh đất khô cằn, tức một thể chế chính trị xấu, không lo đến quyền lợi của người dân, mà chỉ lo đến quyền lợi của một số người, coi thường những quyền căn bản của con người, áp dụng một hệ thống giáo dục tuyên truyền nhồi sọ, đa số đời sống của người dân trở nên cơ cực, trong khi một thiểu số cầm quyền tiêu sài theo
kiểu vất tiền qua cửa sổ, an sinh xã hội của dân không được bảo đảm, trẻ em sơ sinh thiếu dinh dưỡng, khi bệnh thì thiếu thuốc, không có bác
sĩ, không dám đi nhà thương, thì tất nhiên hạt mầm này sẽ thui chột, chẳng khác nào được gieo trên một mảnh đất khô cằn, toàn là sỏi đá.
Ngày hôm nay, theo những nhà và viện nghiên cứu về dân chủ, thì chế độ dân chủ, mặc dầu không được coi là chế độ hoàn hảo nhất, nhưng nó được coi là chế độ hiện hành tốt nhất để giúp con người và xã hội phát triển.
Chúng ta hãy lấy thí dụ điển hình để dễ hiểu, hai chế độ chính trị Nam Hàn và Bắc Hàn. Chế độ Bắc Hàn là một chế độ cộng sản độc tài, người dân sống dưới chế độ này không những không thể phát triển được, mà hàng năm
còn bị nạn đói hoành hành từ bao chục năm nay.
Ngoài
xã hội thì những hãng xưởng thiếu điện để chạy nhà máy, trong
khi những công thự, những chỗ tôn thờ lãnh tụ, thì điện chan hòa cả ngày lẫn đêm. Giáo dục là một nền giáo dục nhồi sọ, từ trẻ em cho đến người lớn chỉ biết vâng lời, gọi dạ bảo vâng, nhắc lại những khẩu hiệu tuyên truyền rỗng tuếch.
Trong khi đó thì Nam Hàn hiện nay vô cùng phát triển. Chúng ta chỉ cần lấy một vài thí dụ điển hình: Nền khoa học kỹ thuật tân tiến hiện nay được coi là ngành điện thoại cầm tay, vì trong đó là cả một cái máy điện toán tối tân, thế mà Nam Hàn với hãng Samsung đứng đầu trong việc sản xuất và bán trên thị trường đã lâu, trên cả hãng Apple của Hoa kỳ và hãng
Nokia của Phần Lan.
Ngành xe hơi cũng vậy, hãng Kia của Nam Hàn, mặc dầu mới xuất hiện, nhưng số lượng bán cũng không
thua gì những hãng quốc tế nổi tiếng lâu đời khác như hãng Général Motor, Toyata, Wolkswagen, Renault.
Nam Hàn từ mấy chục năm nay đã nổi tiếng về giáo dục, người thợ Nam hàn có một trình độ hiểu biết tổng quát đứng đầu thế giới. Người chuyên viên Nam
Hàn cần cù làm việc, chịu khó học hỏi, đi làm việc nơi nào cũng được trọng. Bằng cớ là hai tổ chức quốc tế quan trọng nhất thế giới là Liên Hiệp quốc và Ngân Hàng quốc tế, đều được cầm đầu bởi người Nam Hàn.
Được như vậy, tất nhiên do nhiều nguyên do, nhưng một trong những lý do chính,
đó là dân Nam Hàn được sống dưới một chế độ tự do, dân chủ, mặc dầu chế độ này mới được thiết lập vào khoảng thập niên 80.
Không nói đâu xa, chúng ta trở về Việt Nam thời cận đại: Hai chế độ miền Nam Việt Nam trước năm 1975 là hai chế độ cộng hòa, Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng hòa. Hai chế độ này, vào thời đó có thể nói là 2 chế độ dân chủ, tất nhiên không thể so sánh với những nước dân chủ tiền tiến, nhưng nó là một trong những nước dân chủ đầu tiên ở châu Á, chỉ thua có Nhật. Chính vì vậy mà miền Nam cũng đã
phát triển, hơn cả Nam Hàn và Đài loan lúc bấy giờ. Nếu tính theo sản lượng đầu người hàng năm thì
vào cuối thời Đệ Nhất Cộng hòa, sản lượng của miền Nam Việt nam là 118 $,
trong khi đó của Nam Hàn và Đài
loan là trên dưới 80 $.
Sự phát triển của miền Nam được ngay những người cộng sản công nhận, như ông Lê đăng
Doanh, « nhà kinh tế « cộng sản, trong một bài phỏng vấn của đài BBC, cũng
công nhận là sau 1975, ông vào thăm miền Nam đầu tiên, ông đã phải ngạc nhiên về trình độ phát triển, ông đi thăm những vùng quê, ông
thấy nơi nào cũng có điện, có máy cày, đời sống người dân tương đối đầy đủ.
Nhà văn Dương thu Hương, cùng với « đoàn quân chiến thắng » vào miền Nam, trước đời sống dân miền Nam, bà đã sửng sờ, bà tìm một góc phố, như lời bà kể, để khóc, và sau đó
tuyên bố : « Tôi đã
cùng một đoàn quân chiến thắng, nhưng mô hình tổ chức xã hội của kẻ chiến bại lại văn minh hơn mô hình của kẻ chiến thắng « .
Chính « Luật Người cày có ruộng « của thời Đệ Nhị Cộng hòa Việt nam đã được chính phủ Đài loan bắt chước và đem áp dụng thành công ở nước này. Chỉ tiếc rằng những gì đã được xây dựng ở miền Nam đã bị cộng sản đổ xuống sông, xuống biển. Chính vì vậy mà dân miền Nam đã có câu:
« Năm đồng đổi lấy một xu, người khôn đi học, thằng ngu làm thầy « .
Hiện nay cộng sản nói rằng đổi mới, nhưng thực sự là trở lại những thành qủa của miền Nam trước kia đã đạt được, nhưng khập khiểng, vì thể chế chính trị vẫn là chế độ cộng sản độc tài, vẫn lấy lý thuyết Mác Lê làm nền tảng cho chế độ, như đã được ghi trong hiến pháp; giáo dục thì nhồi sọ, đạo đức thì suy đồi, an sinh xã hội thì không có.
Nếu chúng ta nói đến sự quan trọng của thể chế chính trị trong sự phát triển con người và xã hội, văn minh, văn
hóa, thì chúng ta có thể dẫn chứng rất nhiều.
Ở đây tôi chỉ xin nhắc đến ông Alexis de
Tocqueville (1805 – 1859), với hai quyển sách nổi tiếng « De la Démocratie de l’Amérique ( Về chế độ dân chủ ở châu Mỹ ), viết từ năm 1835 tới 1840, và quyển « De l’Ancien Régime et la Révolution
« ( Về Chế độ cũ và Cách mạng) xuất bản năm 1856.
Sở dĩ tôi nói đến ông Tocqueville
là vì hiện nay, đảng Cộng sản Trung cộng, nhất là Ban Tư tưởng và ý thức hệ đang khuyên các
đảng viên đọc và suy ngẫm về quyển sách của ông, đặc biệt là câu trong
quyển sách thứ nhì: « Giai đoạn nguy hiểm nhất cho một chế độ, đó là lúc mà nó
bắt đầu cải tổ.
«Theo Tocqueville, thì « Ý tưởng dân chủ, bắt đầu bằng sự công bằng điều kiện ( égalités des conditions) là một cái gì thiêng liêng, không thể tước bỏ được và nó chính là một động lực làm cho những chế độ độc tài sụp đổ ». Quyển sách về dân chủ Hoa kỳ là một quyển sách cho tới bây giờ, giới trí thức nước này vẫn cho là một trong những quyển sách hay nhất qua nhận xét, phân tích và tiên đoán về Hoa Kỳ.
«Theo Tocqueville, thì « Ý tưởng dân chủ, bắt đầu bằng sự công bằng điều kiện ( égalités des conditions) là một cái gì thiêng liêng, không thể tước bỏ được và nó chính là một động lực làm cho những chế độ độc tài sụp đổ ». Quyển sách về dân chủ Hoa kỳ là một quyển sách cho tới bây giờ, giới trí thức nước này vẫn cho là một trong những quyển sách hay nhất qua nhận xét, phân tích và tiên đoán về Hoa Kỳ.
Theo Tocqueville thì đây quả là một nền dân chủ gián tiếp, với một hiến pháp thành văn,
tôn trọng những quyền căn bản của con người, tôn trọng tam quyền phân lập, và nhất là sự quân bằng quyền hành, giữa quyền trung ương và địa phương, giữa quyền hành pháp và lập pháp, giữa quyền lập pháp và tư pháp.
Từ đó cho tới nay, không ai chối cãi rằng nền dân chủ Hoa Kỳ quả là một mảnh đất mầu mỡ cho mọi con người đến từ mọi chủng tộc, nẩy mầm và phát triển.
Từ đó cho tới nay, không ai chối cãi rằng nền dân chủ Hoa Kỳ quả là một mảnh đất mầu mỡ cho mọi con người đến từ mọi chủng tộc, nẩy mầm và phát triển.
Với quyển sách thứ nhì, mà nay Ban
Tư tưởng Trung ương Trung cộng đang yêu cầu cán bộ học hỏi, nói về tại sao chế độ cũ, tức chế độ quân chủ của vua Louïs XVI
Pháp lại sụp đổ. Câu trả lời của Tocqueville tất nhiên là vì chế độ này đã cấm đoán tự do.
Tuy nhiên ông cũng cảnh cáo chế độ dân chủ là không nên mắc vào « nạn độc tài số đông « (despotisme de la majorité). Để tránh điều này thì nên có sự tản quyền, tôn trọng quyền tự do báo chí và làm thế nào để tam quyền phân lập rõ ràng và nhất là quyền tư pháp được độc lập.
Tuy nhiên ông cũng cảnh cáo chế độ dân chủ là không nên mắc vào « nạn độc tài số đông « (despotisme de la majorité). Để tránh điều này thì nên có sự tản quyền, tôn trọng quyền tự do báo chí và làm thế nào để tam quyền phân lập rõ ràng và nhất là quyền tư pháp được độc lập.
Một câu hỏi đến với chúng ta là tại sao Ban Tư tưởng của Trung Ương đảng Cộng sản Trung cộng lại yêu cầu cán bộ học hỏi tư tưởng của Tocqueville và
nhất là suy ngẫm câu vừa nói ở trên: « Thời điểm nguy hiểm nhất của một chế độ …. « . Vì đảng Cộng sản Tàu cũng ý thức rất rõ rằng mình không thể nào đi ngược lại trào lưu tiến bộ của văn minh nhân
loại, đó là đi đến thể chế chính trị tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền, và từ đó tất nhiên là phải cải tổ, vứt bỏ tư tưởng Mác Lê Mao, chủ trương độc khuynh, độc đảng, độc tài. Tuy nhiên
vấn đề là cải tổ thế nào để không đi đến cách mạng, làm sụp đổ chế độ, mất hết những đặc quyền, đặc lợi của một thiểu số người nắm quyền.
Đây là một vấn đề nan giải mà Tocqueville
đã nhìn thấy và đặt ra với chế độ quân chủ Pháp thời vua Louïs XVI
và cho rằng một trong những lý do chính của sự sụp đổ chế độ là vì chế độ này bắt đầu cải tổ.
Từ cái nhìn của Tocqueville,
chúng ta nhìn vào lịch sử cận đại.
Chúng ta thấy rằng lịch sử, trái lại với một số nhà tư tưởng cho rằng biến chuyển thế này thế nọ, theo đường thẳng, đường trôn ốc, theo óc tưởng tượng đã đánh đồng lịch sử với toán học, tóm gọn sự biến chuyển lịch sử qua một phương trình toán học, rồi từ đó suy đoán ảo tưởng, nhưng nhiều khi lịch sử chỉ là một sự lập lại, nếu chúng ta đem so sánh sự sụp đổ của đế quốc cộng sản Liên sô dưới thời Gorbatchev và sự sụp đổ của triều đình quân chủ Pháp Louïs XVI.
Nhưng phải chăng trong lịch sử cận đại không có một chế độ độc tài nào tự sửa đổi, cải tổ để đi đến chế độ dân chủ mà thành công ? Câu trả lời là có. Chúng ta
chỉ cần lấy thí dụ gần chúng ta và
chúng ta cũng biết đôi chút. Đó là Nam Hàn và Đài loan. Nam Hàn và Đài loan trước thập niên 80 là dưới chế độ độc tài.
Có người cho rằng, độc tài Nam Hàn và Đài loan là độc tài hữu, khác với độc tài Trung cộng và Việt Nam là độc tài tả, có sự khác biệt. Điều này không sai.
Tuy nhiên trong chính trị, dù là tả hay hữu, nhất là người lãnh đạo, khi đã sáng suốt, có ý chí nhất quyết làm vì nước vì dân, thì
cũng có thể làm nhiều chuyện, trong đó có cả việc thay đổi một chế độ.
II) Sự quan trọng của thể chế chính trị trong xã hội, văn hóa và văn minh nhân loại
II) Sự quan trọng của thể chế chính trị trong xã hội, văn hóa và văn minh nhân loại
Xã hội chúng ta có thể định nghĩa đơn giản là cách sống của một nhóm người có tổ chức, với những truyền thống, luật lệ, cơ chế, trải qua những thời đại. Nói một cách khác đi,
đó là cách tổ chức xã hội con người ở vào một thời điểm nhất định nào đó, chính là chế độ, thể chế, tức cách tổ chức chính trị, kinh tế, luật pháp, văn hóa,
xã hội.
Văn hóa, văn là đẹp, hóa là biến đổi, đây là tất cả những hành động của con người làm thăng tiến đời sống của mình trên hai
phương diện vật chất và tinh thần. Một khi những hành động này có ảnh hưởng rộng lớn, trong một vùng, trải qua một thời gian dài, thì
nó trở thành văn minh.
Văn cũng là đẹp, minh là chiếu sáng, có ảnh hưởng lâu dài và rộng lớn.
Một số sử gia và nhân chủng học cho rằng con người trải qua 5 thời kỳ văn minh :
Văn minh trẩy hái, vào lúc con người mới xuất hiện trên trái đất, sống trong hang đá,
hái trái cây, săn bắn ở chung quanh để sinh sống.
Văn minh du mục: rồi cây trái, súc vật ở chung quanh cũng trở nên khan hiếm, con người phải đi xa để tìm kiếm, nó bước sang thời kỳ văn minh du
mục.
Nhưng ngay dù đi xa để kiếm ăn, thức ăn cũng trở nên khó khăn,
con người phải trồng trọt, nuôi súc vật. Nó bước sang thời kỳ văn minh định cư nông nghiệp.
Với nền văn minh này,
con người đã có thể thỏa mãn những nhu cầu căn bản của mình, nghĩa là
khi đói thì có ăn, khi lạnh thì có áo để bận, con người bắt đầu nghĩ đến những nhu cầu xa xỉ, muốn ăn ngon, mặc đẹp, con người trao đổi với nhau về những sản phẩm mình làm ra, có
nghĩa là tôi trồng lúa mì để ăn, nhưng tôi thích ăn
lúa mạch, thì tôi trao đổi với người trồng lúa mạch; tôi có thể dệt vải để mặc, nhưng thôi thích mặc lụa, thì tôi trao đổi với người dệt lụa.
Con đường Gia vị, con đường Tơ lụa nối liền đông tây trong lịch sử nhân loại, có nghĩa là thế.Từ đó con người bước sang nền văn minh trao đổi thương mại.
Con đường Gia vị, con đường Tơ lụa nối liền đông tây trong lịch sử nhân loại, có nghĩa là thế.Từ đó con người bước sang nền văn minh trao đổi thương mại.
Ngày xưa, con người phải đi xa để trao đổi, nhưng từ ngày có phát
minh ra điện, điện thoại, điện toán, con người không cần phải đi xa để trao đổi, con người bước sang nền văn minh tri thức điện toán, như ngày hôm nay.
Vào thời văn minh trẩy hái, du mục, canh nông, lao
động chủ yếu là dùng sức mạnh bắp thịt chân tay. Nhưng bước sang văn minh thương mại, nhất là văn minh tri
thức điện toán ngày hôm nay, lao động chủ yếu là tư tưởng, phát minh
sáng kiến, từ đầu óc con người.
Mỗi một thời văn minh có một hình thức tổ chức nhân xã tương xứng. Thời văn minh trẩy hái, du mục, đó là chế độ gia tộc, bộ lạc. Bước sang thời kỳ văn minh định cư nông nghiệp, là chế độ quân chủ. Nhưng sang thời kỳ văn minh thương mại, tri thức, điện toán, đó là chế độ dân chủ, vì để trao đổi là phải có người khác, phải có đối thoại.
Socrate nói: « Nơi nào có đối thoại, nơi đó mới có tiến bộ và dân chủ « là như vậy. Nhất là vào thời kỳ văn minh tri
thức điện toán ngày hôm nay, để phát minh, sáng
kiến, con người bắt buộc phải sống dưới chế độ dân chủ, vì phải có tự do tư tưởng, trao đổi tư tưởng, công trình
tìm kiếm, thì lúc đó con người mới có thể có những ý kiến mới. Voltaire cũng
đã từng nói: « Tự do tư tưởng và ngôn luận là hai cột trụ chính của chế độ dân chủ.
«
«
Mỗi một mô hình tổ chức nhân xã là một bước tiến của nhân loại. Nhưng nếu kéo dài quá thì
lại trở thành vật cản trở, như chế độ quân chủ là một bước tiến so với chế độ gia tộc và bộ lạc, nhưng kéo dài lâu
quá thì trở thành lạc hậu, ngăn cản bước tiến của con người.
Trong khi một chế độ như chế độ quân chủ kéo dài cả bao ngàn năm, không những lỗi thời, mà còn trở nên giết người, vì một thiểu số nắm quyền, muốn kéo dài đặc ân, đặc lợi, bổng lộc của mình, không ngần ngại dùng bất cứ thủ đoạn nào, từ thông tin tuyên truyền lừa bịp, đến dùng cái còng với công an và dùng cái súng với lính để đàn áp dân. Người ta nói: « Chế độ độc tài là chế độ của cái loa, cái còng và cái súng « là vậy.
Trong khi một chế độ như chế độ quân chủ kéo dài cả bao ngàn năm, không những lỗi thời, mà còn trở nên giết người, vì một thiểu số nắm quyền, muốn kéo dài đặc ân, đặc lợi, bổng lộc của mình, không ngần ngại dùng bất cứ thủ đoạn nào, từ thông tin tuyên truyền lừa bịp, đến dùng cái còng với công an và dùng cái súng với lính để đàn áp dân. Người ta nói: « Chế độ độc tài là chế độ của cái loa, cái còng và cái súng « là vậy.
Nhìn vào lịch sử cận đại, 2 chế độ cái loa cái còng
và cái súng là chế độ độc tài phát xít
Hitler và chế độ cộng sản. Cả hai đều dựa trên quan niệm triết lý, tư tưởng bất bình thường: Hitler cho rằng chủng tộc Aryen là chủng tộc tinh khiết, không pha trộn với những chủng tộc khác, nên thông
minh. Đây là một điều vô cùng phản khoa học.
Dân tộc Đức tiêu biểu cho chủng tộc này, nên thông minh, đáng để cầm đầu thế giới. Chính vì vậy nên Hitler đã không ngần ngại phát động chiến tranh khắp nơi. Marx thì cho rằng lịch sử con người là bạo động, là đấu tranh giai cấp, không ngần ngại mở đầu Bản Tuyên Ngôn thư Cộng sản: « Lịch sử nhân loại từ xưa tới nay là lịch sử của đấu tranh giai cấp. »
Đây cũng là một cái nhìn quá phiến diện và tổng quát hóa, chẳng có gì là khoa học, như những người cộng sản, bắt đầu bởi Marx thường rêu rao: « Khoa học lịch sử, khoa học biện chứng. »
Dân tộc Đức tiêu biểu cho chủng tộc này, nên thông minh, đáng để cầm đầu thế giới. Chính vì vậy nên Hitler đã không ngần ngại phát động chiến tranh khắp nơi. Marx thì cho rằng lịch sử con người là bạo động, là đấu tranh giai cấp, không ngần ngại mở đầu Bản Tuyên Ngôn thư Cộng sản: « Lịch sử nhân loại từ xưa tới nay là lịch sử của đấu tranh giai cấp. »
Đây cũng là một cái nhìn quá phiến diện và tổng quát hóa, chẳng có gì là khoa học, như những người cộng sản, bắt đầu bởi Marx thường rêu rao: « Khoa học lịch sử, khoa học biện chứng. »
Không cần chứng minh dài dòng,
chúng ta chỉ nhìn chính chúng ta và những người chung quanh,
xét cuộc đời thì chúng ta rõ: Bình thường con người muốn sống hòa bình. Con
người chỉ dùng bạo động trong những trường hợp bị bắt buộc, trường hợp bất bình thường. Điều này đúng với cả lịch sử của những quốc gia.
Marx và những người cộng sản đã lấy cái gì bất bình thường làm cái bình thường, nên từ lý thuyết cho đến chế độ đã trở nên bất bình thường, bệnh hoạn.
Marx và những người cộng sản đã lấy cái gì bất bình thường làm cái bình thường, nên từ lý thuyết cho đến chế độ đã trở nên bất bình thường, bệnh hoạn.
Đấy lại chưa nói đến ngay từ lúc đầu, chế độ cộng sản, bề ngoài thì mang
nhãn hiệu « Thế giới đại đồng, Anh em cộng sản « , nhưng bên trong là chủ nghĩa quốc gia cực đoan, bành trướng.
Bề ngoài mang nhãn hiệu « Liên bang các cộng hòa xã hội sô viết « ( URSS), nhưng bên trong, Lénine, qua tay em của mình là Staline, vì lúc đó Staline đã đặc trách về vấn đề các dân tộc, tìm cách ép buộc, đàn áp, giết hại những dân tộc chung quanh, bắt họ đi theo Liên sô. Bằng chứng rõ ràng là khi đế quốc Liên sô sụp đổ năm 1989, thì những dân tộc này nổi lên đòi độc lập.
Bề ngoài mang nhãn hiệu « Liên bang các cộng hòa xã hội sô viết « ( URSS), nhưng bên trong, Lénine, qua tay em của mình là Staline, vì lúc đó Staline đã đặc trách về vấn đề các dân tộc, tìm cách ép buộc, đàn áp, giết hại những dân tộc chung quanh, bắt họ đi theo Liên sô. Bằng chứng rõ ràng là khi đế quốc Liên sô sụp đổ năm 1989, thì những dân tộc này nổi lên đòi độc lập.
Chính vì mang đầu óc quốc gia cực đoan, bành trướng, nên đã có những vụ tranh chấp Nga – Hoa ở biên giới vào những năm 60, tranh
chấp giữa Việt Cộng và Trung cộng, rồi đi đến chiến tranh năm 1979,
tranh chấp Việt Miên rồi cũng đi đến chiến tranh trước đó một năm, 1978.
Sau khi Liên sô sụp đổ, thì Việt cộng vội chạy đi thần phục Trung cộng, mở đầu bằng Hội nghị Thành đô tháng
3/1990, và không ngừng ký những hiệp ước dâng đất nhượng biển cho Trung cộng.
Nhưng vì Trung cộng từ xưa đã mang mộng bành trướng đế quốc, nay lại được cấy vào vi trùng bất bình thường Mác Lê, nên mộng bành trướng càng ngày càng mạnh. Mặc dầu cả 2 bên, lúc nào cũng rêu rao « Bốn tốt và mười sáu chữ vàng «; nhưng đùng một cái, Trung cộng cho đặt giàn khoan, xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam.
Nhưng vì Trung cộng từ xưa đã mang mộng bành trướng đế quốc, nay lại được cấy vào vi trùng bất bình thường Mác Lê, nên mộng bành trướng càng ngày càng mạnh. Mặc dầu cả 2 bên, lúc nào cũng rêu rao « Bốn tốt và mười sáu chữ vàng «; nhưng đùng một cái, Trung cộng cho đặt giàn khoan, xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam.
Nhiều người vì tin tưởng ở những câu nói đầu môi, chót lưỡi của cộng sản, « Tình Huynh đệ tốt, Môi hở răng lạnh, Tình đồng chí cộng sản «, đã ngỡ ngàng về sự việc Trung cộng đặt giàn khoan dầu ở quần đảo Hoàng sa, thuộc về chủ quyền Việt Nam. Thực ra nếu chúng ta xét lịch sử xa của cộng sản, thì chúng ta
không có gì ngạc nhiên. Trung cộng và Việt cộng đã nhiều lần đánh nhau.
Bởi lẽ đó, chừng nào hai dân tộc Việt Nam và Trung
hoa vẫn còn phải mang cái ách chế độ cộng sản, lấy lý thuyết Marx làm nền tảng cho chế độ, kêu gọi đấu tranh giai cấp, một lời kêu gọi chiến tranh triền miên, không những chiến tranh trong
chính nội bộ, mà còn chiến tranh với nước ngoài, chừng đó hai dân tộc không thể nào sống hòa bình, hòa
bình với chính mình, hòa bình với các nước chung quanh và
với cộng đồng thế giới.
Người dân sống dưới chế độ độc tài phát xít hay độc tài cộng sản không những chỉ như một hạt mầm gieo trên một mảnh đất khô cằn, mà còn bị giới lãnh đạo dùng như những bia đỡ đạn cho tham vọng bành trướng và đế quốc của mình.
Vì vậy, ngày hôm nay, những chế độ độc đoán độc tài, không phát
triển hay phát triển chậm hơn những chế độ dân chủ và đi ngược lại trào lưu tiến hóa của con người là như vậy.
Quả thưc nhân loại đã trải qua 5 nền văn minh, từ trẩy hái qua du mục, quân chủ tới dân chủ ngày hôm nay, mỗi một nền văn minh tương xứng với một mô hình tổ chức nhân xã khác
nhau, hay nói một cách rõ hơn, hiện đại hơn là cách tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, hoặc chế độ hay thể chế chính trị khác nhau, từ thể chế gia tộc, bộ lạc, tới quân chủ và dân chủ.
Nước Tàu và Việt Nam hiện nay nói riêng và các nước phương đông nói chung
trong đó có cả các nước Trung Đông, những nước này đã có một nền văn minh rất sớm, hơn cả tây phương. Nhưng tiếc rằng chế độ quân chủ kéo dài quá lâu.
Ngày hôm nay chế độ cộng sản ở Tàu và Việt Nam cũng chỉ là một chế độ quân chủ phong kiến trá hình. Chế độ quân chủ này trước khi tàn thì
bùng lên ở phía phải tức chế độ phát xít, bùng
lên ở phía tả, tức chế độ cộng sản, để rồi sẽ tắt luôn như một nhóm lửa trước khi tàn.
Tây phương, mặc dầu văn minh đến chậm hơn đông phương, nhưng đã biết từ bỏ sớm chế độ quân chủ để bước sang chế độ dân chủ và kinh tế thị trường và đã phát triển rất mạnh, vượt mặt đông phương.
Đối với những chế độ quân chủ, từ lạc hậu như ở các nước Trung Đông, cấm đoán ngay cả những người phụ nữ làm đủ mọi thứ nghề, ra đường phải bịt mặt, tới chế độ cộng sản, tước hết mọi quyền căn bản nhất của con người; người xưa có câu « Trễ còn hơn không «, hãy từ bỏ thể chế chính trị quân chủ phong kiến, độc tài cộng sản, để bước sang chế độ dân chủ, tôn trọng những quyền căn bản của con người, trong đó có
nam nữ bình quyền, có quyền tự do tư tưởng và ngôn luận, thì mới hy vọng theo kịp những nước văn minh.
Gương Nam Hàn và Đài loan cho ta thấy rõ. Hai nước này đã từ bỏ chế độ độc tài vào thập niên 80, để bước sang chế độ dân chủ, thế mà ngày hôm nay cả 2 nước đã có thể sánh cùng với những nước văn minh khác trên thế giới.
Gương Nam Hàn và Đài loan cho ta thấy rõ. Hai nước này đã từ bỏ chế độ độc tài vào thập niên 80, để bước sang chế độ dân chủ, thế mà ngày hôm nay cả 2 nước đã có thể sánh cùng với những nước văn minh khác trên thế giới.
Đất nước và dân tộc đang đứng trước hiểm họa diệt vong, trong thì
đảng cộng sản mặc tình cấu kết với ngoại bang bán đất dâng biển, hèn với giặc, ác với dân, giết hết tinh anh, triệt mọi cơ hội phát triển của người dân, ngoài thì
Tàu cộng lộng hành, ngang nhiên kéo dàn khoan
đến vùng biển Việt Nam.
Con đường duy nhất để chống ngoại xâm là bằng mọi cách phải thay đổi thể chế chính trị, từ độc tài cộng sản qua Dân chủ Tự do, vì có như thế, giới lãnh đạo mới quy tụ được sức mạnh toàn dân, vận động được các quốc gia và cộng đồng yêu chuộng Tự do và Hòa bình trên thế giới cô lập và bẻ gãy mọi mưu mô bá quyền của Tàu cộng. (1)
Con đường duy nhất để chống ngoại xâm là bằng mọi cách phải thay đổi thể chế chính trị, từ độc tài cộng sản qua Dân chủ Tự do, vì có như thế, giới lãnh đạo mới quy tụ được sức mạnh toàn dân, vận động được các quốc gia và cộng đồng yêu chuộng Tự do và Hòa bình trên thế giới cô lập và bẻ gãy mọi mưu mô bá quyền của Tàu cộng. (1)
Paris ngày 05/06/2014
Chu chi Nam
Thiên Đường nói dối!
Posted on June 10,
2014 by HNSG
Minh
Văn
Trong giao tiếp, nói dối một chút sẽ làm cho câu chuyện của bạn trở nên thi vị. Nhưng nếu trở thành thói quen,
thì đó thực sự là một thảm họa. Hẳn ai cũng hiểu được điều này, vì người ta không thể sống trong mê cung lừa dối.
Khi mà mọi thứ bị mất phương hướng, chúng ta sẽ không phân biệt được thế nào là đúng sai.
Cho nên cần phải có chân lý và sự thật. Niềm tin là nền tảng vững chắc cho mọi mối quan hệ xã hội. Con người không thể xây dựng các giá trị nhân bản dựa trên sự dối trá.
Thế giới có một ngày gọi là “Cá tháng tư”, nhằm vào 1 tháng 4 hằng năm. Hay còn gọi là ngày nói dối, với ý nghĩa đây là
ngày hội vui vẻ, tinh nghịch cho những người có tính hài hước. Trong ngày này
người ta tung nhiều tin đồn không đúng sự thật, nhằm tạo niềm vui hoặc trêu chọc ai đó. Họ được phép làm điều này trong cả ngày 1 tháng 4,
bước sang ngày khác thì mọi sự trở lại bình thường.
Nói dối là rất kinh khủng, bởi nó khiến người ta phải quay cuồng trong giả tạo. Tất cả mọi thứ sẽ bị rối tung rối mù, xã hội đảo lộn hết cả. Cho nên cả năm chỉ có một ngày nói dối là đã quá sức chịu đựng rồi.
Một số nước còn quy định chỉ nói dối trong nửa ngày mà thôi (tức là đến 12 giờ trưa ngày 1 tháng 4
thì kết thúc), như các nước: Anh, Canada, New Zealand…; Sở dĩ như vậy vì người dân những nước này bản tính nghiêm
túc, thích tôn trọng sự thật.
Chuyện thế giới là vậy, một năm có một ngày nói dối. Ấy nhưng người Việt Nam có hẳn 365 ngày nói dối trong một năm, cứ liên tục như vậy đã 85 năm rồi. Thật là kinh khủng và ngoài sức tưởng tượng, nhưng đó là sự thật chứ không hề bịa đặt chút nào. Vì
khi tôi viết bài này không nhằm vào ngày cá
tháng tư. Sở dĩ nói là 85 năm, vì kể từ khi đảng Cộng sản ra đời. Từ đó, người dân Việt Nam không còn
biết đến khái niệm nói thật là gì cả.
Tại sao lại như vậy? Nguyên do là tại cái “Chủ nghĩa Cộng sản” hoang tưởng.
Đây là một học thuyết ngược đời, không thể áp dụng trên thực tế. Nhưng người ta lại bắt toàn dân phải nghe theo.
Không ai dám phản đối, vì nếu làm như vậy thì sẽ bị ngồi tù hoặc giết hại.
Thành ra người dân thấy sai mà không phản đối, biết là phi lý nhưng không dám nói.
Sự thật thì phải che dấu, nhưng lại toàn nói những điều trái với lòng mình mà
thôi. Lâu dần họ trở thành những người nói dối xuất sắc nhất thế giới. Luôn có một cái máy chém
treo lơ lửng trên đầu, ai nói thật thì bị nó chém chết.
Do vậy mà người ta phải vận dụng hết trí thông minh
để phục vụ cho việc nói dối. Rồi rèn luyện đến mức trở thành kỹ năng và phản xạ tự nhiên.
Cái sự nói dối này không chỉ ở người dân, mà toàn xã
hội như vậy cả. Bộ máy cầm quyền là những người đi tiên phong.
Họ nói dối như cái máy, không cần phải biết ngượng, vì xung quanh
ai cũng thế. Chỉ cần trích dẫn câu khẩu hiệu của đảng là rõ ngay: “Nhà nước của dân, do dân vì
dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”.
Họ có nói dối hay không, và đến mức nào? Điều này dân tộc Việt Nam và thế giới đều biết cả rồi. Người dân thấm thía hơn ai hết, những 85 năm kia mà.
Vì anh có tài đến mấy, cũng không thể lừa dối tất cả mọi người trong mọi lúc được.
Để biết một người có nói dối hay không thì
người ta phải dựa vào những người nói thật xung quanh. Nhưng tất cả đều nói dối thì phải làm thế nào? Có lẽ là vô kế khả thi đối với một xã hội như vậy.
Hồi trẻ tôi cũng hào hứng với ngày cá tháng tư lắm, vì nó vui và
phù hợp với tâm lý lứa tuổi. Nhưng rồi bổng giật mình nhận ra rằng, những lời nói dối trong ngày này không có tác dụng gì đối với người Việt Nam. Thì ra quanh năm sống trong dối trá, nay họ đã chán rồi.
Chỉ có những lời nói thật mới có thể gây được bất ngờ thú vị mà thôi. Khi
nghe những lời nói thật, họ sửng sốt mỉm cười, nhưng bao giờ cũng đe một câu: “Nói như thế là phản động, coi chừng công an nó bắt giam đấy!”.
Bởi vậy mà tôi có một đề nghị: Đối với người Việt Nam hiện nay thì ngày “Cá tháng tư” phải đổi thành ngày “Nói
thật” mới đúng.
Ở những quốc gia khác, khi
ai đó nói dối thì bị người ta khinh bỉ và giận dữ lắm. Việt Nam thì lại coi đó là sự thường, thậm chí còn khen là
thông minh và hợp thời vụ.
Bởi vậy mà không còn
nghi ngờ gì nữa, đây chính là mảnh đất thiên đường của những người nói dối. Dĩ nhiên là
thiên đường của dối trá thì cũng như lâu đài cát, nó
không thể hiện hữu bền lâu và hữu dụng cho con người được.
10/6/2014
Sáu lần "xử" nhà
báo để trả thù người chống tham nhũng!
Trương Minh Đức (Danlambao) - Vào lúc 7 giờ 30', thứ ba ngày
10/06/2014 (ngày mai), tại số 131 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, toà án TP - HCM đưa ra xét
xử phiên phúc thẩm lần thứ 2 do toà án tối cao triệu tập nhà báo Đoàn Hữu Hậu,
đây là phiên xử thứ 6 trong vụ án "cố tình truy án đến cùng" một nhà
báo chống tham nhũng tại tỉnh Kiên Giang.
Như đã đưa tin trên DLB trong loạt bài:
Ngoài ra các báo khác cũng đưa tin về vụ án trả thù "kỳ
quái" này của các cơ quan tố tụng tỉnh Kiên Giang trong các loạt bài:
Nhưng nhà báo Đoàn Hữu Hậu vẫn tiếp tục bị xét xử với bản án 02
năm tù giam từ vụ án dân sự thành án hình sự. Đây là lần xét xử thứ 06 và cũng
là lần cuối cùng?... Nếu phiên xét xử trong ngày mai 10/06/2014 là "y
án" thì coi như vụ trả thù nhà báo dám viết bài chống tham nhũng đã đạt
được kết quả như mong muốn của mấy ông quan tham ăn đất dân tại Kiên
Giang.
Thông tin này mong các nhà báo "lề đảng" cần đến tham dự
phiên toà đông đủ để "rút kinh nghiệm"... Còn người dân oan bị cướp
nhà cướp đất cũng nên đến để ủng hộ tinh thần cho một nhà báo vì dân và công lý
mà phải chịu ngồi tù!
Cập
nhật diễn biến liên quan đến vụ bắt giam bà Bùi Thị Minh Hằng, bà
Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh (từ ngày 11/2/2014 đến ngày
5/6/2014)
Ngày 5 tháng 6 năm 2014
Liên quan đến việc đoàn 21 đồng đạo Phật Giáo Hòa Hảo (PGHH) và
các nhà đấu tranh nhân quyền bị bắt giữ ngày 11/2/2014 trên đường đến thăm gia
đình PGHH Bùi Thị Kim Phượng/Nguyễn Bắc Truyển chúng tôi xin cập nhật những
diễn tiến trong thời gian qua:
1. Tổng lãnh sự quán Úc-Đại-Lợi tại Sài
Gòn gặp gia đình bà Bùi Thị Minh Hằng.
2. Gia đình đi thăm nuôi các người bị bắt.
3. Buổi đối chất giữa bà Bùi Thị Minh
Hằng và các nhân chứng do cơ quan điều tra huyện Lấp Vò chỉ định
nhằm buộc tội đã thất bại.
4. Cơ quan cảnh sát điều tra gia hạn quyết
định tạm giam thêm 2 tháng cho trường hợp ông Nguyễn Văn Mình.
5. Cơ quan cảnh sát điều tra huyện Lấp Vò
(tỉnh Đồng Tháp) từ chối cấp giấy chứng nhận bào chữa luật sư cho
hai người bị bắt là Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và ông Nguyễn Văn Minh.
6. Các gia đình tín đồ Phật giáo Hòa Hảo
có liên quan đến vụ án đều bị công an mật vụ theo dõi.
Chi tiết:
1/ Tổng lãnh sự quán
Úc-Đại-Lợi tại Sài Gòn gặp gia đình bà Bùi Thị Minh Hằng.
Vào ngày 4/6/2014, Tổng lãnh sự quán
Úc-Đại-Lợi tại Sài Gòn đã có buổi gặp gia đình bà Bùi Thị Minh
Hằng. Trong buổi gặp, bà Felicity - Lãnh sự tại Sài Gòn đã hỏi thăm
về trường hợp bà Hằng, bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và ông Nguyễn Văn
Minh bị công an huyện Lấp Vò (tỉnh Đồng Tháp) bắt giam từ ngày
11/2/2014.
Bà Felicity cho biết, bộ Ngoại giao
Úc-Đại-Lợi sẽ đối thoại nhân quyền với chính phủ Việt Nam trong
thời gian tới và sẽ đưa trường hợp 03 người bị công an huyện Lấp Vò
bắt giam và khởi tố.
Trần Bùi Trung, con trai bà Bùi Thị Minh
Hằng cũng đã trình bày cho bà Felicity về việc Mẹ bị bắt giam trái
pháp luật qua việc dàn dựng của công an huyện Lấp Vò để nhằm vu
khống buộc tội "gây rối trât tự công cộng" và "chống
người thi hành công vụ" cho bà Hằng, bà Quỳnh và ông Minh.
Bà Felicity cũng quan tâm đến cuộc sống
của những người bị bắt trong nhà tù, tuy nhiên các gia đình cũng
không có thông tin, từ ngày bị bắt cho đến nay gia đình chưa được gặp
mặt và đồ thăm nuôi gởi cho người bị bắt cũng bị giới hạn.
Bản thân, Trần Bùi Trung khi ra Hà Nội vận
động cho Mẹ cũng bị công an Hà Nội theo dõi, hành hung.
2/ Gia đình thăm nuôi
những người bị bắt.
Ngày 27/5/2014, gia đình bà Bùi Thị Minh
Hằng và ông Nguyễn Văn Minh đã đến trại tạm giam An Bình (tỉnh Đồng
Tháp) để gởi đồ thăm nuôi.
Khi thấy Trần Bùi Trung, con chị Hằng xuất
hiện thì rất đông cảnh sát cũng có mặt để theo dõi từng bước chân
của Trung và liên tục nhắc Trung không được quay phim, chụp hình. Trung
muốn gởi cho Mẹ 2 bộ đồ thăm nuôi, tuy nhiên trại giam chỉ cho gởi 1
bộ, cái ca nhựa thường dùng để đựng nước đá cũng không được cho
gởi. Trong khi đó các trường hợp tù thường phạm thì được phép gởi
thoải mái.
Trong chuyến thăm nuôi lần này, bà Thúy có
dẫn theo hai đứa con, hy vọng các cháu sẽ được gặp mặt Cha sau hơn 3
tháng bị cầm tù nhưng trại giam đã từ chối không cho gặp mặt. Bà
Thúy yêu cầu cho biết tình trạng sức khỏe của ông Minh, cảnh sát
trại giam trả lời "bình thường".
3/ Buổi đối chất
giữa bà Bùi Thị Minh Hằng và nhân chứng của cơ quan cảnh sát điều
tra.
Theo thông báo của cơ quan cảnh sát điều
tra huyện Lấp Vò, các luật sư bào chữa cho bà Bùi Thị Minh Hằng cần
có mặt tại trại tạm giam An Bình để tham gia 05 ngày đối chất giữa
bà Bùi Thị Minh Hằng và các nhân chứng của cơ quan cảnh sát điều tra
huyện Lấp Vò.
Sáng ngày 19/5/2014, luật sư Hà Huy Sơn có
mặt tại trại giam để tham dự buổi đối chất đầu tiên, nhưng sau đó
thì luật sư Sơn thông báo gia đình bà Hằng biết luật sư sẽ không tham
dự tiếp theo vì phía cơ quan cảnh sát điều tra đã hủy các buổi đối
chất.
4/ Cơ quan cảnh sát
điều tra huyện Lấp Vò từ chối cấp giấy bào chữa luật sư.
Luật sư Nguyễn Văn Miếng là luật sư bào
chữa cho ông Nguyễn Văn Minh theo lời mời của gia đình ông Minh. Tuy
nhiên, cơ quan điều tra huyện Lấp Vò đã từ chối (không có văn bản) và
đưa ra lý do là ông Minh không mời luật sư. Điều này rất vô lý vì khi
bị bắt chính thức sau một ngày tạm giữ hành chánh, ông Minh còn yêu
cầu bà Bùi Thị Diễm Thúy (vợ ông Minh) phải mời luật sư.
Trong khi đó, tại địa phương nơi ông Nguyễn
Văn Minh cư ngụ, công an đã nói với gia đình rằng ông Minh không ký vào
bất kỳ biên bản điều tra nào của cơ quan cảnh sát điều tra huyện Lấp
Vò, điều đó cho thấy ông Minh hiểu rất rõ quyền giữ im lặng của
người bị bắt.
Trường hợp của bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh,
luật sư Nguyễn Văn Miếng cũng đã có văn bản gởi đến cơ quan cảnh sát
điều tra huyện Lấp Vò để đề nghị cấp giấy chứng nhận luật sư bào
chữa nhưng cơ quan này không có bất kỳ sự hồi đáp cho luật sư Miếng.
Luật sư Miếng đã có văn bản gởi đến Liên đoàn Luật sư Việt Nam để
khiếu nại sau khi đã khiếu nại không thành công tại cơ quan cảnh sát
điều tra huyện Lấp Vò.
5/ Gia hạn thời gian
tạm giam.
Ngày 11/5/2014, cơ quan cảnh sát điều tra
đã gia hạn thêm 2 tháng tạm giam cho trường hợp ông Nguyễn Văn Minh qua
lời của công an trại tạm giam An Bình (huyện Cao lãnh, tỉnh Đồng
Tháp) nói với bà Bùi Thị Diễm Thúy. Không có một văn bản gia hạn
tạm giam nào được gởi đến cho các gia đình.
Qua sự việc trên, có thể trường hợp bà
Bùi Thị Minh Hằng, bà Nguyễn Thị Diễm Thúy cũng bị gia hạn thời
gian tạm giam. Theo kinh nghiệm của các luật sư, vụ án có thể đưa ra
xét xử trong vòng 3 tháng trở lại. Tuy nhiên, đây là vụ án có yếu
tố chính trị nên có thể thời gian tạm giam sẽ dài hơn, cho đến khi
nào các cơ quan tham gia tố tụng cho rằng thời điểm thích hợp để xét
xử.
6/ Công an giám sát các
gia đình PGHH.
Hiện nay, nhà bà Bùi Thị Kim Phượng tại xã Long
Hưng B (huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) vẫn còn bị công an đặt chốt theo dõi mặc dù
căn nhà không ai ở. Nhà bà Bùi Thị Kim Anh là chị của bà Bùi Thị Kim Phượng,
công an theo dõi ngày đêm và khi bà Kim Anh, KIm Cam có việc đi ra ngoài đều bị
mật vụ theo dõi.
Sự giám sát của công an mật vụ còn mở rộng ra
cho nhiều gia đình khác tại huyện Lấp Vò như ông Nguyễn Văn Hoa, ông Trương Kim
Long, ông Tô Văn Mãnh... và nhiều tín đồ PGHH khác.
Tóm lược sự việc:
Ngày 11/2/2014, 6 nhà hoạt động Nhân quyền và 15
tín đồ Phật giáo Hòa Hảo (PGHH) đã bị công an chặn đánh và bắt giữ trên đường
đến thăm bà Bùi Thị Kim Phượng. Bà Phượng, vợ cựu TNLT Nguyễn Bắc Truyển, là
một tín đồ PGHH miền Tây (Nam Việt Nam) hiện đang cư ngụ ấp Hưng Nhơn, xã Long
Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
Nguyên nhân là công an Đồng Tháp đã đập
phá nhà bà Phượng, bắt ông Truyển vào ngày 9/2/2014 và tháo hình Đức Huỳnh Phú
Sổ (Giáo chủ PGHH) trên tường ném xuống đất, gây bất bình và xúc phạm đến tín
ngưỡng cũa tín đồ PGHH.
Khi 21 người đến địa phận tỉnh Đồng Tháp, hàng
trăm công an thường phục và sắc phục phục kích hai bên đường đã tấn công, đánh
đập, tước đoạt tài sản cá nhân, còng tay, áp giải về đồn công an huyện Lấp Vò.
Sau gần 40 tiếng bị giam giữ và thẩm vấn, 18 người được phóng thích vào ngày
12/2/2014.
Hiện còn 3 người là bà Bùi Thị Minh Hằng, bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh
(nhà hoạt động nhân quyền) và ông Nguyễn Văn Minh (tín đồ PGHH) bị tiếp tục
giam giữ và bị khởi tố với cáo buộc “gây rối trật tự công cộng”, “chống người
thi hành công vụ”.
Tu sỹ Võ Văn Thanh Liêm
Trụ trì chùa Quang Minh
(PGHH) - huyện Chợ Mới, tỉnh Đồng Tháp.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment