Vợ con quan chức TQ 'phải về nước'
Biểu Tình Tại Hà Nội 23/03/2014
Cập nhật: 09:54
GMT - chủ nhật, 8 tháng 6, 2014
- Facebook
- Twitter
- Google+
- chia sẻ
- Gửi cho
bạn bè
- In trang này
Nhân vật từng rất
quyền lực, Bạc Hy Lai, đã cho con sang Anh học
Một cuộc điều tra
tại Trung Quốc tiết lộ rằng hơn 1.000 quan chức ở tỉnh Quảng Đông ở
miền nam có vợ hoặc con sống ở nước ngoài.
Giới lãnh đạo cộng
sản Trung Quốc muốn chấm dứt tình trạng này bởi họ tin rằng đây có
liên quan tới tình trạng tham nhũng.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Việc có người nhà
sinh sống ở nước ngoài không phải là điều bất hợp pháp, nhưng nó
khiến cho các quan chức tham nhũng có thể gửi tiền kiếm được một
cách bất hợp pháp ra nước ngoài.
Các quan chức Quảng
Đông được yêu cầu phải đưa gia đình trở về, hoặc phải xin nghỉ việc,
nếu không sẽ bị giáng cấp.
Gia đình hay công việc?
Hãng tin chính thức
của nhà nước, Tân Hoa Xã, nói rằng đảng cộng sản tại Quảng Đông đã
có cuộc điều tra kéo dài trong hai tháng đối với một nhóm được biết
đến như "các quan chức không tài sản".
Tên gọi này được
dùng cho các công bộc Trung Quốc có thành viên gia đình ra nước ngoài
sinh sống.
Một số người sau đó đã chuyển những khoản thu nhập bất
chính cho thân nhân ở nước ngoài, khiến bản thân họ trở thành người
không có mấy tài sản ở Trung Quốc.
Chừng 200 quan chức
Quảng Đông đã yêu cầu gia đình trở về Trung Quốc, Tân Hoa Xã nói. Còn
866 người khác chấp nhận bị giáng chức, trong đó có chín quan chức
cấp tỉnh.
Một người, họ Lưu,
nói với Tân Hoa Xã rằng ông bỏ việc thay vì buộc vợ phải từ Hong
Kong trở về, nơi có quy chế pháp lý độc lập với Trung Hoa đại lục.
"Tôi nói với cha
mẹ và vợ về quy định mới của chính quyền trung ương và chính quyền
tỉnh, nhưng vợ tôi muốn sống ở Hong Kong hơn. Vì cuộc sống gia đình
với tôi cũng quan trọng không kém, tôi quyết định ủng hộ vợ và từ
bỏ công việc của mình," ông nói.
Các quan chức Trung
Quốc trong nhiều năm đã cho người thân ra nước ngoài sinh sống và học tập.
Cựu ủy viên Bộ chính
trị nay đã bị thất sủng, ông Bạc Hy Lai, đã cho con trai sang học tại
trường tư danh tiếng và đắt đỏ của Anh, trường Harrow.
Ông Bạc hồi năm ngoái
bị kết tội tham nhũng và lạm quyền.
Luật Biểu tình: Một cơ
hội cho chính quyền Việt Nam
Biểu tình phản đối Trung
Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào vùng biển Việt Nam, trước đại sứ quán Trung Quốc
tại Hà Nội, 11/05/2014 - DR
Tháng 5/2013, việc Trung
Quốc đưa giàn khoan dầu khí vào thăm dò tại vùng thềm lục địa Việt Nam, làm
bùng lên làn sóng phản đối chưa từng thấy ở trong nước và khiến nguy cơ xung
đột trong khu vực dâng cao. Trong bối cảnh đó, chính quyền Việt Nam cuối tháng
5 đã có một quyết định, được một bộ phận công luận đánh giá là khá bất ngờ, khi
đưa trở lại dự luật Biểu tình vào chương trình làm luật của Quốc hội, dự kiến
sẽ được thông qua vào cuối năm tới 2015.
Theo mô tả của truyền
thông trong nước, quyết định nói trên được đưa ra, một mặt là để thỏa mãn quyền
căn bản của người dân, mặt khác để tạo thuận lợi cho việc quản lý của Nhà nước.
Có một quan điểm khá phổ biến là chính việc thiếu luật Biểu tình đã khiến các
cơ quan thực thi công lực không có đủ căn cứ pháp lý để xử lý các hành vi bạo
động, bên lề các cuộc phản đối Trung Quốc tại một số khu công nghiệp nước
ngoài.
Giới luật gia cũng như
những người quan tâm suy nghĩ gì về quyết định nói trên của chính quyền ? Luật
Biểu tình trong tương lai liệu có khả năng tạo thuận lợi cho việc thực thi quyền
biểu tình hiến định ? Đâu là những trở ngại cho việc ra đời một luật Biểu tình
thực sự bảo vệ nhân quyền căn bản, quyền của các công dân Việt Nam ?
Khách mời của tạp chí xã
hội RFI tuần này là Luật sư Trần Thanh Hiệp (Paris), Luật sư Trần Quốc Thuận
(Sài Gòn) và Luật sư Hà Huy Sơn (Hà Nội).
Trước hết Luật sư Trần
Quốc Thuận, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, cho biết suy nghĩ của ông,
sau khi Quốc hội Việt Nam quyết định đưa dự luật Biểu tình vào chương trình làm
luật năm 2015.
|
Luật sư Trần Quốc
Thuận : Đó là những luật bị treo, những quyền cơ
bản của người dân bị treo, cũng như luật Lập hội, luật Cung cấp thông tin,
quyền tự do tư tưởng… Bây giờ luật Biểu tình đã được đưa vào, tôi cho rằng việc
đưa vào thì hơi trễ, nhưng dù sao đó cũng là việc thực thi Hiến pháp 2013, mà
trong đó có dành một chương để nói rõ là Việt Nam có nhân quyền… Trước đây ông
Thủ tướng có đặt vấn đề là giao dự luật Biểu tình này cho Bộ Công an làm trưởng
ban soạn thảo, từ đó rồi lặng thinh, bây giờ thì chính thức đưa vào chương trình
làm luật.
Vấn đề biểu tình là
nguyện vọng chính đáng, để thực hiện được việc đã được nêu rất nhiều trong các
văn kiện của Đảng và Nhà nước, tức là kêu gọi người ta « phản biện ».
Mà biểu tình cũng là một hình thức phản biện. Cho nên, tại sao không để người
ta biểu tình ?
Chuyện này, tôi nghĩ là
để xem. Các đòi hỏi của các đại biểu Quốc hội là cung cấp luật biểu tình của
các nước tiên tiến trên thế giới, xem thực hiện quyền tự do dân chủ này như thế
nào.
Có điều kiện khảo sát, nghiên cứu, lúc đó mới có điều kiện tham gia ý kiến
được. Còn bây giờ, tôi nghĩ là họ đưa ra đây, trước nhất cũng là một kiểu để « đáp
ứng », để nói cho « hợp lòng dân». Bây giờ có nhiều
người đang thực hiện chuyện đó lắm. Cũng chưa biết sự thật thế nào. Có điều,
cái chữ « biểu tình » được người ta hưởng ứng, còn cái luật
thì đang chờ, nhưng mà ta cũng cố gắng tham gia ý kiến để ngăn cản những cái
bất hợp lý.
Luật sư Hà Huy Sơn, một
người từ nhiều năm nay dành rất nhiều tâm lực để bảo vệ các nhà hoạt động nhân
quyền, cũng có cùng quan điểm dè dặt như Luật sư Trần Quốc Thuận. Ông đặc biệt
nhấn mạnh đến nguy cơ bộ luật Biểu tình tương lai - cho dù tốt về nguyên tắc -
bị vô hiệu hóa bởi các văn bản dưới luật.
|
Luật sư Hà Huy
Sơn : Luật Biểu tình Quốc hội đã trì hoãn, đã treo quyền của
công dân cũng đã lâu rồi, hơn 20 năm rồi, từ Hiến pháp 1992. Tôi chưa biết luật
Biểu tình này như thế nào, tức là có triển khai trong thực tế hay không, hay là
người ta chỉ đưa ra để giải quyết nhu cầu của dư luận thôi ? Tại vì trong thực
tế, Quốc hội Việt Nam cũng ban hành rất nhiều luật không thể thực hiện được.
Theo tôi, luật này tối
thiểu cũng phải theo các thông lệ, quy định về biểu tình của các nước trong khu
vực hoặc là tiến bộ hơn là vận dụng các quy luật phổ quát của các luật biểu
tình của các nước Phương Tây. Có thể quy định về thời gian, hay địa điểm được
biểu tình, hoặc số người đăng ký biểu tình không bắt buộc phải lớn quá. Việc
thời gian để được chính quyền, địa phương cho phép là một hoặc hai tuần là dài
quá, trong khi vấn đề biểu tình cũng là xuất phát từ những tình hình thời sự
trong nước, hoặc phát sinh như vấn đề giàn khoan HD981. Thời gian nên thực tế
hơn là hai ngày, năm ngày hay chậm nhất là một tuần.
Về mặt pháp lý, theo
Hiến pháp quy định là người dân đã có quyền rồi. Nhưng thường luật ở Việt Nam
quy định không được cụ thể, nên khó cho các cơ quan chức năng và khó cho cả
người dân. Thông thường người ta hay quy định thêm. Nghị định của chính phủ thì
hướng dẫn chi tiết hơn, thậm chí chi tiết nữa là thông tư hướng dẫn của các bộ,
ví dụ ở đây là Bộ công an được Chính phủ giao. Trong thực tế, các văn bản dưới
luật (thông tư, nghị định) giới hạn các quyền theo luật và quyền trong Hiến
pháp. Chuyện đó xảy ra ở Việt Nam rất nhiều.
Luật Biểu tình chưa ban
hành, các thông tư, nghị định cũng chưa ban hành, nên tôi cũng chưa thể nói
điều gì trước, nhưng theo kinh nghiệm thì ở một nước có một đảng lãnh đạo, về
phía Nhà nước người ta cũng không cần luật Biểu tình này nhiều, nên khả năng nó
bị hạn chế bởi các văn bản dưới luật là rất có thể xảy ra.
Về những nền tảng chính
trị và pháp lý của luật pháp biểu tình tại các quốc gia dân chủ tiên tiến, sau
đây là các nhận định của Luật sư Trần Thanh Hiệp, Chủ tịch Trung Tâm Việt Nam
về Nhân Quyền (C.E.V.I.D.O./Centre Vietnamien pour les Droits de l’Homme), có
trụ sở tại Paris. Luật sư Trần Thanh Hiệp từng hành nghề luật sư tại Tòa Thượng
Thẩm Paris và Tòa Thượng Thẩm Saigon trước năm 1975.
RFI : Thưa
Luật sư, như Luật sư biết, hiện tại ở Việt Nam, chính quyền có một số chuyển
động theo hướng đáp ứng, về mặt nguyên tắc, những quyền tự do căn bản của con
người. Một trong những chuyển động đó là việc Quốc hội Việt Nam cách đây ít
ngày thừa nhận cần phải gấp rút ban hành luật về biểu tình, mà nhiều người coi
đây là một « món nợ » của chính quyền đối với xã hội. Tuy nhiên, từ chỗ tuyên
bố để đi tới một bộ luật bảo đảm nhân quyền căn bản này là cả một chặng đường
dài, và nhiều người đặt câu hỏi, liệu những người nắm quyền có thực tâm ban
hành một bộ luật thỏa mãn các đòi hỏi của nền dân chủ hiện đại ? Câu hỏi trước
hết, xin được Luật sư cho biết, đối với các quốc gia dân chủ Phương Tây, việc
xây dựng luật (hoặc các quy định tư pháp) về biểu tình dựa trên những cơ sở nào
?
|
Luật sư Trần
Thanh Hiệp : Biểu tình, vào thời điểm những năm 2000,
là một nhân quyền mang tính phổ quát, chẳng những ở Phương Tây mà cả ở Phương
Đông. Điều này đã được lịch sử chứng minh. Cách đây ít hôm, tại Hồng Kông đã có
một cuộc biểu tình để tưởng niệm vụ độc tài Trung Cộng đàn áp dân chủ tại Bắc
Kinh cách đây 25 năm.
Vì là một nhân quyền nên
biểu tình đã xuất phát từ hai nguồn gốc chính trị và pháp lý. Hay đúng hơn,
phải nói khởi đầu, biểu tình là một quyền chính trị, rồi về sau, để được hành
sử không gặp trở ngại, quyền chính trị này đã được đưa lên hàng một quyền pháp
lý. Tức là quyền biểu tình đã được các quy phạm pháp lý công nhận và bảo vệ.
Do đó, nói chung, trên
thế giới, biểu tình là một nhân quyền đặt dưới sự chi phối của Hiến Chương Quốc
Tế về Nhân Quyền, gồm có Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền năm 1948, hai Công
Ước Quốc Tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn
hóa năm 1966 và ba Hiệp Định Thư liên quan tới việc áp dụng hai Công ước quốc
tế này. Ngoài ra, còn có những Hiến chương về Nhân Quyền riêng của các châu.
Trong khuôn khổ cuộc phỏng vấn này, tôi sẽ chỉ bàn rất sơ lược về mấy văn bản
pháp lý về nhân quyền ở châu Âu và ở nước Pháp.
RFI : Xin
Luật sư cho biết một số ví dụ thành công trong vấn đề luật biểu tình, chẳng hạn
như ở Châu Âu.
Luật sư Trần
Thanh Hiệp : Văn bản pháp lý chi phối nhân quyền của
người dân các nước ở châu Âu là Hiệp định Châu Âu về nhân quyền năm 1950 (Convention
européenne des droits de l’homme) và luật quốc gia của mỗi nước. Quyền
biểu tình của người dân châu Âu được dự liệu nơi điều 11 của Hiệp định này và
của luật quốc gia của mỗi nước. Ở Pháp, ngoài điều 11 của Hiệp định Châu Âu nói
trên, còn có Sắc-luật ngày 23 tháng 10 năm 1935 là văn bản chi phối việc hành
xử quyền biểu tình. Theo văn bản này thì quyền biểu tình là một quyền tự do tập
thể, không phải theo chế độ “Xin, Cho” như ở các nước độc tài, nhưng
cũng phải khai báo trước về mục đích, thời điểm, địa điểm, lộ trình tuần hành
của cuộc biểu tình dự kiến. Nhà chức trách có quyền ngăn cấm nếu nhận thấy cuộc
biểu tình có triệu chứng bất lợi như gây rối loạn trong trật tự công cộng, làm
phương hại đời sống của dân chúng v.v... Có một điểm cần nói rõ là việc ngăn
cấm này không phải là một quyền độc đoán của nhà chức tránh tùy tiện ngăn cấm
người dân biểu tình. Mà phải là biện pháp bảo vệ quyền lợi chung trong một nước
dân chủ, như đã được ghi rõ trong bản văn được áp dụng.
Mặt khác, trong cả hai
hình thức biểu tình hoặc tụ tập tại chỗ, hoặc tuần hành trên công lộ, tuyệt đối
cấm không được mang theo vũ khí. Biểu tình nếu có võ trang sẽ bị công lực giải
tán.
Lại nữa, quyết định của
nhà chức trách cấm biểu tình phải được dẫn lý và chịu sự kiểm soát của tòa án
quốc nội hay Tòa Án Châu Âu về Nhân quyền, nếu có khiếu nại.
Như vậy là những tranh
chấp vì chính kiến bất đồng trong xã hội, kể cả trong những tương quan giữa dân
và chính quyền - mà biểu tình là một hình thức - đã được giải quyết theo đường
lối ôn hòa thay vì bằng bạo lực. Đó là một thành công đáng kể trong tiến trình
của nhân loại đi tới ngày một văn minh. Trong sinh hoạt chính trị tại các nước
dân chủ trên thế giới, và nhất là ở Tây Âu, ở Bắc Âu, thậm chí ở cả Đông Âu từ
cuối thập niên 1990, biểu tình đã có một vai trò rất quan trọng.
RFI : Xin
Luật sư cho biết những trở ngại về mặt tư pháp cho một luật biểu tình thành
công ?
Luật sư Trần
Thanh Hiệp : Theo tin tức thời sự thì trong một tương
lai không xa, Việt Nam xã hội chủ nghĩa sẽ ban hành luật về biểu tình. Việc này
đã được nêu lên, loan báo từ lâu nhưng quyền biểu tình của người dân ở trong
nước chưa bao giờ được nhà cầm quyền cộng sản công nhận, tôn trọng nói gì tới
thực thi. Đã đành rằng những diễn biến về mặt quốc tế cũng như về mặt quốc nội
là những sức ép rất lớn buộc nhà cầm quyền đương chức ở trong nước phải cải
thiện sâu rộng tình trạng nhân quyền ở Việt Nam. Nhưng nhà chức trách ở Hà Nội
vẫn chưa thuyết phục được ai rằng họ thực tâm muốn từ bỏ đường lối đảng trị phi
nhân quyền. Cả một bộ máy đàn áp khổng lồ đang được triển khai trên bình diện
quy phạm cũng như trên bình diện định chế.
Như vậy, nếu ban hành
cái gọi là luật biểu tình mà vẫn giữ nguyên vẹn cả một hệ thống cấu trúc phi
nhân quyền như Hiến pháp, pháp chế, tòa án, công an, nhà tù, quốc hội, chính
phủ bù nhìn v.v..., thì sẽ chỉ là ban hành thêm một hình thức cấm biểu tình
mới. Biểu tình là một sản phẩm của văn minh nhân loại, vì nhân loại văn minh đã
biết và dám nhìn nhận nó như là một nhân quyền chính trị được pháp lý hóa.
Không thể có được một luật về biểu tình đích thực trong một chế độ phi nhân
quyền. Đó là điều cảnh giác cho những ai muốn thấy có luật biểu tình ở Việt Nam
phù hợp với quốc tế vè nhân quyền.
RFI : Các
quốc gia dân chủ có những biện pháp nào về pháp lý để hạn chế các lạm dụng, tùy
tiện của chính quyền trong việc ra quyết định cấm biểu tình, vì lý do này hay
khác ?
Luật sư Trần
Thanh Hiệp : Có 5 yếu tố đã làm cho việc chống lại những
lạm quyền xảy ra trong khuôn khổ một chế độ dân chủ trở nên những biện pháp hữu
hiệu.
Thứ nhất, tự trong bản
thân chế độ dân chủ đã có sẵn những tự chế không được lạm quyền mà người ta
không thể tìm thấy được trong một chế độ độc tài.
Thứ hai, những người cầm
quyền trong một chế độ dân chủ có những nghĩa vụ pháp lý phải tuân thủ những
quy phạm buộc tôn trọng nhân quyền.
Thứ ba, ngành hành pháp
cũng như ngành lập pháp trong một chế độ dân chủ, dù muốn, cũng sẽ không thể
che đậy được hết những hành vi lạm quyền, nhất là sự kiểm soát của tòa án, tự
bản chất của nó, lại rất khách quan và công bằng.
Thứ tư, quyền tự do ngôn
luận là một thứ thuốc hiện hình làm cho các hành vi lạm quyền phải phơi bày ra
trước ánh sáng.
Thứ năm, việc hành xử
những quyền tự do trong chế độ dân chủ, khác với việc hành sử trong chế độ độc
tài, không bị lệ thuộc vào nguyên tắc phải xin phép trước mà chỉ cần khai báo
trước. Nói cách khác, việc chỉ khai báo thôi mà không phải xin phép đã gián
tiếp tước bỏ mọi hành vi lạm quyền. Sự khác biệt này cũng là một nguyên nhân
ngăn giữ tự gốc lạm quyền khiến nó không xảy ra. Nói tóm lại, tất cả những ràng
buộc tinh thần này đã giúp cho mức độ lạm quyền trong những chế độ dân chủ giảm
thiểu tối đa. Và đó chính là văn minh".
---
Biểu tình – hay việc
biểu thị quan điểm và thái độ một cách tập thể tại nơi công cộng – là một hiện
thực hết sức phổ biến tại các quốc gia dân chủ tiến bộ. Biểu tình là một thước
đo cho thấy sức sống của một xã hội dân chủ, nơi tất cả mọi người, về mặt
nguyên tắc, đều có quyền bày tỏ quan điểm, và thông qua việc bày tỏ quan điểm
tại nơi công cộng mà tìm cách giải quyết các mâu thuẫn, xung đột bằng con đường
ôn hòa. Tại đa số các nước dân chủ, biểu tình còn được coi là một "quyền
lực đối trọng". Là một hình thức thể hiện thái độ và quan điểm ở nơi
công cộng, việc thực thi quyền tự do của người này có thể ảnh hưởng đến tự do
của người khác, do đó chế độ pháp lý liên quan đến quyền biểu tình ở các nước
dân chủ (còn được gọi là quyền tự do mang tính quan hệ/la liberté
relationnelle) – phải đi kèm với các biện pháp bảo vệ trị an tương ứng -
thường được hoàn chỉnh khá muộn so với một loạt các nhân quyền căn bản khác.
Nhiều luật gia cho rằng, một cái mốc cho thấy quyền biểu tình của người dân
được thực sự công nhận khi các cuộc biểu tình của công dân chỉ cần « báo
trước », hay đăng ký trước với các cơ quan hành chính, chứ không cần
được « cấp phép », và để ngăn chặn một cuộc biểu tình diễn
ra, vì một lý do hết sức đặc biệt, cơ quan có thẩm quyền phải có nghĩa vụ cung
cấp đầy đủ các chứng cứ, đồng thời phải chịu trách nhiệm trước tư pháp về quyết
định cấm.
Một số ý kiến mà các
luật sư trình bày trên đây cho thấy, có rất nhiều nghi ngờ về khả năng trong
năm tới Quốc hội Việt Nam thông qua được một đạo luật biểu tình thực sự làm cơ
sở để bảo đảm cho quyền bày tỏ ôn hòa quan điểm của một tập thể tại nơi công
cộng. Chế độ pháp lý hiện hành tại Việt Nam, đặc biệt là các văn bản dưới luật,
về cơ bản vẫn có thiên hướng dành cho chính quyền quyền định đoạt những gì mà
công dân được phép làm hay không làm. Việc bảo vệ người dân trước các đe dọa
lạm quyền từ phía Nhà nước, hỗ trợ người dân thực thi các quyền căn bản vẫn là
điều thường hết sức bị coi nhẹ.
Công chúng cũng có thể
đặt nhiều câu hỏi : Trong thời gian chờ đợi luật Biểu tình mới ra đời, người
dân thực thi quyền biểu tình hiến định như thế nào ? Ai phải chịu trách nhiệm,
nếu như các quy định pháp lý bị khuyết thiếu ? Sau khi chuyển sang Quốc hội « trái
bóng » làm luật vào thời điểm áp lực trong công luận gia tăng, phải
chăng Chính phủ hiện nay hoàn toàn vô can ?...
Những ai chia sẻ cách
nhìn của Luật sư Trần Quốc Thuận, một mặt hy vọng vào thiện chí của những người
cầm quyền, mặt khác vẫn rất cảnh giác và sẵn sàng hành động để « loại
bỏ những ngăn cản bất hợp lý » trong dự luật mới, ngăn chặn xu hướng
lạm quyền phổ biến trong hệ thống chính trị Việt Nam. Nếu thành công, một luật
Biểu tình ra đời theo hướng này có thể được coi là cơ hội cho chế độ chính trị
Việt Nam hiện hành chuyển đổi một cách ôn hòa. Trong khi đó, đối với những ai
đồng quan điểm với Luật sư Trần Thanh Hiệp, trong xu thế chính quyền Việt Nam,
nếu « vẫn giữ nguyên vẹn cả một hệ thống cấu trúc phi nhân quyền »
như hiện nay, luật Biểu tình tương lai sẽ « chỉ là một hình thức cấm
biểu tình mới », và điều này như vậy triệt tiêu cơ hội hóa giải ôn
hòa các xung đột xã hội tại Việt Nam.
RFI xin chân thành cảm
ơn Luật sư Trần Thanh Hiệp, Luật sư Hà Huy Sơn và Luật sư Trần Quốc Thuận đã
dành thời gian cho chương trình.
Còn Đảng còn mình
Tin liên hệ
CỠ CHỮ
02.06.2014
Câu khẩu hiệu “còn Đảng
còn mình”, cho đến nay, chỉ xuất hiện trước các đồn công an và, từ đó, trở
thành một đối tượng để phê phán của những người ngoài đảng và có tinh thần dân
chủ và độc lập.
Kể cũng dễ hiểu.
Câu khẩu hiệu ấy sai đến dại dột và lố bịch. Trên thế giới, có lẽ không ở đâu người ta dại dột và lố bịch đến như vậy. Bởi, trên thế giới, từ lâu, người ta đã biết và đã thực thi nguyên tắc: Công an phải độc lập với đảng cầm quyền. Nhiệm vụ của công an không phải là để phục vụ và kiếm lợi từ cái đảng ấy. Nhiệm vụ của công an là bảo đảm an toàn và an ninh cho xã hội và chỉ tuân theo luật pháp.
Giới lãnh đạo Việt Nam, ngay trong ngành công an, có lẽ cũng hiểu điều ấy. Nhưng họ vẫn nói, hơn nữa, nói một cách công khai, đàng hoàng và dõng dạc, thành khẩu hiệu. Để làm gì? Như một lời hứa, một sự cam kết đối với công an.
Bởi vậy, câu khẩu hiệu trên phản ánh không những tình trạng đảng trị và phi dân chủ mà còn cả sự mua chuộc của đảng Cộng sản đối với lực lượng công an. Điều này, thật ra, đã được nhiều người nêu lên: Hiện nay, đảng Cộng sản bảo vệ thế đứng độc tôn của mình trên chiếc kiềng ba chân: một là quân đội, hai là công an; và ba là nền kinh tế quốc doanh, qua đó, đảng có thể vơ vét tài sản quốc gia và phân phối lợi nhuận cho những người trung thành, kể cả hai lực lượng nòng cốt vừa nêu: công an và quân đội.
Tuy nhiên, theo tôi, câu khẩu hiệu “còn đảng còn mình” không chỉ giới hạn trong lực lượng công an. Nó còn là nếp tư duy chung của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong giới lãnh đạo, nhất là trong quan hệ với những thử thách họ đang đối đầu.
Nói một cách vắn tắt, ít nhất cho đến thời gian gần đây, trước khi vụ giàn khoan HD-981 bùng nổ, tất cả những toan tính chiến lược của nhà cầm quyền Việt Nam không phải là bảo vệ đất nước mà, trước hết, bảo vệ quyền lực và quyền lợi của chính họ; và vì những quyền lực và quyền lợi ấy gắn bó với sự tồn tại, hơn nữa, tồn tại một cách độc tôn của đảng Cộng sản, do đó, hệ quả là, mọi người cứ lo chăm chắm bảo vệ đảng dù cái giá phải trả có khi là mất đi một phần lãnh thổ hay lãnh hải.
Có lẽ sự chọn lựa ấy được định hình thành chính sách sau cuộc hội nghị ở Thành Đô giữa giới lãnh đạo Việt Nam và giới lãnh đạo của Trung Quốc, ở đó, Việt Nam công nhận Trung Quốc là lãnh tụ độc nhất của khối xã hội chủ nghĩa, thay thế vị trí của Liên Xô trước đó; và Việt Nam thề thốt trung thành với con đường xã hội chủ nghĩa; điều đó cũng có nghĩa là trung thành với Trung Quốc.
Không phải chỉ trong lời nói. Việt Nam thành thực tuân theo các thỏa thuận ấy, xem Trung Quốc như một đồng chí tốt, hơn nữa, một thứ đàn anh tốt. Sự thành thực ấy không chỉ phản ánh trong lời nói, ở các diễn văn cũng như các khẩu hiệu tuyên truyền. Nó còn thể hiện qua việc làm: lúc nào cũng đề cao và nhường nhịn Trung Quốc. Hơn nữa, họ còn hết lòng tin tưởng Trung Quốc. Theo dõi ngân sách của Việt Nam cho lãnh vực quốc phòng, giới quan sát chính trị thế giới nhận ra một điểm đặc biệt: Việt Nam chỉ bắt đầu hiện đại hóa quân đội Việt Nam chỉ từ năm 2004, tức là 14 năm sau hội nghị Thành Đô, khi âm mưu xâm lấn của Trung Quốc đã quá rõ rệt và khi dân chúng đã quá bức xúc trước những âm mưu xâm lấn đó.
Ngoài ngân sách, sự tin cậy và lệ thuộc vào Trung Quốc cũng thể hiện rất rõ qua vô số cách hành xử của giới lãnh đạo Việt Nam, ví dụ, trong việc thả lỏng cho Trung Quốc muốn làm gì thì làm, từ việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên đến việc thuê dài hạn rừng núi, ngay cả ở những khu vực có vị trí chiến lược về quân sự, việc nhắm mắt để công nhân Trung Quốc ào ạt sang làm việc một cách trái phép, việc để cho người Trung Quốc di trú và hoạt động bất hợp pháp ở những nơi được xem là hiểm yếu của Việt Nam như hải cảng quân sự Cam Ranh, việc để cho các công ty Trung Quốc thành công trong phần lớn các cuộc đấu thầu liên quan đến các dự án có tầm vóc quốc gia, việc lơ đễnh để báo chí, bản đồ, thậm chí, cả sách giáo khoa, thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của… Trung Quốc, v.v…
Không ai bày tỏ quan điểm bảo vệ đảng bằng mọi giá như Trần Đăng Thanh, đại tá, giáo sư tiến sĩ, thuộc Học viện chính trị Bộ quốc phòng. Phát biểu trước các cán bộ lãnh đạo trong ngành giáo dục vào tháng 12 năm 2012, ông Thanh thể hiện tư tưởng ghét Mỹ và bài Mỹ qua nhận định “Người Mỹ chưa hề, chưa từng và không bao giờ tốt thật sự với chúng ta cả”. Ngược lại, với Trung Quốc, ông nhấn mạnh: “Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc”. Cuối cùng, ông kêu gọi mọi người hãy trung thành với Đảng với lý do thiết thực: “Hiện nay các đồng chí đang công tác chưa có sổ hưu nhưng trong một tương lai gần hoặc một tương lai xa chúng ta cũng sẽ có sổ hưu và mong muốn mỗi người chúng ta sau này cũng sẽ được hưởng sổ hưu trọn vẹn”. Nói một cách đơn giản: Nếu đảng còn thì sổ hưu của các “đồng chí” còn!
Những người chủ trương trang Bauxite Việt Nam phải thốt lên một lời nhận định đầy cay đắng: “Chưa bao giờ những lời rao giảng về lý tưởng xã hội chủ nghĩa lại 'thực dụng' đến như thế và cũng... thảm thiết đến như thế!”
Chính cách tư duy “còn đảng còn mình” và “còn đảng còn sổ hưu” ấy chi phối thái độ và chính sách của đảng Cộng sản Việt Nam đối với Trung Quốc: Cho dù lấn hiếp Việt Nam đến mấy thì Trung Quốc cũng vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa; Việt Nam chỉ cần nhường nhịn Trung Quốc là có thể bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, nghĩa là bảo vệ vị thế lãnh đạo độc tôn của đảng Cộng sản. Chúng cũng chi phối thái độ và chính sách của Việt Nam đối với Mỹ và Tây phương nói chung: Các quốc gia ấy lúc nào cũng đòi hỏi dân chủ và nhân quyền tức là lúc nào cũng âm mưu “diễn tiến hòa bình” để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Mà tất cả những kẻ nào có ý định lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa đều bị xem là “lực lượng thù nghịch”.
Nói cách khác, dưới mắt giới lãnh đạo Việt Nam, những kẻ bị xem là “thù nghịch” không phải là những kẻ mưu toan lấn chiếm vùng biển và hải đảo Việt Nam mà chính là những kẻ muốn Việt Nam được dân chủ hóa. Nói cách khác nữa, với họ, việc bảo vệ đảng quan trọng hơn việc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải.
Dân chúng hiểu rõ điều đó cho nên lâu nay vẫn truyền tụng một câu nói thật thông minh và sắc sảo, thể hiện thế lưỡng nan của nhà cầm quyền Việt Nam: “Đi với Trung Quốc thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng.” Mà hình như không phải là “lưỡng nan”. Bởi không chừng nhà cầm quyền Việt Nam đã có chọn lựa rõ ràng: “Thà mất nước hơn là mất đảng”, cũng theo cách nói của dân chúng.
Hy vọng sau biến cố giàn khoan HD-981, giới lãnh đạo Việt Nam sẽ thức tỉnh.
Kể cũng dễ hiểu.
Câu khẩu hiệu ấy sai đến dại dột và lố bịch. Trên thế giới, có lẽ không ở đâu người ta dại dột và lố bịch đến như vậy. Bởi, trên thế giới, từ lâu, người ta đã biết và đã thực thi nguyên tắc: Công an phải độc lập với đảng cầm quyền. Nhiệm vụ của công an không phải là để phục vụ và kiếm lợi từ cái đảng ấy. Nhiệm vụ của công an là bảo đảm an toàn và an ninh cho xã hội và chỉ tuân theo luật pháp.
Giới lãnh đạo Việt Nam, ngay trong ngành công an, có lẽ cũng hiểu điều ấy. Nhưng họ vẫn nói, hơn nữa, nói một cách công khai, đàng hoàng và dõng dạc, thành khẩu hiệu. Để làm gì? Như một lời hứa, một sự cam kết đối với công an.
Bởi vậy, câu khẩu hiệu trên phản ánh không những tình trạng đảng trị và phi dân chủ mà còn cả sự mua chuộc của đảng Cộng sản đối với lực lượng công an. Điều này, thật ra, đã được nhiều người nêu lên: Hiện nay, đảng Cộng sản bảo vệ thế đứng độc tôn của mình trên chiếc kiềng ba chân: một là quân đội, hai là công an; và ba là nền kinh tế quốc doanh, qua đó, đảng có thể vơ vét tài sản quốc gia và phân phối lợi nhuận cho những người trung thành, kể cả hai lực lượng nòng cốt vừa nêu: công an và quân đội.
Tuy nhiên, theo tôi, câu khẩu hiệu “còn đảng còn mình” không chỉ giới hạn trong lực lượng công an. Nó còn là nếp tư duy chung của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong giới lãnh đạo, nhất là trong quan hệ với những thử thách họ đang đối đầu.
Nói một cách vắn tắt, ít nhất cho đến thời gian gần đây, trước khi vụ giàn khoan HD-981 bùng nổ, tất cả những toan tính chiến lược của nhà cầm quyền Việt Nam không phải là bảo vệ đất nước mà, trước hết, bảo vệ quyền lực và quyền lợi của chính họ; và vì những quyền lực và quyền lợi ấy gắn bó với sự tồn tại, hơn nữa, tồn tại một cách độc tôn của đảng Cộng sản, do đó, hệ quả là, mọi người cứ lo chăm chắm bảo vệ đảng dù cái giá phải trả có khi là mất đi một phần lãnh thổ hay lãnh hải.
Có lẽ sự chọn lựa ấy được định hình thành chính sách sau cuộc hội nghị ở Thành Đô giữa giới lãnh đạo Việt Nam và giới lãnh đạo của Trung Quốc, ở đó, Việt Nam công nhận Trung Quốc là lãnh tụ độc nhất của khối xã hội chủ nghĩa, thay thế vị trí của Liên Xô trước đó; và Việt Nam thề thốt trung thành với con đường xã hội chủ nghĩa; điều đó cũng có nghĩa là trung thành với Trung Quốc.
Không phải chỉ trong lời nói. Việt Nam thành thực tuân theo các thỏa thuận ấy, xem Trung Quốc như một đồng chí tốt, hơn nữa, một thứ đàn anh tốt. Sự thành thực ấy không chỉ phản ánh trong lời nói, ở các diễn văn cũng như các khẩu hiệu tuyên truyền. Nó còn thể hiện qua việc làm: lúc nào cũng đề cao và nhường nhịn Trung Quốc. Hơn nữa, họ còn hết lòng tin tưởng Trung Quốc. Theo dõi ngân sách của Việt Nam cho lãnh vực quốc phòng, giới quan sát chính trị thế giới nhận ra một điểm đặc biệt: Việt Nam chỉ bắt đầu hiện đại hóa quân đội Việt Nam chỉ từ năm 2004, tức là 14 năm sau hội nghị Thành Đô, khi âm mưu xâm lấn của Trung Quốc đã quá rõ rệt và khi dân chúng đã quá bức xúc trước những âm mưu xâm lấn đó.
Ngoài ngân sách, sự tin cậy và lệ thuộc vào Trung Quốc cũng thể hiện rất rõ qua vô số cách hành xử của giới lãnh đạo Việt Nam, ví dụ, trong việc thả lỏng cho Trung Quốc muốn làm gì thì làm, từ việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên đến việc thuê dài hạn rừng núi, ngay cả ở những khu vực có vị trí chiến lược về quân sự, việc nhắm mắt để công nhân Trung Quốc ào ạt sang làm việc một cách trái phép, việc để cho người Trung Quốc di trú và hoạt động bất hợp pháp ở những nơi được xem là hiểm yếu của Việt Nam như hải cảng quân sự Cam Ranh, việc để cho các công ty Trung Quốc thành công trong phần lớn các cuộc đấu thầu liên quan đến các dự án có tầm vóc quốc gia, việc lơ đễnh để báo chí, bản đồ, thậm chí, cả sách giáo khoa, thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của… Trung Quốc, v.v…
Không ai bày tỏ quan điểm bảo vệ đảng bằng mọi giá như Trần Đăng Thanh, đại tá, giáo sư tiến sĩ, thuộc Học viện chính trị Bộ quốc phòng. Phát biểu trước các cán bộ lãnh đạo trong ngành giáo dục vào tháng 12 năm 2012, ông Thanh thể hiện tư tưởng ghét Mỹ và bài Mỹ qua nhận định “Người Mỹ chưa hề, chưa từng và không bao giờ tốt thật sự với chúng ta cả”. Ngược lại, với Trung Quốc, ông nhấn mạnh: “Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc”. Cuối cùng, ông kêu gọi mọi người hãy trung thành với Đảng với lý do thiết thực: “Hiện nay các đồng chí đang công tác chưa có sổ hưu nhưng trong một tương lai gần hoặc một tương lai xa chúng ta cũng sẽ có sổ hưu và mong muốn mỗi người chúng ta sau này cũng sẽ được hưởng sổ hưu trọn vẹn”. Nói một cách đơn giản: Nếu đảng còn thì sổ hưu của các “đồng chí” còn!
Những người chủ trương trang Bauxite Việt Nam phải thốt lên một lời nhận định đầy cay đắng: “Chưa bao giờ những lời rao giảng về lý tưởng xã hội chủ nghĩa lại 'thực dụng' đến như thế và cũng... thảm thiết đến như thế!”
Chính cách tư duy “còn đảng còn mình” và “còn đảng còn sổ hưu” ấy chi phối thái độ và chính sách của đảng Cộng sản Việt Nam đối với Trung Quốc: Cho dù lấn hiếp Việt Nam đến mấy thì Trung Quốc cũng vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa; Việt Nam chỉ cần nhường nhịn Trung Quốc là có thể bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, nghĩa là bảo vệ vị thế lãnh đạo độc tôn của đảng Cộng sản. Chúng cũng chi phối thái độ và chính sách của Việt Nam đối với Mỹ và Tây phương nói chung: Các quốc gia ấy lúc nào cũng đòi hỏi dân chủ và nhân quyền tức là lúc nào cũng âm mưu “diễn tiến hòa bình” để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Mà tất cả những kẻ nào có ý định lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa đều bị xem là “lực lượng thù nghịch”.
Nói cách khác, dưới mắt giới lãnh đạo Việt Nam, những kẻ bị xem là “thù nghịch” không phải là những kẻ mưu toan lấn chiếm vùng biển và hải đảo Việt Nam mà chính là những kẻ muốn Việt Nam được dân chủ hóa. Nói cách khác nữa, với họ, việc bảo vệ đảng quan trọng hơn việc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải.
Dân chúng hiểu rõ điều đó cho nên lâu nay vẫn truyền tụng một câu nói thật thông minh và sắc sảo, thể hiện thế lưỡng nan của nhà cầm quyền Việt Nam: “Đi với Trung Quốc thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng.” Mà hình như không phải là “lưỡng nan”. Bởi không chừng nhà cầm quyền Việt Nam đã có chọn lựa rõ ràng: “Thà mất nước hơn là mất đảng”, cũng theo cách nói của dân chúng.
Hy vọng sau biến cố giàn khoan HD-981, giới lãnh đạo Việt Nam sẽ thức tỉnh.
Chỉ hy vọng vu vơ vậy thôi chứ cho đến nay cũng chưa thấy có dấu hiệu nào về sự thức tỉnh ấy cả. Buồn.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment