VAI
TRÒ CỦA Ý THỨC HỆ
Vạch
trần bộ mặt thật của đảng cộng sản Việt Nam
Gần
đây báo Cánh Én www.cánhen.com có đăng bài của Trần hồn
Việt mang tựa đề « Vai trò của ý thức hệ đối với cách mạng dân chủ Việt
Nam ». Ông viết :
«
Nhân đọc bài viết Phải chăng Việt Nam hiện nay cần một ý thức hệ của Chu chi
Nam_đăng trên www.doithoai.com ngày
10/9/2006 và Cách mạng tự do dân chủ đã chín mùi chưa dăng trên www.vietnmexodus.orgvào
ngày 13/9/2006 của luật sư Đinh thạch Bích, dựa vào các chủ đề trên, tôi xin
tham gia đối toại trên diễn đàn để tìm ra chân lý chứ không nhắm vào mục đích
phê phán. »
Nay
tôi cũng xin đóng góp thêm để tìm ra chân lý, nhất là về phần ý thức hệ.
Tuy
nhiên trước tiên, tôi xin nhắc lại lập trường của tôi là nếu trong tương lai
chế độ cộng sản bị sụp đổ, ý thức hệ Mác Lê bị vứt bỏ, Việt Nam có một hiến
pháp mới, không còn kiểu như hiến pháp cộng sản ngày hôm nay, với Lời Mở Đầu :
« Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lê ….. », thì Việt Nm vẫn không cần
một ý thức hệ, vì rút tỉa kinh nghiệm lịch sử trong quá khứ với ba cuộc cách
mạng lớn trên thế giới : Cách mạng Hoa K ỳ 1776, Cách Mạng
Pháp 1789, Cách mạng Cộng sản Nga 1917. Cuộc cách mạng thành công nhất là cuộc
cách mạng Hoa K ỳ, không mang một ý thức hệ nào cả, mà chỉ mang
những nguyện vọng thực tế của người dân, như về việc chống xiu cao
thuế nặng, quyền tự do căn bản, quyền độc lập.
Ngay hiện nay nước Hoa
K ỳ là nước phát triển nhất cũng không có một ý thức hệ nào. Cuộc cách
mạng nửa thành công, nửa thất bại là cuộc cách mạng Pháp 1789 ; thành công
là nó đã nói lên được những quyền căn bản của con người ; thất bại vì nó
quá kéo dài và lâm vào cảnh cách mạng ăn thịt con, như giết nhà bác học
Lavoisier, một trong những nhà sáng lập của nền hóa học hiện đại ; và nhà
giáo dục, kinh tế học Condorcet, cha đẻ của nên giáo dục hiện đại.
Khi
Lavoisier lên đoạn đầu đài có người đã thương tiếc ông, có viết : « Ba
giây đồng hồ đủ làm rơi đầu Lavoisier ; nhưng để tạo ra một bộ óc như
Lavoisier, nước Pháp phải cần đến 300 năm. » Cuộc cách mạng thất bại nhất,
hậu quả giết nhiều ngưới nhất, cả trăm triệu người và vẫn còn dai dảng cho tới
ngày hôm nay mà dân Việt Nam vẫn còn hứng chịu, đó là cuộc cách mạng cộng sản
1917, mặc dầu khi thực hiện cuộc cách mạng này chỉ có 7 người chết và 50 người
bị thương như chính Trotski, ngược thực hiện cuộc cách mạng tuyên bố.
Trong
ba cuộc cách mạng này, cuộc cách mạng có một ý thức hệ đầy đủ nhất chính là
cách mạng cộng sản Nga 1917.
Tôi
vẫn nghĩ mai sau cộng sản sụp đổ, Việt Nam không cần một ý thức hệ, vì tôi đồng
quan điểm với K. Popper, một người được nhà bác học A. Einstein coi như là nhà
phê bình phương pháp luận lý và khoa học nổi tiếng nhất của thế kỷ 20 ; và
theo ông, thì : « Xã hội con người biến chuyển từng ngày từng giờ,
trong đủ mọi lãnh vực ; nay chủ trương áp dụng cho nó một ý thức hệ, chẳng
khác nào bắt nó không tiến bộ, đóng khung nó trong lồng kính ý thức hệ. »
Trần
hồn Việt có viết :
«
Hiểu được nội dung Biện Chứng Pháp một cách đầy đủ để vận dụng đúng đắn vào
công việc nghiên cứu lại hết sức phức tạp. Có nhiều người bàn về Biện Chứng
Pháp nhưng họ chỉ có thể nhìn được cái vẻ bề ngoài của Biện Chứng Pháp chứ
không mấy ai nắm được linh hồn của nó. Ngay cả cha đẻ của Chủ nghĩa Duy Vật
Biện Chứng ( K. Marx) vận dụng Biện Chứng Pháp còn vấp phải sai lầm khi cho ra
đời học thuyết Chủ Nghĩa Cộng sản hoàn toàn phản khoa học. Vì vậy có một tác
giả mà tôi quên tên nói rằng : « Ai làm chủ Biện Chứng Pháp thì có
thể làm chủ thế giới !" «
Đây
là một thái độ đề cao Bi ện Chưng Pháp quá độ, coi Biện Chứng
Pháp như một bửu bối, ai có nó thì có tất. Thực ra Biện Chứng Pháp chỉ là một
phương pháp lý luận, lúc đầu nó có nghĩa là đối thọi. Chữ Biện Chứng Pháp được
dịch từ chữ Dialectique ( Pháp) hay Dialectic ( Anh) bắt nguồn từ chữ Latin
Dialegein có nghĩ là nói, là lý luận.
Sau đó được những người của trường phái
Ngụy Biện ( Sophisme) Hy Lạp dùng như một phương pháp lý luận, có mục đích tìm
ra sự mâu thuẫn của đối phương, để chiến thắng họ. Vào thế kỷ 18, Hégel,
trường phái Ý Tưởng ( Idéalisme), dùng Biện Chứng Pháp dưới dạng : Đề (
Thèse) - Phản Đề ( Anti-Thèse) - Tổng Đề ( Synthèse), áp dụng cho quan niệm về
tiến trình tư tưởng của con người và tiến trình lịch sử.
Theo Hégel thì ý tưởng
con người đi từ Đề rồi tới Phản Đề, rồi tới Tổng Đề, có nghĩa là khi tôi có một
ý tưởng (Đề), tôi nói chuyện với người khác, tôi gặp sự chống đối của người
khác ( Phản Đề) ; hai ý tưởng đó đối chọi nhau, đưa ra một tổng hợp ( Tổng
Đề). Rồi Tổng Đề này lại trở thành Đề gặp ý tưởng phản bác khác ( Phản Đề), rồi
cho ra Tổng Đề.
Tiến
trình tư tưởng của con người, theo Hégel, là như vậy. Nó đi từ chủ quan đến
khách quan, được nhiều người công nhận.
Marx,
Engels và những người duy vật lấy phương pháp biện chứng áp dụng vào chủ nghĩa
duy vật. Engels viết ;
«
Người ta không thể tách rời tư tưởng khỏi vật chất suy tư. Vật chất này là bản
chất của tất cả những thay đổi sau đó « ( Engels dẫn bởi Staline ở phần
Chủ Nghĩa Duy Vật Biện Chứng và Chủ nghĩa Duy Vật Lịch sử, trong quyển Histoire
du Parti communiste de l’U.R.S.S. – trang 124 – Nhà Xuất Bản Norman Béthume –
Paris 1971).
Biện
chứng áp dụng cho tiến trình thay đổi của tư tưởng, theo Hégel, chúng ta còn có
thể hiểu được. Nhưng biện chứng áp dụng cho sự thay đổi vật chất của trường
phái duy vật, thì không hiểu nổi.
Một
câu hỏi đến với những người duy vật : Vật chất ( la matière) biến chuyển
theo biện chứng là biến chuyển thế nào ? Vật chất theo hiểu nghĩa bình
thường là con người, cây cối, cục đá, cục đất v.v.. ; nếu như vật mà biến
chuyển theo biện chứng là Đề - Phản Đề - Tổng Đề, thì cái gì là đề, con người
chăng, cục đá chăng ?
Cái gì là Phản Đề, sông ngòi chăng, cây cỏ chăng ?
Cái gì là Tổng Đề, con vật chăng ?
Đó là vật cất hiểu theo nghĩa bình thường.
Vật chất hiểu theo nghĩa khoa học, trước phát minh ra nguyên tử, thì nhà triết
học duy vật, người Hy Lạp, Démocrite ( 460 – 370 trước Tây lịch)
định nghĩa vật chất là cái gì nhỏ nhất, không thể phân chia được. Đã là nhỏ
nhất không thể phân chia được, thì còn đâu Đề - Phản Đề - Tổng Đề, để biến
chuyển một cách biện chứng. Sau này, vào năm 1913, nhà bác học Niels Bohr phát
minh ra nguyên tử ( l’atome) gồm những electron, potron và neutron. Vật chất
theo khoa học hiện đại là nguyên tử. Người ta lại hỏi, nếu theo những nhà duy
vật, vật chất là nguyên tử,thì vật chất biến chuyển theo biện chứng pháp là thế
nào ?
Cái gì là Đề, Potron hay Neutron ?
Cái gì là Phản Đề, Electron
hay Neutron ? Cái gì là Tổng Đề, Neutron ?
Đây
là câu hỏi mà những người duy vật sau Marx không thể trả lời được.
Trần
hồn Việt viết :
«
Trong « Đối Thoại năm 2 000 », Trần Khuê cũng đã hết lời ca tụng
Hồ chí Minh, người có thể nắm vững cái thần của chủ nghĩa Marx chính là Phép
Biện Chứng. »
Bảo
rằng Hồ chí Minh nắm vững cái thần của chủ Nghĩa Marx chính là Phép Biện Chứng,
điều này còn phải xem xét lại. Một con người với trình độ học vấn lớp sáu, lơp
bảy bây giờ hay lớp đệ thất, đệ lục trước năm 1975, tức mới rời bậc tiểu học,
làm sao có đủ trình độ để hiểu biện chứng pháp. Chính Hồ chí Minh cũng nói :
« Tôi chỉ là con người thực tiễn.
Lạt mềm buộc chặt » hay « Tư
tưởng của tôi đã có Staline và Mao nghĩ hộ. Hai con người này không bao giờ
lầm. » Tôn 2 đao phủ thủ của nhân loại, một tên giết hơn 30 triệu dân Nga,
theo nhà sử học Stéphane Courtois, một tên giết hơn 70 triệu dân Tàu, theo 2
nhà nghiên cứu Chang Jung và John Halliday, điều này chứng tỏ con người Hồ chí
Minh là như thế nào rồi.
Bảo rằng Hồ chí Minh cướp được chính quyền vào ngày
19/8/năm 1945 là biết vận dụng biện chúng pháp, tôi cũng không tin như vậy. Hồ
chí Minh cướp được chính quyền là nhờ vào hoàn cảnh sau Đệ Nhị Thế Chiến, và
nhờ Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản đưa về, giúp đỡ để cướp chính quyền.
Ngay cả Lénine
cũng vậy, nếu không có Bộ Tham Mưu Đức đưa từ Thuỵ Sỹ về, lúc gần hết Đệ Nhất
Thế Chiến, rồi giúp đỡ tiền bạc, phương tiện để cướp chính quyền, thì Lénine
cũng không làm được cuộc cách mạng 1917. Sở dĩ có hiện tượng này vì lúc đó Đức
đang phải đương đầu với 2 mặt trận, mặt trận đông bắc với Nga và mặt trận tây
nam với Pháp. Đức muốn dồn lực vào mặt trận tây nam, nên đưa Lénine về, vì
Lénine chủ trương « Hòa Bình bằng bất cứ giá nào.
Nhượng Đất để có quyền. »
Ngày hôm nay Cộng sản Việt Nam nhượng đất cho Trung C ộng để giữ
quyền cũng là nằm trong lịch sử cộng sản. Mao trạch Đông, khi tiếp tướng
Mountbatten, Tư lệnh quân đội Đồng Minh tại Đông Nam Á vào Đệ Nhị Thế Chiến, đã
nói rấtt rõ : « Nếu không có Đệ Nhị Thế Chiến, Chiến tranh Trung
Nh ật, thì đảng Cộng Sản không có đưộc chính quyền ở Tàu. »
Biện
chứng pháp nó chẳng phải là một bửu bối, « Ai làm chủ được nó thì có thể
làm chủ thế giớỉ « , mà nó chỉ là một trong những phương pháp lý luận. Một
cách tổng quát, có 2 phương pháp lý luận : phương pháp tổng thể (
synthétique) và phương pháp phân tích ( analytique). Biện chứng pháp nằm trong
phương pháp phân tích.
Phương
pháp phân tích hay đúng nghĩa hơn là phương pháp thực nghiệm được bắt đầu vào
thế kỷ 13 với Roger Bacon ( 1214-1294), một nhà bác học kiêm tu sỹ dòng
Franciscain, người Anh. Ông chỉ trích nặng nề phương pháp tổng hợp tức diễn
dịch, nhất là tam đoạn luận của Aristote. Theo ông tam đoạn luận chỉ là luận lý
hình thức, không nói lên bản chất thực của sự vật, vì câu :
Tất
cả mọi người đều chết ; Socrate là người ; vậy Socrate cũng chết.
Nếu
chúng ta đổi câu tiền đề :
Tất
cả mọi người đều không chết ; Socrate là người ; vậy Socrate không
chết.
Câu
trên, đứng về luận lý hình thức, vẫn đúng ; nhưng về nội dung thì sai.
Theo
Roger Bacon, phương pháp diễn dịch, đi từ tổng quát ( général) tới cá biệt (
Particulier) dễ đi đến sai lầm vì khó kiểm chứng. Ngược lại phương pháp phân
tích hay qui nạp ( Induction) đi từ cá biệt đến tổng quát dễ đúng vì chúng ta
có thể kiểm chứng nhiều trường hợp cá biệt rồi mới đi đến kết luận tổng quát.
Phương
pháp thực nghiệm hay qui nạp đã được tu bổ bởi Francis Bacon ( 1561-1650), cũng
người Anh, trong quyển sách Novum Organum ; và được tăng cường bởi
Descartes, người Pháp, với quyển Discours de la Méthode (
Luận về Phương pháp).
Descartes đưa ra 4 nguyên tắc về phương pháp luận :
1) Đi từ nhỏ tới lớn, đi cụ thể tới trừu tượng ; 2) Chia vấn đề hay khó
khăn ra nhiều phần nhỏ khác nhau và giải quyết từng phần nhỏ một, để đi đến
toàn diện ; 3) Không bao giờ chấp nhận là chân lý ; ngoại trừ những
điều hiển nhiên hay đã được kiểm chứng ; 4) Một khi đã chia nhỏ vấn đề ra
để giải quyết, thì đừng bao giời quên một phần nhỏ của toàn bộ.
Từ
đó xuất hiện 2 trường phái ở bên Tây phương : 1) Trường phái Duy lý ( le
Rationnalisme) với Descartes và Hégel ( ( 1770-1831), theo đó mọi chân lý ở
trên đời này phải qua sự kiểm nghiệm của ký lẽ, lý luận. Lý lẽ, lý luận là tiêu
chuẩn chính của chân lý ; và trường phái Thực nghiệm ( le
Positivisme) với Auguste Comte ( 1798-1857), theo đó tất cả mọi học thuyết, nếu
muốn có giá trị đều phải dựa trên sự hiểu biết được kiểm chứng bằng kinh
nghiệm, kinh nghiệm là tiêu chuẩn của chân lý.
Đỉnh
cao của chủ nghĩa duy lý là Hégel và thực nghiệm là với Marx ( 1818-1883).
Hégel viết : « Tất cả cái gì hữu lý đều hiện thực « ( Tout ce
qui est rationnel, est réel). Marx lấy câu này và lật ngược lại : « Tất
cả những gì hiện thực đều hữu lỷ ( Tout ce qui est réel, est rationnel). Cả 2
người đều dùng biện chứng để áp dụng vào tư tưởng của mình và nhất là lịch sử. Cả
2 đều lấy thời kỳ lịch sử Cách mạng Pháp 1789 làm thí dụ để cắt nghĩa tiến
trình lịch sử qua biện chứng.
Hégel
cho rằng chế độ phong kiến Pháp là Đề ; Đệ Tam Dân ( Tiers Etat) là Phản
Đề, để đi đến Tổng Đề, đó là Napoléon. Marx cho rằng chế độ tư bản là Đề, Vô
sản ( les prolétaires) là Phản đề, Tổng đề là hình ảnh của Ba Lê Công xã
1948. Kết quả 2 thế kỷ 19 và 20 chúng ta thấy gì ?
Tổng Đề và là kết thúc
tiến trình lịch sử của Hégel chỉ là độc tài quân phiệt Napoléon, gây tang tóc
và chiến tranh cho Âu châu suốt đầu thế kỷ 19. Tổng Đề và cũng là kết thúc tiến
trình lịch sử của Marx là chế độ độc đảng, độc tài cộng sản, gây tang tóc và
đau thương cho nhân loại suốt gần thế kỷ 20, với cả trăm triệu nạn nhân, mà hậu
quả còn dai dảng cho tới ngày hôm nay như ở Việt Nam.
Suốt
2 thế kỷ qua nhân loại đã nhìn rõ sự sai lầm của Thần Khoa học và Thần Luận Lý.
Khoa học có giới hạn của nó ; và nêu khoa học mà không có lương tâm thì
chỉ là sự hủy hoại của tâm hồn ( Science sans conscience n’est que la ruine de
l’âme). Luận lý, nhất là phương pháp phân tích và biện chứng, bề ngoài có vẻ
khách quan, nhưng thực chất cũng chủ quan ; vì Tổng Đề sẽ biến đổi tùy
theo Đề và Phản Đề, cũng chẳng khác nào như tam đoạn luận, tùy thuộc ở tiền đề.
Đấy là chưa nói việc Marx nói phương pháp của ông là khoa học, đi từ cụ thể tới
trừu tượng, từ cá thể ( particulier) tới tổng quát ( général). Thực ra ông đi
từ cái gì trừu tượng nhất, tổng quát nhất, ông đi từ một lời tiên tri (
prophétie), tiên tri rằng nhân loại sẽ đi đến cộng sản, làm theo năng lực,
hưởng theo nhu cầu, không còn tư hữu, không có giai cấp ; rồi từ đó ông cố
nghiên cứu, bẻ cong những dữ kiện lịch sử, kinh tế, xã hội để theo đúng lới
tiên tri của ông.
Đó là tính chất phản khoa học của lý thuyết Marx. Ở đây tôi
không thể đi vào chi tiết, mong Quí Vị coi những bài phê bình Marx của tôi trên
các báo Việt ngữ hải ngoại. Người cộng sản nói một đằng, làm một nẻo, bắt đầu
từ Marx. Hô hào xã hội không giai cấp ; nhưng thực tế xã hội cộng sản là
xã hội phẩm trật nhât.
Hô hào xã hội không có cảnh người bóc lột người ;
nhưng một khi có quyền, người cộng sản là người bóc lột dân nhất. Chính vì vậy
mà có sử gia cho rằng chế độ cộng sản là một cuộc lừa đảo lớn nhất của thế kỷ
20 vừa qua. Không cần nhìn đâu xa ; chúng ta chỉ cần suy ngẫm việc làm của
đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta sẽ rõ.
Hết
rồi, thời của thần khoa học, thần ý thức hệ, thần luận lý, thần biện chứng !
Ngày hôm nay nhân loại nhìn ra rất rõ giới hạn của khoa học, của ý thức hệ, của
kuận lý và biện chứng. Khoa học, luận lý cũng chỉ là những phương tiện để phục
vụ con người, chứ không phải là những cứu cánh để con người phục vụ. Phần lớn
những nhà trí thức, triết gia, tư tưởng hiện đại đều nhận thấy rằng phương pháp
luận lý phân tích, nhất là biện chứng pháp, có tính cách cục bộ, chia rẽ, mang
mầm mống nội loạn, chiến tranh qua quan niệm « Đề - Phản Đề « ,
và trở về phương pháp tổng hợp có tính cách toàn thể, sự khác biệt
không có nghĩa là kình chống, mà có nghĩa là hổ tương, kiểu : « Âm
dương tương hòa. Cao thấp tương khuynh. Dài ngắn tương hình. »
Paris
ngày 18/10/2006
Chu
chi Nam
VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC VÀ VĂN NGHỆ SĨ TRONG CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH
TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN CHO TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA
CHUNG TA
Công cuộc đấu tranh cho
tự do, dân chủ của chúng ta ngày hôm nay là một cuộc chiến toàn dân, toàn diện.
Toàn diện vì nó liên quan đến mọi lãnh vực : chính trị, văn hóa, ngoại giao,
kinh tế, thông tin, tuyên truyền v..v.. Toàn dân vì hiện nay đại đa số dân Việt
đang sống lầm than, thiếu tất cả mọi quyền tự do căn bản, duói chế độ độc tài
cộng sản.
Lầm than vì chỉ nhìn vào một vài con số chúng ta cũng đã thấy rõ :
44% dân Việt bị nhiễm bệnh lao, theo báo cộng sản Nguòi Lao Động dẫn bá cáo của
Chuong Trình phòng chống lao tại Việt Nam, trình bày tại Đại Hội chống lao, tổ
chức tại Hà Nội ngày 24/3/03. 40% trẻ em thiếu dinh duõng. Việt Nam là một
trong những nuóc nghèo đói nhất thế giới.
Trong 227 nuóc trên thế giới, mà
trong đó phải không kể ít ra la trên 30 nuóc quá nhỏ về dân số cũng như diện
tích, Việt Nam đứng vào hàng thứ 186 về sản luọng hàng năm tính theo đầu nguòi
với 397$ , trong khi đó Nam Hàn là 10 000$, Đài loan là 14 000$, Thái Lan là 2
000$ ( Theo Nouvel Observateur- Atlas 2003). Theo Nguyễn đình Bin, Thứ Truỏng
Bộ Ngoại giao CS Việt Nam, thì là 420$, theo chuyên viên Ngân Hàng Quốc Tế, thì
với mức tăng truỏng hiện nay, Việt Nam phải cân 30 đến 40 năm mới bắt kịp Thái
Lan.
Dân Việt hiện nay sống
duói áp bức vì nhà nuóc cộng sản Việt Nam hiện nay là một trong những chính
quyền đàn áp nguòi dân nhất thế giới, mọi quyền tự do căn bản của con nguòi đều
bị cấm đoán. Theo Hội Phóng Viên Không Biên Giới ( Journalistes sans
frontières), một cuộc nghiên cứu về sự đàn áp báo chí trên thế giới vào đầu năm
2003 cho biết : 3 nuóc đàn áp báo chí nhất thế giới đó là Việt Nam, Bắc Hàn và
Irak của Saddam Hussein, lúc ông này còn tại chức.
Nông đức Mạnh là 1 trong 43
nhà lãnh đạo đàn áp tự do ngôn luận nhất thế giới. Nhưng vụ xử án cha Nguyễn
văn Lý, Lê chí Quang, Phạm hông Sơn và nhiều nguòi nữa cho ta thấy rõ điều đó.
Bất cứ một chế độ độc
đoán, độc tài nào từ xưa tới nay, dù là tả hay hữu, dù là phát xít hay cộng
sản, cũng đều dựa trên 2 cột trụ chính. Đó là : 1) Bộ máy kìm kẹp công an, mật
vụ, 2) Bộ máy thông tin tuyên truyền bưng bít và bóp méo sự thật.
Để giật sập một chế độ
độc tài, chuyện chính là phải vô hiệu hóa, phá vỡ 2 cột trụ này.
Vì vậy vai trò của trí
thức, văn nghệ sĩ nói lên sự thật sẽ giữ một vai trò trọng yếu trong việc đấu
tranh chống độc tài hiện nay.
Thật vậy, mục đích công
cuộc đấu tranh toàn dân, toàn diện nhằm lật đổ chế độ dộc đoán, độc tài CS hiện
nay để xây dựng một nuóc Việt hòa bình, tự do, dân chủ, ấm no và phồn thịnh,
một nuóc Việt mà trong đó mọi nguòi có cơm ăn áo mặc, không có sự chống đối
giai tầng, không có cảnh con đấu bố, vợ tố chồng, nguòi này nghi kỵ nguòi kia,
một xã hội đa khuynh, đa đảng, trong đó mọi tư tuỏng triết học, mọi tôn giáo
đuọc chấp nhận, mọi truyền thống tốt đẹp mà ông cha ta dày công kiến tạo đuọc
phục hồi và duy trì, mọi tiến bộ tư tuỏng và khoa học đuọc truyền bá ; một xã
hội mà trong đó CON NGUÒI THỰC SỰ LÀ CỨU CÁNH CỦA CON NGUÒI, chứ không pải là
con vật hy sinh cho một thiên đàng không tuỏng, hay là nạn nhân của một bộ máy
kìm kẹp, đuọc dựng lên để phục vụ một thiểu số nguòi, tự mạo nhận mình là đại
diện cho toàn thể thợ thuyền, cho toàn dân ; công cuộc đấu tranh đó đòi hỏi ở
giới trí thức, văn nghệ sĩ một sứ mạng to lớn.
Sứ mạng đó là diễn tả
trung thực cuộc sống cơ cực mà dân Việt đã và đang chịu hiện nay, cuộc sống cải
tạo gông cùm trong đó con nguòi bị kiểm soát từ miếng cơm manh áo, bị theo dõi
từ lời nói tới buóc đi, cuộc sống của những đứa bé lang thang trên hè phố bán
vé số, những đứa trẻ phải bán thân nuôi miệng, những nguòi bị xuất cảng lao
động, phải sống vào thời nô lệ, mặc dầu chúng ta đang ở thế kỷ 21, thời của văn
minh dân chủ, tự do, tri thức, điện toán.
Sứ mạng đó là nói lên sự
phản đối, cuộc kháng chiến âm thầm, nhưng bền bỉ mãnh liệt của toàn dân chống
lại bạo quyền, vì kháng chiến là một phản ứng tất nhiên của một dân tộc sống
trong nghèo đói và áp bức. Sự nghèo đói, áp bức , bóc lột càng mạnh, sức kháng
cự càng cao.
Sứ mạng đó là nêu cao
những mục đích cao đẹp của cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ hiện nay.
Sứ mạng đó là bảo tồn
văn hóa Việt và cũng đồng thời thâu nhận những tinh hoa của văn hóa, văn minh
the giới.
Dân Việt đã lập quốc từ
lâu. Văn hóa Việt là một nền văn hóa cổ kính, từ lâu mang nhiều tính chất :
Trọng lẽ phải, trọng sự
thật : « Nói phải Ông Vải cũng phải nghe ».
Tự do, dân chủ và nền
nếp : « Phép vua thua lệ làng. »
Nhân bản, trung hậu, lấy
con nguòi, lấy gia đình làm gốc : « Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ
ba tu chùa. », « Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nưuoóc trong
nguồn chảy ra. »
Có tính chất dân tộc,
không phân biệt nam nữ : « Nhiễu điều phủ lấy giá guong. Nguòi trong một
nuóc phải thuong nhau cùng. », Giặc đến nhà, đàn bà cũng phải đánh. »
Nhưng vẫn có tính chất
tiến bộ, quí cái hay cái đẹp của mình, mà vẫn trọng cái tốt của nguòi : «
Ở nhà nhất mẹ, nhì con. Ra đuòng chán vạn kẻ còn hơn ta. », « Đi một ngày đàng,
học một sàng khôn. »
Trong công cuộc đấu
tranh toàn dân, toàn diện, cho tự do, dân chủ, nhằm lật đổ bạo quyền ngày hôm
nay, giới trí thức và văn nghệ sĩ hãy ý thức rõ ràng hơn bao giờ hết rằng bảo
tồn văn hóa là đồng thời có nghĩa là sáng tạo văn hóa, bảo tồn văn minh là sáng
tạo văn minh, bằng cách chống lại quan niệm cho rằng để sáng tạo văn hóa, văn
minh mới, thì phải hủy diệt văn hóa, văn minh cũ.
Giới trí thức, văn nghệ
sĩ hãy trở về nguồn, bằng cách :
Nêu cao tinh thần trọng
sự thật, trọng lẽ phải, trọng điều thiện, và cũng có nghĩa là chøống lại những
cái gì dối trá, lừa bịp, ác ôn.
Nêu cao tinh thần tự do,
dân chủ, đa khuynh, đa đảng, và cũng có nghĩa là chống lại những cái gì độc
đoán, độc tài, độc khuynh, độc đảng, áp bức, bóc lột, đến bất cứ từ đâu, tả
cũng như hữu, bằng cách cổ võ văn hóa cởi mở, tự do, và cũng đồng thời có nghĩa
là chống lại văn hoâ dịch, giáo điều.
Bằng cách nêu cao tiønhâ
thần nhân bản, trung hậu, trọng công bằng, và cũng có nghĩa là chống lại cái gì
bất công, vô nhân bản, thất đức, bất nhân.
Nêu cao tinh thần dân
tộc, và cũng có nghĩa là chống lại cái gì phi dân tộc, mang dân đi phục vụ
những ý đồ bành truóng ngoại bang
Trở về nguồn, nhưng cũng
đồng thời biết phóng tầm mắt ra xa, không để cho trái tim và khối đóng khung
trong những thành kiến, tập quán, những giáo điều của những lý thuyết lỗi thời
cách đây cả hàng trăm ngàn năm, mà nguọc lại biết để trái tim và khối óc đi tìm
những chân trời mới, sẵn sàng đón nhận những ý kiến, tư tuỏng mới, tinh thần lý
luận và đầu óc khoa học cận đại, là để trái tim và khối óc biết hòa nhịp buóc
theo kịp đà tiến bộ của nhân loại.loại
Mục đích của công cuộc
đấu tranh toàn dân, toàn diện, cho tự do, dân chủ hiện nay là lật đổ chế độ độc
đoán, độc tài CS, để xây dựng một xã hội Việt hòa bình, tự do, dân chủ, tiến bộ
và phồn thịnh.
Đó là một cuộc cách mạng.
Mọi cuộc cách mạng đều
bắt đầu bằng cách nói lên sự thật, chỉ trích, đả phá những thói hư, tật xấu,
những bất công, tệ hại của xã hội đuong thời, và đồng thời đưa ra những đuòng
huóng, kế hoặch để xây dựng xã hội tuong lai tốt đẹp hơn.
Nói lên sự thật và chỉ
trích những tệ nạn xã hội, những bất tài, bất luong của giới lãnh đạo và của
trật tự xã hội hiện thời là điều kiện căn bản và đầu tiên củạ
Vì vậy vai trò của trí
thức và văn nghệ sĩ rất quan trọng trong cách mạng.
Nguọc dòng lịch sử,
nguòi ta thấy trong bất cứ một cuộc cách mạng nào, một cuộc vận động lịch sử to
lớn nào, những nhà trí thức, văn nghệ sĩ đều giữ một vai trò tiên phong. Chính
nhờ họ mà nguòi dân thấy rõ những bất công của trật tự đang thờI, thấy rõ những
lỗi lầm, cố chấp, thối nát của giới lãnh đạo.
Cũng chính nhờ họ mà nguòi dân
thấy rõ đâu là trật tự mới, những giá trị mới, đi đúng dà tiến bộ của nhân
loại, hợp lòng nguòi, thuận lòng dân.
Dân Việt hiện nay đang
âm thầm làm một cuộc cách mạng, một cuộc vận động lịch sử, nhằm lật đổ bạo
quyền cộng sản độc đoán, độc tài, đi nguọc lại quyền lợi của dân, đi trái với
đà tiến bộ của văn minh nhân loại, để thay thế trật tự bất công hiện hành bằng
một trật tự mới, công bằng hơn, để xây dựng một nuóc Việt hòa bình, tự do, dân
chủ, ấm no và phồn thịnh.
Bất cứ một cuộc cách
mạng và vận động lịch sử nào cũng bắt đầu bằng cuộc cách mạng và vận động lịch
sử văn hóa. Vì vậy vai trò của trí thức, văn nghệ sĩ không kém quan trọng.
Giới trí thức, văn nghệ
si hôm nay cũng đã bắt đầu ý thức đuọc trách nhiệm quan trọng của mình. Và họ
đang làm một cuộc bắt đầu. Bắt đầu bằng tiếng chuông cảnh tỉnh, phơi bày sự
thật dã man, ác ôn của chế độ, đồng thời nói lên cuộc kháng chiến âm thầm,
nhưng kiên cuòng của dân tộc, ở hải ngoại cũng như ở trong quốc nội. Bắt đầu
bằng hồi chuông báo tử : báo tử cho bạo chúa, bạo quyền, những kẻ đi nguọc lòng
nguòi, phản lòng dân, hại quốc gia, phản dân tộc.
Âu châu ngày 8/7/2003
Trực Ngôn Chu chi Nam
THẾ TẤT THẮNG CHO CUỘC ĐẤU TRANH
DÂN CHỦ - NHÂN QUYỀN VIỆT NAM
Trước
sự đàn áp của bạo quyền cộng sản đối với những nhà đấu tranh dân chủ - nhân
quyền, với thời gian 30 năm qua, nhiều người bi quan cho rằng cuộc đấu tranh vì
dân chủ - nhân quyền rồi cũng sẽ đi đến thất bại. Có phải thế không ?
Thật
ra không phải thế. Ba mươi năm là dài so với 1 đời người, nhưng không là bao so
với dòng dài lịch sử của một dân tộc ; nhất là với dân tộc Việt có cả 4 000
năm lịch sử, đã từng đánh Tống, bại Chiêm, kháng Minh, đuổi Thanh. Cuộc đấu
tranh cho dân chủ - nhân quyền Việt Nam đang có nhiều thế tất thắng, nếu chúng
ta nhìn toàn bộ và theo chiều dài lịch sử Việt.
-
Thế tất thắng thứ nhất đó là sự thật càng ngày càng được phơi bày, chứng tỏ chế
độ cộng sản chỉ là một cuộc lừa đảo lớn nhất của thế kỷ 20, như một nhà sử gia
đã nói ; kẩu hiệu cộng sản đưa ra : « Chế độ cộng sản là chế độ
đại diện cho thợ thuyền, bảo vệ và đấu tranh cho công nông « ; nhưng thực
tế, người dân dưới chế độ này bị bóc lộ nhất.
Hình ảnh hai chế độ Bắc Hàn và
Nam Hàn cho chúng ta thấy rất rõ. Nam Hàn hiện là cường quốc kinh tế thứ 10
trên thế giới, sản lượng tính theo đầu người hàng năm là 15 000$ ;
trong khi đó người dân Bắc Hàn dưới chế độ cộng sản, thì đang chết đói. Người
cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo, như chính cựu Tổng Bí Thư đảng cộng
sản Liên sô, ông Mikhail Gorbatchev tuyên bố : « Tôi đã bỏ hơn nửa
cuộc đời đấu tranh cho lý tưởng cộng sản.
Nhưng ngày hôm nay tôi phải đau buồn
mà nói rằng người cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo. » Người Nga
có câu : « Sự thật nặng hơn quả địa cầu « , và chính câu nói
này đã được những người dân chủ dùng làm khẩu hiệu cho công cuộc đấu tranh giật
sập chế độ độc tài, nói láo cộng sản Liên Sô, vào cuối thập niên 80, đầu 90. Nó
đã được coi như một trong những lý do chính đưa đến thắng lợi của những người
đấu tranh cho dân chủ nhân quyền Nga.
Thật vậy, sức mạnh của bạo lực, của dối
trá, tuyên truyền có thể thắng trong ngắn hạn ; nhưng sức mạnh của dài hạn
vẫn là sức mạnh của sự thật. Trở về lịch sử để chúng ta nhìn rõ hơn. Cách đây
2006 năm, nước Do Thái bị đô hộ bởi đế quốc La Mã, dân Do Thái bị lầm than,
chính vì vậy mà có cuộc nổi dậy của Đức Chú Jésus. Viên toàn quyền La Mã lúc
bấy giờ là ông Ponce Pilat dẹp hoài không xong, bị triệu về Rome hạch hỏi.
Ông
đã thẳng thắng trả lời : « Thưa César ( Bệ hạ), tôi có thể chiến
thắng tất cả ; nhưng tôi không thể nào chiến thắng lời nói sự thật và việc
làm nhân đạo của Jésus. » Hành động của cộng sản Việt Nam, ăn gian, nói
dối, gian manh quỉ quyệt, không có một chút gì là lương tâm, lương tri con
người ; ăn uống, chơi bời hả hê, thừa múa, đánh những canh bạc cả triệu đô
la ; trong khi đó thì đại đa số dân không có một đồng để sống, ngay cả
những người đã hy sinh cho đảng cộng sản, bị tật nguyền ; những hành động
đó, nếu « chiến thắng », thì cũng chỉ là nhất thời, sớm muộn sẽ phải
nhường chỗ cho sự thật, cho lương tâm, lương tri, cho tình con người. Đó mới là
chiến thắng lâu bền.
Một
trong những sai lầm lớn của K. Marx khi ông cho rằng ý thức con người là do
hoàn cảnh xã hội tạo nên.
Và từ đó, những người cộng sản tin rằng có thể dùng
hoàn cảnh và thông tin tuyên truyền nhồi sọ để thay đổi sự suy nghĩ, nhận xét
của con người. Nhưng thực ra, con người khi sinh ra nó đã đuợc Trời phú cho
lương tâm, lương tri, tất nhiên cũng có những trường hợp thiểu số, ngoại lệ.
Với lương tâm, lương tri, con người dù trong hoàn cảnh nào chăng nữa, nó vẫn có
thể phân biệt đâu là phải, đâu là trái, cái gì là thiện, cái gì là ác, cái gì
nên làm, cái gì không nên làm, đâu là dối trá, đâu là sự thật.
Ở đây tôi chỉ
lấy một vài thí dụ cá nhân điển hình, nổi tiếng để dễ hiệu : Trường hợp
nhà bác học Sakharov, cha để của bom nguyên tử Liên Sô, hai ba lần đưọc giải
thưởng Lénine ; quả là một người con cưng của chế độ. Nhưng rồi ông thấy
chế độ làm những điều sai trái, phản dân chủ, phản nhân quyền, ông đã thẳng
thắn chống đối, đến nỗi phải vào tù. Những người như ông Gorbatchev và Etlsine,
một người là Tổng Bí Thư, một người là Ủy viên Bộ Chính trị, đặc trách đảng ở
Moscou, những người này, nếu bảo là do hoàn cảnh, giáo dục và tuyền truyền làm
nên, thì họ là hoàn toàn như vậy, không những họ bị nhồi sọ, mà họ còn là người
nhồi sọ kẻ khác.
Nhưng đến một lúc lương tâm thức tỉnh, lương tri trở lại, họ
sẵn sàng từ bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi, đứng dậy nói lên tiếng nói của lẽ phải,
của sự thật, của lương tâm, lương tri ; như câ u :« Cộng sản
chỉ biết tuyên truyền và nói láo ( Gorbatchev), « Làm gì có tự do dân chủ
dưới chế độ cộng sản. Ngay ở trong đảng, khi ông Tổng Bí Thư dơ tay là mọi đảng
viên phải răm rắp dơ theo. Nếu không thì bị khó dễ hay bị bỏ tù sau này. Đối
với đảng viên còn vậy, hưống chi đối với người dân » ( Etlsine).
Không nói
đâu xa, chúng ta trở về Việt Nam, những người như ông Hoàng minh Chính , cựu
Viện Trưởng Viện Mác Lê, đại tá Phạm quế Dương, nhà văn Dương Thu Hương, đây
cũng là những người do hoàn cảnh, giáo dục và tuyên truyền cộng sản nhào nặn
lên. Nhưng đến một lúc, trước cảnh đảng đi ngược lại lòng người, trái với lòng
dân, phản sự thật, không còn tình người, họ can đảm đướng lên chống đảng, nói
lên tiếng nói của sự thật, của lương tâm, luơng tri.
-
Thế tất thắng thứ nhì, đó là cuộc đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền
đang đi hợp lòng dân, lòng người, đi đúng chiều hướng của lịch sử Việt, mặc dâu
bị đàn áp, nhưng những ngưới đấu tranh chống lại bạo quyền càng đông và càng
được dân hậu thuẫn.
Một
khi sự thật càng ngày càng được phơi bày, người dân càng ngày càng thấy rõ bản
chất thật của người cộng sản, của chế độ, thì họ càng hưởng ứng đông. Có một
nhà báo hỏi một vị Đại Sứ Tây phương ở Lỗ Mã Ni ( Roumanie) vào cuối thập niên
80, khi chế độ độc tài của 2 vợ chồng Ceausescu bị sụp đổ : Tại sao một
chế độ với một cơ quan công an, tình báo, cơ quan tuyên truyền mạnh như vậy mà
sụp đổ một sớm một chiều.
Vị đại sứ không ngần ngại trả lời rằng khi sự thật
được phơi bày, khi sự sợ hãi đã đổi chiều, người dân không còn sợ hãi nửa, thì
chế độ sụp đổ. Có lẽ đây là qui luật để đưa đén sự sụp đổ tất cả mọi độc tài,
vì bất cứ một chế độ độc tài nào cũng dựa trên hai cột trụ chính : bộ máy
thông tin tuyên truyền bôi bác sự thật, bộ máy công an kìm kẹp dọa nạt làm cho
người dân sợ phải theo. Khi hai cột trụ này bị gãy, thì chế độ sụp đổ.
Chính
vì vậy mà vào năm 1978, khi mới lên ngôi, Đức Giáo Hoàng Jean Paul I I, trở về
thăm Ba Lan, còn dưới chế độ độc tài cộng sản, Ngài đã tuyên bố : « Hãy
can đảm !Đừng sợ sệt. Và hãy hy vọng !" Câu nói này là một trong
những nguyên do chính đưa đến sự sụp đổ chế độ cộng sản Ba Lan sau này.
Thật
vậy, dân Việt ngày hôm nay muốn thoát khỏi chế độ độc đài để có hy vọng sống
một cuộc sống tự do, tốt đẹp hơn thì hãy can đảm đứng lên đấu tranh. Đấu tranh
chống lại những bất công mà mình đang chịu, như việc cướp đất đuổi nhà, như
việc bị quan quyền địa phương ức hiếp, bị xiu cao thuế nặng, không đủ tiền nuôi
thân, nuôi gia đình, cho con đi ăn học. Can đảm đứng lên và càng đông càng tốt
thì sự sợ hãi sẽ đổi chiều.
-
Thế tất thắng thứ ba đó là thế giới độc tài cộng sản đã sụp đổ, những nuớc độc
tài cộng sản còn lại trong đó có Việt Nam chỉ là những cành khô, củi mục chôi
lềnh bềnh trên đại dương dân chủ - nhân quyền thế giới.
Cộng
sản Việt Nam, đã từ xưa thường ca tụng : « Liên Sô thành trì cách
mạng cộng sản. Đông Đức thiên đàng cộng sản. Hiện tại của Liên Sô,
của Đông Đức là ngày mai, là tương lai của Việt Nam. » Nay Liên Sô, Đông
Đức sụp đổ, cộng sản Việt Nam mất định hướng, phải bám vào Trung Cộng, mặc dầu
trước đây hết lời chửi rủa Trung Cộng : « Kẻ thù liền sông, liền
núi, liền trời và liền biển. Kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam. »
Cộng
sản Việt Nam hiện nay và Trung Cộng là 2 kẻ « Đồng sàng dị mộng « .
Trung cộng từ ngàn xưa vẫn là kẻ bành trướng, xâm chiếm và không bao giờ quên
lời của Đặng tử Bình : « Cộng sản Việt Nam là kẻ ăn cháo, đái
bát », sẽ tìm cách lợi dụng, lấn đất, cướp biển càng nhiều càng tốt. Vì
vậy, dân Việt nhìn thấy rất rõ ngày hôm nay là ngày nào còn chế độ cộng sản,
ngày đó chủ quyền quốc gia không còn, và càng bị lệ thuộc Trung Cộng.
Tuy nhiên
cả 2 chế độ cộng sản này cộng với Cu Ba và Bắc Hàn, ngày hôm nay, chỉ là những
cành khô củi mục trôi lềnh bền trên đại dương dân chủ, chỉ là một thiểu số lành
đạo cai trị dân bằng khẩu súng và cái còng, « Danh là bá thiên hạ ;
nhưng thực là mất lòng mọi ngườỉ « , sớm muộn sẽ bị sóng đại dương nhấn
chìm. Nói như Đức Trần hưng Đạo : « Quân như thuyền và dân như nước.
Nước có thể chở thuyền ; nhưng nước cũng có thể làm đắm thuyền. »
-
Thế tất thắng thứ 4 đó là chế độ càng ngày càng lún sâu vào vũng bùn tham
nhũng, hối lộ, nội tình đảng Cộng sản Việt Nam đang phân tán, chia rẽ trầm
trọng.
Sự
thật càng ngày càng được phơi bày, chứng tỏ đảng cộng sản lệ thuộc ngoại bang,
tham nhũng hối lộ, tạo nên một xã hội vô cùng bất công, không chỉ với người dân
thấp cổ bé họng, mà ngay với cả những thương binh, quả phụ đã bỏ cả cuộc đời
đấu tranh cho cộng sản, nghĩ rằng cộng sản là công bằng ; nhưng trên thực
tế, cộng sản là bất công, phẩm trật, quan liêu, phong kiến nhất.
Chính vì vậy
mà nhiều quân cán chính cộng sản đã rời bỏ hàng ngũ, hay nếu không, thì trong
lòng cũng không còn tin gì nơi chế độ. Trường hợp ông Hoàng Minh Chính, Phạm
quế Dương là trường hợp điển hình và nhiều người biết tới, nhưng còn cả bao
nhiêu người khác nữa, nhất là giới trẻ, ngày hôm nay qua báo chí, mạng
internet, thông tin, cộng sản không dễ dàng bưng bít như xưa, nói
dối sẽ bị giới trẻ lật tẩy dễ dàng ; và như tôi đã nói ở trên, dù hoàn
cảnh thế nào, nhưng trong thầm kín, tâm tư mỗi con người, đều có lương tâm và
lương tri. Lương tâm và luơng tri này đã làm cho phần lớn dân Việt, bằng cách
này hay cách khác, công khai hay âm thầm, đều bất mãn chế độ.
Thêm
vào đó chế độ càng ngày càng lún sâu vào vũng bùn hối lộ, tham nhũng. Hối lộ,
tham nhũng như bệnh ung thư của một chế độ xế chiều, nếu chữa nó, thì phải cắt
dần cắt mòn những bộ phận của cở thể, đến lúc kiệt sức rồi cũng chết. Nếu không
chữa, nó ăn dần ăn mòn cơ thể, rồi cũng chết.
Chúng ta cứ nhìn cảnh chợ chiều,
chúng ta sẽ rõ : ai cũng vội vã bốc hốt, giành giựt, bán tháo, bán đổ để
về nhà. Lịch sử chúng ta có thể nhìn dưới nhiều con mắt khác nhau ; nhưng
chúng ta cũng có thể lấy quan niệm lịch sử lập lại, khi ta nhìn sụp đổ của
những đế quốc hay triều đại. Triều đại nhà Tống bên Tàu ; dù có dùng Bao
Công, một ông quan tòa xử án công minh đến đâu chăng nữa ; nhưng càng xử
án, đưa cả phò mã, con rể vua ra xử, càng làm chế độ yếu dần đi, cho đến lúc
sụp đổ.
Ở Việt Nam, cuối thời nhà Trịnh, cuối thế kỷ thứ 18, bệnh kiêu binh,
bệnh hối lộ đã là làm tiêu tan nhà Trịnh. Gần đây, nếu chúng ta quan sát sự sụp
đổ của đế quốc cộng sản Liên Sô, thì ai cũng đồng lòng rằng tham nhũng hối lộ
là một trong những nguyên nhân chính đưa đến chế độ sụp đổ.
-
Thế tất thắng thứ 5 đó là cuộc đấu tranh cho dân chủ nhân quyền Việt Nam đang
đi đúng chiều hướng tiến bộ của văn hóa văn minh nhân loại.
Nếu
chúng ta nhìn lịch sử một cách lâu dài, theo một số sử gia và nhà một số nhà
kinh tế, nhân chủng học, thì lịch sử nhân loại chia ra làm 5 nền văn minh :
Văn minh trẩy hái lúc đầu, con người hái cây quả, săn bắn xúc vật quanh hang
hốc của mình để sống.
Nhưng rồi từ từ cây trái, xúc vật cũng trở nên khan hiếm,
con người phải đi xa để kiếm ăn, con người bước sang nền văn minh du mục. Văn
minh du mục tiêu biểu là đế quốc Mông Cổ thời Thành cát Tư Hãn. Dù đi xa, cây
trái và xúc vật cũng không còn nhiều một cách tự nhiên, con người phải nuôi xúc
vật, trồng cây để sinh sống, con người bước sang văn minh định cư, nông nghiệp.
Văn minh định cư nông nghiệp tiêu biểu và to lớn đó là văn minh ai Cập, Ấn Độ,
phát xuất từ châu thổ những con sông lớn, vì đất phù sa phì nhiêu, sông có nước
để tưới cây, cho xúc vật và người uống. Với nền văn minh này, con người đã có
thể thỏa mãn những nhu cầu cần thiết. Một khi nhu cầu cần thiết được thỏa mãn,
con người nghĩ đến nhu cầu xa xỉ, như khi nó có thể dệt vải để mặc, nhưng nó
thích mặc lụa, thì nó trao đổi với người dệt lụa.
Đó là văn minh thương mại.Con
đường Tơ Lụa nối liền đông tây là một trong những di tích của thời đại này.
Trong
thời kỳ văn minh thương mại, con người đã phát minh ra máy hơi nước, máy nổ,
téléphone, rồi máy điện tóan. Với téléphone và máy điện tóan, con người không
cần đi xa để trao đổi buôn bán, con người bước sang nền văn minh tri thức điện
tóan, chính là văn minh ngày hôm nay.
Thật
vậy, con người đã thóat khỏi 4 thời kỳ văn minh trước, để bước vào cuộc cách
mạng kỹ nghệ thứ nhất bằng cách dùng máy hơi nước, để khai thác tài nguyên thiên
nhiên, cách mạng phương thức sản xuất, từ đầu thế kỷ thứ 18 tới cuối thế kỷ thứ
19. Sang thế kỷ 20 và vào giữa thế kỷ này, con người dùng máy nổ để tăng cường
sản xuất.
Cuộc cách mạng thứ 3 là cuộc cách mạng hậu công nghiệp, bắt đầu từ
giữa thế kỷ 20 cho tới ngày hôm nay, với phát minh máy điện tóan, thô sơ lúc
ban đầu, được dùng trong quân sự, rồi được thu nhỏ, hoàn hảo hơn và được dùng
trong kinh tế và ngay cả tư nhân, như chúng ta thấy ngày hôm nay.
Ở thời kỳ văn
minh tri thức - điện toán này, sản xuất kinh tế đã được chuyển từ sức mạnh bắp
thịt lên trí não ; yếu tố quyết định trong sản xuất kinh tế không còn là
nhân công đông hay hầm mỏ nằm trong lòng đất, mà chính là nằm trong đầu óc con
người, với những phát minh sáng kiến.
Chính vì vậy mà nền văn minh này đòi hỏi
một mô hình tổ chức xã hội thích hợp, đó là tự do, dân chủ và kinh tế thị
trường ; vì chỉ dưới chế độ dân chủ con người mới có thể trao đổi dễ dàng
những ý kiến, tư tưởng, những công trình nghiên cứu, và từ đó mới dễ phát minh.
Quốc gia nào có mô hình tổ chức nhân xã dân chủ nhất, tôn trọng tự do, nhân
quyền nhất, giúp con người có nhiều phát minh nhất, quốc gia đó có sức mạnh sản
xuất kinh tế tốt nhất.
- Thế
tất thắng thứ 6 đó là cuộc đâu tranh cho dân chủ nhân quyền Việt Nam đang được
cộng đồng người Việt và cộng đồng thế giới yêm trợ càng ngày càng mạnh.
Cộng
đồng người Việt ở hải ngoại, trong những thấp niên qua còn bị bận rộn về việc
định cư, sinh sống, nay việc này đã tạm ổn, thêm vào đó, đã thành công trong
việc dạy giỗ con em ăn học, nắm nhiều vai trò quan trọng trong những chính
quyền địa phương.
Và với cái nhìn tự do, dân chủ, đúng chiều hướng của văn minh
nhân loại, phản lại độc tài, những con em này là những tiếng nói hữu hiệu cho
cuộc đấu tranh dân chủ - nhân quyền Việt Nam đối với những chinh quyền quốc tế
sở tại.
Đó
là những yếu tố thuận lợi khách quan. Còn yếu tố chủ quan tùy thuộc ở mỗi người
Việt, mỗi tổ chức đấu tranh cho dân chủ - nhân quyền, ở quốc nội cũng như hải
ngoại, có thể nắm bắt được thời cơ thuận tiện này hay không . Để nắm bắt
thời cơ này, tất nhiên cần phải nhiều yếu tố ; nhưng hai trong những yếu
tố căn bản, đó là sự thật và can đảm.
Nói như Đức Giáo hoàng Jean Paul I I :
« Hãy can đảm ! Đừng sợ xệt ! Và hãy hy vọng !
« Can đảm đứng lên đấu tranh, nói lên tất cả những bất công, từ việc cướp
nhà, cướp đất, cuộc sống cơ cực, bị bóc lột bởi tư bản đỏ trong nước, thông
đồng với tư bản trắng quốc ngoại, trả nhân công rẻ mạt, đối xử tàn tệ với anh
chị em công nhân Việt ; nói lên xiu cao thuế nặng, làm không đủ sống,
không có tiền đi bác sĩ, nhà thương, hay cho con đi học ; trong khi đó thì
đảng đoàn cán bộ tiêu tiền vứt qua cửa sổ.
Can đảm đứng dậy, càng đông, càng
tốt, nói lên sự thật, không những cho chính mình, mà cho nghững người chung
quanh mình, cho con cháu thế hệ mai sau ! Chỉ như vậy thì công cuộc đấu
tranh cho dân chu – nhân quyền mới sớm thành công, dân tộc, đất nước mới sớm
thoát khỏi độc tài, khỏi cảnh nghèo đói, lầm than !
Paris
ngày 13/11/2006
Chu
chi Nam
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment