From: amiee hoang <>
Date: 2014-09-08 10:19 GMT-07:00
Subject: Fw: HL8406 Audio-Youtube Ngày 2-9-1945 HCM Tuyên Bố "Độc Lập" Dẫn Đến Thảm Họa Mất Nước Hôm Nay - LS Nguyễn Hữu Thống
To: "8406news ." <>
Date: 2014-09-08 10:19 GMT-07:00
Subject: Fw: HL8406 Audio-Youtube Ngày 2-9-1945 HCM Tuyên Bố "Độc Lập" Dẫn Đến Thảm Họa Mất Nước Hôm Nay - LS Nguyễn Hữu Thống
To: "8406news ." <>
On Monday, September 8,
2014 9:28 AM, Ben Tran <l> wrote:
Diễn Ðàn Yểm Trợ Khối 8406 & Phong Trào Dân Chủ
Việt Nam
Tranh Ðấu Cho Nền Dân Chủ Pháp Trị,Tôn Trọng Nhân
Quyền & Sự Toàn Vẹn Lãnh Thổ
Audio-Youtube
Chủ Nhật Sept 7, 2014
Chủ Đề
Ngày 2-9-1945 Hồ Chí Minh Tuyên Bố "Độc Lập"
Dẫn Tới Thảm Họa Mất Nước Hôm Nay
"Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp
nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như
Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….Phía Trung Quốc đồng ý và
đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên"
(Trọng tâm Hội Nghị Bán
Nước Tại Thành Ðô - 1990)
Diễn Giả
LS Nguyễn Hữu Thống – Nhà Nghiên Cứu Lịch Sử VN
- Tác Giả Kỷ Nguyên Hậu Cộng Sản
Trân trọng,
Lac Viet
Thông Tin Cập Nhật, Mời Quý Vị tham khảo
DUYỆT LẠI SỰ THẬT LỊCH SỬ
Luật Sư NGUYỄN HỮU THỐNG
Theo sử sách của Đảng
Cộng Sản, ngày 11-11-1945 Hồ Chí Minh giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương và ngày
3-9-1969 Hồ Chí Minh về chầu tổ Mác-Lê.
Ngày nay sự thật lịch sử cho biết Đảng Cộng Sản Đông Dương
không tự giải tán năm 1945, và Hồ Chí Minh đã về chầu tổ Mác- Lê ngày hôm
trước, 2 tháng 9, 1969.
Cũng vào ngày 2 tháng 9 (1945) Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn
Độc Lập.
Thực ra Việt Nam chưa độc lập năm 1945. Và ngày 2 tháng 9
không phải là Ngày Quốc Khánh. Chiếu Công Pháp Quốc Tế, Việt Nam chỉ thâu hồi
chủ quyền độc lập ngày 8 tháng 3, 1949 do Hiệp Định Elysee. Trong năm này, 11
quốc gia khác tại Á Châu cũng giành được độc lập bằng đường lối chính trị và
ngoại giao, không bạo động võ trang và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.
Tháng hai năm 2000, nhà cầm quyền Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm
70 năm thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong dịp này họ viện dẫn những
thành quả đã đạt được trong nửa thế kỷ vừa qua, và tự ban cho mình tư cách độc
quyền lãnh đạo quốc gia từ trước tới nay và từ nay về sau.
Gạt bỏ mọi thành kiến và mọi luận điệu tuyên truyền, chúng ta chỉ
căn cứ vào những tài liệu lịch sử và những văn kiện pháp lý để đưa ra những
nhận định liên quan đến chủ trương đường lối của Đảng Cộng Sản.
Dưới
chiêu bài giải phóng dân tộc, Đảng Cộng Sản chủ trương đấu tranh bạo động võ
trang, vọng ngoại và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trên bình diện dân tộc
đây là một sai lầm chiến lược khiến 3 triệu thanh niên nam nữ thuộc 3 thế hệ
phải hy sinh xương máu trong 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương:
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất chống Pháp và Quốc Gia Việt
Nam trong 8 năm (l946-l954)
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai chống Thế Giới Dân Chủ (Việt
Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Đồng Minh) trong 20 năm (l955-l975); và
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba tự chống lẫn nhau trong
10 năm, chiến tranh Miên Việt kết thúc năm 1989 do sự can thiệp của Liên Hiệp
Quốc.
Trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á
Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương đã
đấu tranh bạo động võ trang và liên kết với Quốc Tế Cộng Sản. Trái lại, tất cả
11 quốc gia khác đã đấu tranh ôn hòa, hợp tác và thương nghị với đế quốc cũ để
giành tự trị trong giai đoạn đầu và độc lập trong giai đoạn sau. Cũng vì vậy họ
đã tiết kiệm được nhiều hy sinh xương máu và thời gian giành độc lập được rút
ngắn còn từ 1 đến 4 năm sau Thế Chiến II, thay vì 40 năm như trường hợp Việt
Nam.
Năm 1919 tại Hội Quốc Liên (tổ chức tiền thân của Liên
Hiệp Quốc), Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đề xướng quyền Dân Tộc Tự Quyết để
khuyến cáo các Đế Quốc Tây Phương từng bước trả tự trị và độc lập cho các thuộc
địa Á Phi. Từ đó trào lưu tiến hóa tất yếu của lịch sử là sự giải thể tiệm tiến
của các Đế Quốc Tây Phương. Cũng trong năm này Đế Quốc Anh đã trả chủ quyền độc
lập cho Canada tại Bắc Mỹ và A Phú Hãn tại Nam Á.
Năm 1941, khi Thế Chiến II còn đáng tiếp diễn, theo đề
nghị của Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, các Đế Quốc Tây Phương Anh Mỹ
Pháp Hòa Lan đã hội nghị tại Newfoundland Canada để công bố Hiến Chương Đại Tây
Dương theo đó các thuộc địa và bảo hộ sẽ được trao trả độc lập khi Chiến Tranh
kết thúc.
Mùa xuân 1945, với sự đầu
hàng của Đức Quốc Xã, 50 quốc gia đồng minh họp Hội Nghị San Francisco để thành
lập Liên Hiệp Quốc và ban hành Quyền Dân Tộc Tự Quyết trong Điều Thứ Nhất và
Điều 55 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Trung thành với Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc 1945, trong 4 năm, từ 1946 đến 1949, các Đế Quốc Tây
Phương Mỹ Anh Pháp Hòa Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12 thuộc
địa Á Châu:
Độc
lập năm l946: Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ, Syrie và Liban thuộc Pháp.
Độc
lập năm l947: Ấn Độ và Đại Hồi thuộc Anh.
Độc lập năm l948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine thuộc
Anh.
Độc lập năm l949: Việt Nam, Ai Lao, Cao Miên
thuộc Pháp, và Nam Dương thuộc Hoà Lan.
Như vậy lịch sử đã chứng minh rằng,
tại Á Châu, đấu tranh không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản là
đường lối khôn ngoan và hữu hiệu nhất để giành tự trị và độc lập cho quốc gia.
Ngược lại, đứng vào hàng ngũ Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh võ trang nhằm lật đổ
các Đế Quốc Tây Phương là một sai lầm chiến lược. Vì đây không phải là chiến
tranh giành độc lập mà là chiến tranh ý thức hệ giữa Quốc Tế Cộng Sản và
Thế Giới Dân Chủ. Kinh nghiệm dân gian cho biết nơi nào trâu bò húc nhau
thì ruồi muỗi chết: 3 triệu thanh niên nam nữ tại Triều Tiên, 3 triệu tại Việt
Nam, 2 triệu tại Miên Lào và 1 triệu tại A Phú Hãn đã hy sinh thân sống, không
phải để giành độc lập cho quốc gia, mà để cho Đảng Cộng Sản cướp chính quyền.
CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP
Trung thành với chủ nghĩa Quốc Tế Vô Sản, Đảng Cộng
Sản Đông Dương phủ định chủ nghĩa dân tộc. Họ không chủ trương đấu tranh giành
độc lập vì quốc gia dân tộc và không quan niệm độc lập quốc gia như một cứu cánh
tối hậu, một mục tiêu chiến lược phải tranh thủ với bất cứ giá nào, với bất cứ
hy sinh nào, kể cả việc hy sinh những quyền lợi riêng tư của đảng phái. Lịch
sử đã chứng minh rằng Đảng Cộng Sản chỉ sử dụng cuộc đấu tranh giành độc lập như
một chiêu bài, một chiến thuật để đạt mục tiêu chiến lược là Cướp Chính
Quyền. Họ đã chống đối và phá hoại bất cứ giải pháp độc lập nào không cho
họ độc quyền lãnh đạo quốc gia.
Tại Pháp, tháng 3, l947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier
và Hội Đồng các Chính Đảng (lãnh
đạo Quốc Hội gồm cả Đảng Xã Hội và Đảng Cộng Sản ) công bố Quyết Nghị về chính
sách mới của Pháp tại Việt Nam theo đó Pháp không chủ trương tái lập thuộc địa
tại Á Châu. Pháp tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc
lập và thống nhất (ba miền cùng chung một lịch sử, một chủng tộc, một văn
hóa và một ngôn ngữ).
Đặc biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi ký Hiệp
Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đã chính thức đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc
lập tại Liên Hiệp Quốc.(1) (Everyone’s United Nations, ấn bản năm 1986, trang
332).
Chủ quyền độc lập của Việt Nam được thừa nhận bởi Hiệp Định Élysée
ngày 8-3-1949 ký kết giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại.
Hiệp
Định Élysée là một văn kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử ngoại giao của các
quốc gia văn minh trên thế giới. Thông thường các hiệp ước và hòa ước quốc tế
đếu do các ngoại trưởng ký. Riêng Hiệp Định Élysée đã được chính Tổng Thống
Vincent Auriol tự tay ký, với sự kiến thị của Thủ Tướng Henry Queille, của ngoại
Trưởng Schuman, của Bộ Trưởng Quốc Phòng Ramadier và Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải
Ngoại Paul Coste-Floret. Từ đó, chiếu công pháp quốc tế, Việt Nam được hòan
toàn độc lập, các hiệp ước thuộc địa và bảo hộ ký với Pháp trong hậu bán thế kỷ
19 đã bị Hiệp Định Élysée bãi bỏ.
Cũng trong
năm l949 Trung Cộng đã dùng võ trang thôn tính lục địa Trung Hoa. Theo sách
lược của Quốc Tế Cộng Sản, việc cộng sản hóa Trung Hoa sẽ mở đầu cho việc nhuộm
đỏ hai bán đảo Đông Dương và Trìêu Tiên. Trước nguy cơ này, các cường quốc Tây
Phương chủ trương giữ vững Việt Nam trong hàng ngũ Thế Giớí Dân Chủ chống lại âm
mưu thôn tính của Quốc Tế Cộng Sản.
Chiếu Hiệp Định Elysée tháng 3, 1949, Việt Nam là một quốc
gia liên kết với Pháp trong tổ chức Liên Hiệp Pháp nên giữa Việt Nam và Pháp có
nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Nay Quốc Gia Việt Nam bị đe doạ về an
ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm), nên Pháp có nghiã
vụ phải mang quân hay điều quân để bảo vệ biên thùy của Việt Nam đồng thời là
biên thùy của Liên Hiệp Pháp và của Thế Giới Dân Chủ.
Mặc dầu vậy Đảng Cộng Sản đã phủ nhận nền độc lập này.
Họ tiếp tục chiến đấu võ trang để được độc quyền yêu nước và độc quyền lãnh đạo
quốc gia.
Để vận động toàn dân tham gia kháng chiến, Đảng Cộng
Sản tuyên truyền rằng Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập chế độ thuộc
địa. Do đó họ phải chiến đấu võ trang chống Pháp để giành lại độc lập cho quốc
gia.
Đây là một luận điệu tuyên truyền xuyên tạc. Vì từ năm 1947
các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp đã quyết định không tái lập chế độ
thuộc địa tại Á Châu và tán thành nguyện vọng độc lập của nhân dân Việt Nam.
Trước đó, năm 1946, Pháp đã trả độc lập cho Syrie và Liban theo chủ trương của
Hiến Chương Đại Tây Dương 1941 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1945.. Và trong
năm 1947, như đã trình bầy, Pháp đã đăng ký Việt Nam là một quốc gia độc lập
tại Liên Hiệp Quốc. Tháng 3, 1949, bằng Hiệp Định Elysée, Tổng Thống và Quốc
Hội Pháp đã chính thức thừa nhận chủ quyền độc lập và thống nhất của Quốc Gia
Việt Nam.
CUỘC THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
Năm l975 Đảng Cộng Sản
không có công thống nhất đất nước. Vì theo quốc tế công pháp, Quốc Gia Việt Nam
đã được độc lập và thống nhất từ năm l949 chiếu Hiệp Định Élysée ngày 8-3-l949.
Một tháng rưỡi sau, chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết,
ngày 23-4-l949, Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị để
sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống nhất (với 45
phiếu thuận và 6 phiếu chống).
Tuy nhiên Đảng Cộng Sản đã phủ nhận nền độc lập này và
đã phá hoại nền thống nhất này. Vì Hiệp Định Élysée không cho họ độc quyền lãnh
đạo quốc gia. Do đó họ vẫn tiếp tục chiến đấu võ trang và đã ký Hiệp Định
Genève chia đôi đất nước để cướp chính quyền tại Miền Bắc năm l954. Và rồi, với
sự yểm trợ của Quốc Tế Cộng Sản, họ lại tiếp tục chiến đấu võ trang để thôn
tính Miền Nam năm l975.
Kể từ năm 1955, Đảng Cộng Sản tuyên truyền rằng Mỹ đã
thay thế Pháp để thống trị Miền Nam. Do đó họ phải chiến đấu chống Mỹ để giải
phóng Miền Nam và thống nhất đất nước. Đây cũng là một luận điệu tuyên truyền
xuyên tạc. Vì quân đội Hoa Kỳ chiến đấu tại Triều Tiên và Việt Nam không phải
để thống trị hai quốc gia này mà để bảo vệ biên thùy của Thế Giới Dân Chủ.
Tấm bản đồ Việt Nam ông cha chúng ta đã đổ bao xương
máu để tạo lập nên hồi đầu thế kỷ 19. Sau này, vì yếu thế, chúng ta phải nhượng
cho Pháp 6 tỉnh Miền Nam. Năm 1949 đồng bào Miền Nam đã hành sử quyền dân tộc
tự quyết để thâu hồi chủ quyền lãnh thổ và bồi đắp tấm bản đồ từ Nam Quan đến
Cà Mâu. Tuy nhiên, bằng chiến tranh võ trang, Hồ Chí Minh đã cầm tay xé đôi tấm
bản đồ năm 1954 để cướp chính quyền tại Miền Bắc. Và rồi, năm 1975, cũng bằng
chiến tranh võ trang, Đảng Cộng Sản đã cướp chính quyền tại Miền Nam. Rồi họ
lấy băng keo dán 2 mảnh dư đồ lại và tuyên bố rằng: “Đảng Cộng Sản có công
thống nhất đất nước!
Chúng ta đưa ra những nhận định này trên cương vị
người nghiên cứu sử học và luật học, chứ không với tư cách cán bộ tuyên truyền
cho một chủ thuyết hay một chế độ chính trị nào.
CÁC PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TẠI Á CHÂU
Muốn có cái nhìn khách quan và trung thực, chúng ta
hãy đối chiếu công cuộc đấu tranh giành độc lập tại Việt Nam với các phong trào
giải phóng dân tộc khác tại Á Châu.
Sau Thế Chiến II, trong số 14 nước thuộc địa, bảo hộ
và giám hộ tại Á Châu, chỉ có 3 nước Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Đông Dương là đã đấu tranh võ trang, bạo động và liên kết với Quốc Tế Công
Sản. Trái lại các đảng quốc gia tại 11 nước Á Châu khác đã chủ trương đấu tranh
ôn hòa, không bạo động và không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.
Một năm sau Thế Chiến II, từ l946 đến l949, tất cả các đế
quốc Tây Phương như Mỹ, Pháp, Anh và Hoà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc
lập cho 12 nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ tại Á Châu.
1946: Phi Luật Tân độc lập
Hoa Kỳ đi tiền phong trong cuộc giải phóng thuộc địa.
Nguyên là một cựu thuộc địa, Hoa Kỳ có truyền thống đấu tranh giải phóng dân
tộc. Nhân dân Hoa Kỳ có cảm tình với những phong trào đấu tranh giành độc lập
của các dân tộc Á Phi.
Đầu thập niên 1930, Luật Sư Quezon, lãnh tụ Đảng Quốc
Gia Phi Luật Tân đến Hoa Thịnh Đốn vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự
trị và độc lập cho Phi Luật Tân. Năm l934 Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật
Tydings-McDuffie Act công nhận Phi Luật Tân là một quốc gia tự trị
(dominion) từ 1935. Trong đạo luật này có khỏan quy định rằng, 10 năm sau,
đúng Ngày Quốc Khánh Hoa Kỳ (4 tháng 7, 1945) Phi Luật Tân sẽ được hoàn toàn
độc lập. Tuy nhiên tới ngày đó, Chiến Tranh Thái Bình Dương chưa kết thúc, nên
Phi Luật Tân chỉ được tuyên bố độc lập ngày 4-7-1946 (trễ một năm vì lý do
chiến cuộc).
Trong thời chiến tranh, Luật Sư Quezon được mời tham
gia Ủy Ban Chiến Tranh vùng Thái Bình Dương, và người phụ tá của ông, Luật Sư
Roxas hoạt động tình báo cho Tướng McArthur. Khẩu hiệu đấu tranh của Đảng Quốc
Gia Phi Luật Tân là “Độc Lập do Hợp Tác” (Independence through
Cooperation).
1946: Syrie và Liban độc lập.
Nếu Hoa Kỳ có truyền
thống đấu tranh giải phóng dân tộc, thì Pháp cũng là quốc gia có truyền thống
Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái tiến bộ nhất trong lịch sử loài người.
Tại Syrie và Liban, lãnh đạo phong trào giải phóng dân
tộc là Đảng Nhân Dân tại Syrie và Luật Sư Dabbas tại Liban. Dabbas đã từng du
học tại Paris, nơi đây ông hay biết rằng, bên cạnh các đảng bảo thủ chủ trương
duy trì thuộc địa còn có Đảng Xã Hội Pháp chủ trương giải phóng lao động và
giải phóng thuộc địa.
Năm 1936 Mặt Trận Bình Dân nắm chính quyền, Thủ Tướng
Xã Hội Léon Blum ký hiệp ước với Syrie và Liban để trả tự trị cho 2 quốc gia
này. Và 10 năm sau, năm 1946 quân đội Liên Hiệp Pháp triệt thoái để trả độc lập
cho Syrie và Liban (Thời gian này tại Trung Đông chưa có nguy cơ xâm nhập của
Staline).
1947: Ấn Độ và Đại Hồi độc lập.
Sau các Đế Quốc
Hoa Kỳ và Pháp, đến lượt Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể. Tới Thế Chiến II, Anh
Quốc đã thành lập được một đế quốc hùng mạnh nhất từ cổ chí kim chạy từ Bắc Mỹ
qua Âu Châu, Phi Châu, Á Châu và Úc Châu. Người Anh thường tự hào nói: “Mặt
trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh”. Vậy mà 2 năm sau Thế Chiến II, năm
1947, Đế Quốc Anh bắt đầu tự giải thể.
Tại Ấn Độ, 3 nhà lãnh đạo phong trào giải
phóng dân tộc là các Luật Sư Gandhi, Nehru và Jinnah. Các vị này đã từng du học
tại Anh, nơi đây họ hay biết rằng, bên cạnh Đảng Bảo Thủ chủ trương duy trì
thuộc địa, còn có Đảng Lao Động Anh chủ trương giải phóng lao động và giải
phóng thuộc địa như Đảng Xã Hội Pháp.
Năm 1947 Thủ Tướng Lao Động Clement Attlee trả độc lập
cho Ấn Độ và Đại Hồi, và qua năm sau, 1948, trả độc lập cho Miến Điện, Tích Lan
và Palestine, mặc dầu mọi phản kháng của Churchill, lãnh tụ Đảng Bảo Thủ.
Khác với Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng Quốc Hội Ấn Độ
chủ trương đấu tranh công khai, ôn hòa, hợp pháp, không bạo động, không vọng
ngoại và nhất là không liên kết với Quốc Tế Cộng Sản.
Với một dân số quá đông (gần 400 triệu, so với 20
triệu ở Việt Nam năm 1945), trong một xã hội lạc hậu, nghèo đói, thất học, với
những mâu thuẫn trầm trọng về tôn giáo, chủng tộc, ngôn ngữ, đẳng cấp và giai
cấp, cuộc đấu tranh tại Ấn Độ 10 lần khó hơn tại Việt Nam. Vậy mà, dưới sự lãnh
đạo của Gandhi, Ấn Độ đã giành được độc lập 2 năm sau Thế Chiến II, trong khi
dân tộc ta đã phải hy sinh xương máu ròng rã trong 40 năm.
1948: Miến Điện, Tích Lan và Palestine độc lập.
Người anh hùng dân tộc Miến Điện là Aung San (thân phụ
bà Aung San Suu Kyi hiện lãnh đạo phong trào Dân Chủ tại Miến Điện). Cũng như
Gandhi, Aung San tình nguyện chiến đấu trong Quân Đội Hoàng Gia
Anh. Cùng với U Nu, ông thành lập Liên Đoàn Nhân Dân Tự Do Chống Phát Xít để
hợp tác với Đế Quốc Anh, chống Nhật...
Năm l948 Miến Điện được trao trả độc lập.
Tại Tích Lan Hiến Pháp năm l931 ấn định thời gian tập
sự tự trị là 15 năm. Với chủ trương “Thiện Chí và Hợp Tác” (Good Will
and Cooperation), Đảng Quốc Gia Tích Lan đã giành được tự trị năm l945 và độc
lập năm l948. Cũng trong năm này Palestine thoát quyền giám hộ của Đế Quốc Anh.
1949: Nam Dương độc lập.
Sau các Đế Quốc Mỹ, Pháp, Anh đến lượt Đế Quốc Hoà Lan
tự giải thể năm l949. Phong trào giải phóng dân tộc Nam Dương được phát động bởi
giới trí thức du học Hòa Lan. Trong khi Đảng Cộng Sản theo sách lược bạo động
võ trang thì Đảng Quốc Gia Nam Dương chủ trương đấu tranh ôn hòa bất bạo
động bằng canh tân và giáo dục. Sukarno lập Câu Lạc Bộ Văn Hoá Bandung và
Hatta lập Hội Giáo Dục Quốc Gia Nam Dương để nâng cao dân trí và chấn hưng dân
khí. Hatta du học 10 năm tại Hoà Lan và Luật Sư Sjahrir đã từng gia nhập Đảng
Lao Động Hoà Lan trong thời gian du học.
Năm 1942 Nhật chiếm đóng Nam Dương, Sukarno hợp tác
với Nhật. Tháng 8, l945 Nhật đầu hàng Đồng Minh, Sukarno tuyên bố Nam Dương độc
lập. Nhưng rồi quân đội Hòa Lan theo chân quân đội Anh sang giải giới quân đội
Nhật, Sukarno chủ trương thương nghị với Hoà Lan.
Trong những năm l946 và l948, Đảng Cộng Sản Nam Dương
phát động chiến đấu võ trang để phá thương nghị. Thời gian này nước láng giềng
Phi Luật Tân đã được độc lập. Tổng Thống Truman vận động Liên Hiệp Quốc áp lực
Hoà Lan phải hòa đàm với chính phủ Sjahrir. Lúc này Hoa Kỳ đang thực thi Kế
Hoạch Marshall để tái thiết Âu Châu thời hậu chiến nên tiếng nói của Hoa Kỳ có
trọng lượng đối với Hòa Lan. Hội Nghị Bàn Tròn La Haye được triệu tập dưới sự
bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Tháng 12-1949, do Hiệp Ước La Haye, Hoà Lan thừa
nhận chủ quyền độc lập của Nam Dương. (2)
STALINE THIẾT LẬP ĐẾ QUỐC SÔ VIẾT
Như vậy từ 1946 đến 1949 tất cả các đế quốc Tây
Phương như Mỹ, Pháp, Anh, Hoà Lan đã lần lượt tự giải thể để trả độc lập cho 12
thuộc địa Á Châu.
Trong khi đó tại Đông Âu Staline thiết lập Đế Quốc Sô
Viết bằng cách thôn tính 3 nước Baltic là Lithuanie, Lettonie và Estonie. Sau
đó Liên Xô dựng “Bức Màn Sắt” tại 7 nước Đông Âu là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp
Khắc, Đông Đức, Albanie, Bulgarie, và Roumanie. Từ đó, chiến tranh lạnh hay chiến
tranh ý thức hệ bộc phát giữa Quốc Tế Cộng Sản và Thế Giới Dân Chủ.
Các nhà lãnh đạo phe Thế Giới Dân Chủ như Truman,
Churchill và De Gaulle nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng Cộng
Sản Đông Dương vì họ không muốn Staline mở rộng bức màn sắt từ Đông Âu qua Đông
Á.
Riêng tại Việt
Nam, De Gaulle cũng nhất quyết không trao Nam Kỳ cho Hồ Chí Minh vì Nguyễn Ái
Quốc là cán bộ của Staline tại Đông Dương.
Cũng vì vậy hồi
tháng 12-1945 De Gaulle đã mời Cựu Hoàng Duy Tân từ đảo Réunion tới
Paris thương nghị.
Nhiều tài liệu lịch sử cho biết De Gaulle
đã chấp thuận trên nguyên tắc để Duy Tân về nước đầu năm l946. Trước đó, hai
bên sẽ ký một hiệp ước công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do và tự trị trong
Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Chính Phủ Việt Nam sẽ được toàn
quyền quản trị về mặt nội bộ. Tuy nhiên vì lúc này Đảng Cộng Sản đã cướp
chính quyền tại Miền Bắc, nên quân đội Pháp còn phải ở lại Việt Nam một thời
gian với tư cách quân đội Liên Hiệp Pháp để yểm trợ Việt Nam giải quyết các vấn
đề an ninh quốc nội (nội loạn) và an ninh quốc ngoại (ngoại xâm). Theo quy
chế Liên Hiệp Pháp, giữa Pháp và Việt Nam có nghĩa vụ an ninh hỗ tương. Do
đó quân đội Pháp có nghĩa vụ bảo vệ biên cương của Việt Nam, đồng thời là biên
cương của Liên Hiệp Pháp.
Rất tiếc là mùa Giáng Sinh 1945 Duy Tân đã tử nạn máy
bay trên sa mạc Trung Phi trên đường từ Paris về đảo Reunion thăm nhà. Nhiều
người cho đây là vụ phá hoại. Nguyên nhân phi cơ phát hỏa là vì ‘’hết săng’’.
Đây là một nguyên nhân hy hữu vì không một phi hành đoàn nào chịu cất cánh nếu
máy bay không chứa đủ săng nhớt.
Việc Duy Tân mất đi là một đại bất hạnh cho Việt Nam
cũng như cho Pháp. Vì nếu đầu năm l946 Duy Tân về nước lập chính phủ quốc gia
giành tự trị, độc lập và thống nhất cho Việt Nam thì chiến tranh Việt Pháp sẽ
có cơ tránh được. Hồ Chí Minh sẽ không còn được độc quyền yêu nước và có lẽ
chẳng còn ai muốn gia nhập Đảng Cộng Sản nữa (năm 1945 Đảng Cộng Sản chỉ
có 5 ngàn đảng viên).
Lúc này Đảng Cộng Sản Pháp đã thông báo cho Staline và
Hồ Chí Minh biết De Gaulle đã có giải pháp quốc gia về Việt Nam. Cũng vì vậy,
ngày 11- 11-1945, Hồ Chí Minh giả bộ giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Rồi thành lập chính phủ liên hiệp quốc gia với sự tham gia của Cách Mạng Đồng
Minh Hội (với Nguyễn Hải Thần) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (với Vũ Hồng Khanh và
Nguyễn Tường Tam) để làm bình phong thương nghị với Pháp.
Ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, nhân danh chính phủ liên
hiệp, Hồ Chí Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và chấp thuận mọi điều khỏan mà De
Gaulle đã thỏa thuận với Duy Tân: Việt Nam là một nước tự do và tự trị trong
Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. 15 ngàn quân Pháp được đồn trú
tại Bắc Kỳ trong thời hạn 5 năm.
Sau đó ngày 14-9-l946 tại Paris, Hồ Chí Minh đã đến
nhà riêng của Moutet để xin ký Thỏa Ước Tạm Thời (Marius Moutet là đồng chí cũ
trước khi Hồ Chí Minh bỏ đảng Xã Hội để gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp).
Tuy nhiên mặc dầu lúc này De Gaulle đã từ nhiệm, các
nhà lãnh đạo Thế Giới Dân Chủ vẫn nhất quyết không trao Đông Dương cho Đảng
Cộng Sản Đông Dương.
Theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản Hồ Chí Minh phát
động chiến tranh võ trang ngày 19-12-1946.
Bằng hành động gây chiến này Hồ Chí Minh đã vi phạm
Hiệp Ước Sơ Bộ Sainteny và Thỏa Ước Tạm Thời Moutet.
Do đó, 3 tháng
sau, tháng 3, 1947, Hội Đồng Chính Phủ Ramadier cùng Hội Đồng các Chính Đảng
Pháp công bố Quyết Nghị về chính sách mới của Pháp tại Việt Nam, theo đó Pháp
tán thành nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống
nhất.
Ngoài ra, cũng trong năm 1947 tại Liên Hiệp Quốc, Pháp
đã chính thức đăng ký 3 nước Đông Dương (Việt Miên Lào) là những quốc gia độc lập.
Như vậy từ năm
1947 Pháp đã quyết định trao trả độc lập và thống nhất cho Việt Nam và đã đăng
ký Việt Nam là một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc. (Sở dĩ Việt Nam không
được gia nhập Liên Hiệp Quốc vì gặp sự phản kháng của Liên Xô hành sử quyền phủ
quyết.)
Năm 1947, nếu Hồ
Chí Minh là người yêu nước, nếu Nguyễn Ái Quốc là nhà ái quốc biết đặt quyền
lợi quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi đảng phái, thì ông ta đã phải ngưng
chiến cho phe quốc gia có điều kiện hòa đàm và ký kết với Pháp một hiệp ước để
giành lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam.
Tuy nhiên Hồ Chí Minh không phải là người yêu nước,
Nguyễn Ái Quốc không phải là nhà ái quốc nên ông ta vẫn tiếp tục đẩy tới chiến
tranh võ trang để phá vỡ mọi giải pháp độc lập quốc gia.
Mặc dầu vậy các Chính Phủ Pháp kế tiếp vẫn trung thành
với Quyết Nghị của các Hội Đồng Chính Phủ và Chính Đảng Pháp năm 1947.
Tháng 12, 1947, Cao Ủy Bollaert ký Hiệp Ước Sơ Bộ
Vịnh Hạ Long với Quốc Trưởng Bảo Đại để thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt
Nam. Hiệp Ước Sơ Bộ này được chính thức hóa bởi Thông Cáo Chung
Vịnh Hạ Long tháng 6,1948 ký kết giữa Cao Ủy Bollaert và Chính Phủ
Quốc Gia Lâm Thời, với sự bối thự của Quốc Trưởng Bảo Đại. Theo Hiệp Ước này
Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của Việt Nam và Việt Nam được tự do tiến
hành thủ tục thực hiện thống nhất quốc gia chiếu nguyên tắc Dân Tộc Tự Quyết.
Và tại Điện Elysée (Paris) Tổng Thống Vincent Auriol,
nhân danh TổngThống Cộng Hòa Pháp và nhân danh Chủ Tịch Liên Hiệp Pháp, đã ký
với Quốc Trưởng Bảo Đại Hiệp Định Elysée ngày 8-3-1949 Công Nhận Việt Nam
Thống Nhất và Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp.
Do Quyết Nghị ngày 23-4-1949 Quốc Hội Nam Kỳ đã giải
tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam
độc lập và thống nhất.
Ngày 6-6-1949, theo thủ tục khẩn cấp, Quốc Hội Pháp
phê chuẩn Hiệp Định Elysée về khoản giao hoàn Nam Kỳ cho Quốc Gia Việt Nam.
Ngày 2-2-1950 Quốc Hội Pháp phê chuẩn toàn bộ Hiệp Định Elysée với 12 Phụ Ước
và 30 Đính Ước bổ túc. Cũng trong tháng này Hoa Kỳ, Anh Quốc và Thái Lan chính
thức thừa nhận Quốc Gia Việt Nam do Chính Phủ Bảo Đại đại diện.
Chúng ta không nên có thành kiến cho rằng gia nhập
Liên Hiệp Pháp là vi phạm chủ quyền quốc gia. Vì các nước Ấn Độ, Đại Hồi,
Canada, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan v...v... cũng là những quốc gia độc lập trong
Liên Hiệp Anh.
Về mặt an ninh quốc phòng, nếu năm 1949 Việt Nam không
gia nhập Liên Hiệp Pháp thì quân đội viễn chinh Pháp phải rút khỏi Việt Nam
(như tại Syrie và Liban năm 1946). Và chỉ trong một vài tuần lễ (như tại Nam
Hàn năm 1950), phe Quốc Tế Cộng Sản sẽ nhuộm đỏ toàn thể bán đảo Đông Dương.
Khách quan mà xét, năm 1949 độc lập trong Liên Hiệp
Pháp là giải pháp tối ưu cho Việt Nam. Chúng ta có thể sử dụng các chuyên viên
Pháp là những người am hiểu phong tục tập quán, biết rõ dân tình nước ta, lại
có những kinh nghiệm về khai thác nông lâm súc, công kỹ nghệ thương mãi, xây
cất cầu cống, đường sá, sông ngòi, hải cảng, cồn đảo ... Ngoài ra họ còn có thể
cố vấn chúng ta để xây dựng môt nền giáo dục phổ thông, một nền hành chánh hiện
đại và một nền tư pháp độc lập để tiến tới tam quyền phân lập và dân chủ pháp
trị.
Về mặt phát
triển chúng ta có sẵn thị trường Liên Hiệp Pháp để xuất cảng các hàng hóa và
các nông, lâm, khoáng sản ... Do đó, năm 1949, độc lập trong Liên Hiệp Pháp
là giải pháp tối ưu cho Việt Nam.
Nhưng rồi Đảng Cộng Sản đã đưa dân tộc ta vào con
đường chông gai chết chóc trong suốt 40 năm (từ 1949 đến 1989).
Đại hạnh của Ấn Độ là có Gandhi theo Chủ
Nghĩa Dân Tộc.
Đại bất hạnh của Việt Nam là có Hồ Chí Minh theo Chủ
Nghĩa Cộng Sản
HIỆP ĐỊNH ĐÌNH CHIẾN GENÈVE VÀ HIÊP ĐỊNH HÒA
BÌNH PARIS.
Chiến Tranh Đông Dương Thứ Nhất kết thúc bởi Hiệp Định
Đình Chiến Genève ngày 20-7-1954 (Geneva Armistice Agreement) giống Hiệp Định
Đình Chiến Bàn Môn Điếm ngày 27-7-l953 tại Triều Tiên (Panmunjom Armistice
Agreement).
Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần túy quân sự có
tác dụng “đình chiến và ấn định một giới tuyến quân sự tạm thời”. Tại vùng giới
tuyến thuộc quyền kiểm soát của quân đội bên nào thì chính quyền bên ấy phụ
trách việc quản trị hành chánh.
Vì là một hiệp ước quân sự, Hiệp Định Genève chỉ mang
chữ ký của 2 tướng lãnh: Đại diện Quân Đội Bắc Việt là Thiếu Tướng Tạ Quang Bửu
(là người đã ký cả 3 Hiệp Định Geneve với tư cách đại diện cho cả Kmer Đỏ và
Pathet Lào). Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương do Thiếu Tướng Henri
Delteil đại diện.
Vì không tham chiến ở Việt Nam nên Hoa Kỳ không ký vào
Hiệp Định Genève.
Quốc gia Việt Nam cũng không ký. Chiếu Hiệp Định
Elysée 1949, Việt Nam là một hội viên liên kết của Liên Hiệp Pháp. Khi có chiến
tranh, quân đội Việt Nam và quân đội Pháp sẽ cùng chiến đấu dưới danh nghĩa
quân đội Liên Hiệp Pháp. Một Bộ Tham Mưu Hỗn Hợp được thành lập với một tướng
lãnh Pháp làm tư lệnh hành quân và một tướng lãnh Việt Nam làm tham mưu trưởng.
Vì Hiệp Định Genève là một hiệp ước thuần tuý quân sự, nên về phía Liên Hiệp
Pháp chỉ cần có chữ ký của vị tư lệnh hành quân Henri Delteil là đủ.
Ngày hôm sau, 21-7-1954, một Bản Tuyên Ngôn Sau
Cùng khuyến cáo hai miền Nam Bắc tổ chức tổng tuyển cử năm l956. Tuy nhiên
tuyên ngôn không phải là hiệp ước. Vì đây chỉ là bản Tuyên Ngôn Ý
Định (declaration d’intention) không mang chữ ký của bất cứ
phái đoàn nào (kể cả Bắc Việt) nên không có giá trị pháp lý (Cũng
như các bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Bảo Đại ngày 11-3-1945, của Hồ Chí Minh ngày
2-9-1945 và của Sukarno ngày 17-8-1945).
Vả lại cũng trong ngày 21-7-1954, Ngoại Trưởng Quốc
GiaViệt Nam Trần Văn Đỗ và Trưởng Phái Đoàn Hoa Kỳ Bedell Smith đã ra tuyên cáo
minh thị phản kháng sự áp đặt các giải pháp chính trị trong một hiệp ước
quân sự, mà không có sự thỏa thuận của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam.
Hiệp Định Đình Chiến Genève, theo danh xưng, chỉ là
một bản hiệp ước thuần tuý quân sự để định ranh giới ngưng bắn theo một giới
tuyến (vĩ tuyến 38 tại Triều Tiên, vĩ tuyến 17 tại Việt Nam). Nó không
áp đặt những giải pháp chính trị. Vấn đề thống nhất Nam Bắc là một vấn đề chính
trị thuộc quyền dân tộc tự quyết sẽ do hai quốc gia ấn định sau này (như trường
hợp Triều Tiên: sau hơn 60 năm vẫn chưa có giải pháp chính trị). Do đó Việt Nam
Cộng Hoà không vi phạm Hiệp Định Genève khi khước từ tổng tuyển cử năm 1956.
Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 (Paris Peace Agreement)
trái lại, là một hiệp ước ngoại giao và có tác dụng chính trị. Trước hết về
mặt nghi thức nó mang chữ ký của các đại biểu các quốc gia hay chính phủ kết
ước:
Trần Văn Lắm, Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Hòa
Williams Roger, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
Nguyễn Duy Trinh, Ngoại
Trưởng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Nguyễn Thị Bình, Ngoại Trưởng Chính Phủ Lâm
Thời “Nước” Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam.
Điều 15 Hiệp Định Hòa Bình Paris quy định rằng: “Việc
thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hoà bình trên
căn bản thương nghị và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam, không bên nào cưỡng
ép bên nào, không bên nào thôn tính bên nào. Thời gian thống nhất sẽ do Miền
Bắc và Miền Nam đồng thỏa thuận” [theo nguyên tắc nhất trí]
Vậy mà hai năm sau, năm 1975, khi chữ ký của họ
còn chưa ráo mực, Bắc Việt phát động chiến tranh võ trang để thôn tính Miền
Nam. Hội trường đã nhường chỗ cho chiến trường, thương nghị thỏa thuận đã bị
bạo lực cưỡng chế, và phương pháp hòa bình đã bị chiến tranh võ trang xoá bỏ.
Đây là một vi phạm thô bạo Hiệp Định Hòa Bình Paris.
Luật pháp văn minh của loài người đã bị thay thế bởi
luật rừng xanh.
KẾT LUẬN
Nói tóm lại:
1) Phủ nhận chủ nghĩa dân tộc, Đảng Cộng Sản đã phạm sai lầm chiến
lược khi theo Quốc Tế Cộng Sản để đấu tranh bạo động võ trang khiến dân tộc ta
phải hy sinh xương máu ròng rã 40 năm.
2) Đảng Cộng Sản không có công giành độc lập năm 1954 vì Việt Nam đã
được độc lập từ 1949 chiếu Hiệp Định Elysée.
3) Đảng Cộng Sản không có công thống nhất đất nước năm 1975 vì
Việt Nam đã được thống nhất năm 1949 khi Quốc Hội Nam Kỳ biểu quyết giải tán
chế độ Nam Kỳ tự trị để sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ quốc gia Việt Nam độc
lập và thống nhất.
4) Trên bình diện dân tộc 3 cuộc Chiến Tranh Đông Dương là những cuộc
chiến tranh vô ích, vô lý và vô nghĩa.
5) Vì vậy Đảng Cộng Sản không có tư cách và không có tính chính thống
để độc quyền lãnh đạo quốc gia. Và chế độ CS phải được giải thể để người dân
được quyền mưu cầu hạnh phúc trong chế độ Dân Chủ Pháp Trị, trong đó các dân
quyền và nhân quyền được tôn trọng, kinh tế quốc gia được phát triển và công
bằng xã hội được thực thi.
CHÚ THÍCH
(1) Đặc biệt là, cũng trong năm 1947, sau khi ký
Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long, Pháp đã chính thức đăng ký
3 nước Đông Dương Việt Miên Lào là những quốc gia độc lập tại Liên Hiệp Quốc
(Everyone’s United Nations, ấn bản năm 1986, trang 332). Declaration on
decolonization. Date in parentheses shows the year of independence: Indochina
comprising Cambodia, Laos and Vietnam (1947)
(2) Hai quốc gia
còn lại Mã Lai và Tân Gia Ba trong Liên Bang Mã
Lai Á. Năm 1948 Đảng CS Mã Lai lập chiến khu
chiến đấu võ trang. Để dẹp nội loạn, chính phủ Anh ban hành tình trạng thiết
quân luật. Từ năm 1952 Đảng Quốc Gia Mã Lai đưa ra chủ trương “độc lập do hợp
tác chủng tộc” kết hợp các sắc dân Mã Lai, Trung Hoa và Ấn Hồi. Luật Sư Abdul
Rahman đã từng làm phó chưởng lý tại Anh. Abdul Razah phục vụ trong quân đội
Hoàng Gia Anh thời Thế Chiến Hai. Sau 5 năm tự trị, Mã Lai được độc lập năm
1957.
Năm 1965 đến lượt Tân Gia Ba được giải phóng do
chủ trương ‘’độc lập nhờ liên lập’’ (với Mã Lai trong Liên Bang Mã Lai Á). Luật
Sư Lý Quang Diệu đã từng gia nhập Luật Sư Đoàn Luân Đôn và Đảng Lao Động Anh
trong thời gian du học. (In 1963 Singapore joined The Federation of Malaya.
Singapore became independent in 1965.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment