Sự khác nhau giữa
người Việt Nam và người Nhật
Thứ bảy, 06/09/2014,
22:44 (GMT+7)
(Kinh tế) - Trước đây do công việc
tôi có dịp đi Nhật nhiều lần cũng như đi nhiều nước khác trên thế giới.
Nước
Nhật không phải là nước mà tôi thích đến nhất (có thể vì đắt đỏ quá) nhưng đó
là đất nước mà tôi nể phục nhất – không chỉ phục ở những thành tựu của sự văn minh,
những công trình kiến trúc tuyệt mỹ mà còn ở yếu tố con người.
·
>> Cả xứ Việt Nam
mình không ở đâu có bán thứ này…
·
>> Bình Dương nói
gì về khối tài sản ‘khủng’ của Chủ tịch tỉnh?
·
>> Đầu tư vào Đông
Nam Á hấp dẫn hơn Trung Quốc
·
>> Bị tố trục lợi
tiền của khách, Indochina Land là ai?
·
>> 2 sự cố đáng xấu
hổ của cầu lông Việt Nam
Kể từ
đó tôi luôn tò mò tìm hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của các con cháu Thái
Dương Thần Nữ.
Người dân xếp hàng mua thực phẩm ba ngày sau
thảm họa
Càng biết thêm về họ tôi càng phục họ hơn. Đó là
một dân tộc có nhiều điểm rất đặc biệt. Một dân tộc luôn tự hào về những giá
trị truyền thống nhưng khi cần cũng sẵn sàng dứt bỏ những gì đã lỗi thời. Một
dân tộc mang niềm kiêu hãnh lớn lao nhưng đồng thời cũng luôn biết học hỏi cái
hay của người khác.
Một dân tộc đã từng đánh bại các đế quốc Mông
Cổ, Trung Hoa và Nga Sô nhưng cũng biết nuốt cái nhục bại trận để vươn lên
thành một cường quốc kinh tế. Một dân tộc ít khi ồn ào lớn tiếng, và luôn xem
trọng sự ngăn nắp sạch sẽ. Nhưng đặc biệt hơn cả – đó là một dân tộc chưa bao
giờ biết đầu hàng trước nghịch cảnh.
Tôi nhớ trước đây có đọc một bài viết của một
người Việt sống lâu năm tại Nhật, quên mất tên tác giả, trong đó ông có nêu ra
một chi tiết để phân biệt giữa người Nhật bản địa và người ngoại quốc sống ở
Nhật – đó là nhìn qua cách phơi quần áo. Người ngoại quốc phơi lung tung, còn
người Nhật phơi theo thứ tự, quần theo quần, áo theo áo….
Đúng như nhà văn Haruki Murakami đã nhận định:
“Người Nhật là kho tàng của nước Nhật”. Tôi rất cám ơn đất nước này vì chính
người Nhật đã cho tôi một niềm tin rằng bất cứ một đất nước nào, dù nhỏ, dù bị
bất lợi về địa lý, tài nguyên… nhưng nếu dân tộc đó có một nhân sinh quan đúng
đắn thì vẫn có thể trở thành một dân tộc giàu mạnh.
Thiên tai động đất và sóng thần xảy ra ở Nhật
cách đây 2 tháng, mặc dầu những tin tức liên quan đến biến cố này không còn
được nhắc đến nữa, nhưng đối với những người Việt Nam còn quan tâm đến đất nước
thì những dư âm của nó vẫn còn để lại nhiều vương vấn suy tư.
Cùng là hai nước nhỏ ở Á Châu nhưng định mệnh
nào đã đưa đẩy hai dân tộc khác biệt nhau quá xa. Một dân tộc mà mỗi khi nhắc
tới, từ Đông sang Tây, đều phải ngã mũ bái phục, còn dân tộc kia thì ít khi
được nhắc đến, hay nếu có thì thường là những điều không lấy gì làm vinh dự cho
lắm.
Sau biến cố này đã có hàng ngàn ý kiến xuất hiện
trên các diễn đàn Internet đặt câu hỏi: “Tại sao lại có sự khác biệt quá lớn
giữa người Việt và người Nhật”, phần lớn những ý kiến này xuất phát từ những
người trẻ đang sống ở Việt Nam.
Đó là một tín hiệu đáng mừng cho thấy có nhiều
người Việt Nam đang thao thức muốn thay đổi số phận của đất nước mình.
Đây là một đề tài rất lớn và đòi hỏi sự suy
nghĩ, nghiên cứu nghiêm túc của nhiều người nhất là những nhà trí thức. Bài
viết này để chia sẻ câu hỏi đó và chỉ nên xem như những lời góp ý rất khiêm
tốn.
Sự chênh lệch giữa Việt Nam và Nhật Bản không
phải chỉ xảy ra bây giờ, từ đầu thế kỷ 20 Nhật đã vượt ta rất xa. Trong cuốn
“Niên Biểu” cụ Phan bội Châu đã kể lại kinh nghiệm của mình sau hai lần đến
nước Nhật để tìm đường cứu nước (lần đầu tiên vào năm 1905).
Những điều tai nghe mắt thấy tại đây khiến cụ
rất phục tinh thần của dân tộc Nhật Bản. Người phu xe, thuộc giai cấp lao động
bình dân, chở cụ đi tìm một sinh viên người Trung Hoa, mất nhiều thời gian công
sức mà cuối cùng vẫn nhận đúng 52 xu: “Than ôi! trình độ trí thức dân nước ta
xem với tên phu xe Nhật Bản chẳng dám chết thẹn lắm sao!”.
Nước Nhật nằm ở vị trí đầu sóng ngọn gió, chịu
liên tục những thiên tai trong suốt chiều dài lịch sử và họ chấp nhận định mệnh
đó với lòng can đảm.
Thiên tai vừa rồi rất nhỏ so với trận động đất
tại Tokyo vào năm 1923 và hai quả bom nguyên tử vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Nhờ
phương tiện truyền thông quá văn minh cho nên cả thế giới vừa rồi có cơ hội
nhìn thấy rõ hơn “tinh thần Nhật Bản” trong cơn nguy biến.
Trận động đất xảy ra tại Tokyo ngày 1/9/1923 đã
làm cho 130,000 người thiệt mạng, Yokohama bị tàn phá hoàn toàn, phân nửa của
Tokyo bị tiêu hủy.
Trong quyển “Thảm nạn Nhật Bản” (Le désastre
Japonais) của đại sứ Pháp tại Nhật thời đó thuật lại: ”Từng cá nhân kẻ góp chút
gạo, kẻ đem chiếc xuồng để giúp đỡ nhau như một đại gia đình”chứng tỏ là họ có
một truyền thống tương thân tương ái lâu đời.
Vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến hai quả bom nguyên tử
bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki, ngay lập tức làm thiệt mạng khoảng 150,000
người. Những thành phố kỹ nghệ của Nhật cũng bị tàn phá nặng nề vì những trận
mưa bom của phi cơ Đồng Minh.
Lần đầu tiên trong lịch sử người Nhật phải chấp
nhận đầu hàng và là nỗi nhục quá lớn đối với họ như lời của Nhật Hoàng
Hirorito: “Chúng ta phải chịu đựng những điều không thể chịu đựng nỗi”.
Không có hình ảnh nào thê thảm như nước Nhật lúc
đó, kinh tế gần như bị kiệt quệ hoàn toàn. Tuy nhiên Đồng Minh có thể tiêu diệt
nước Nhật nhưng không thể tiêu diệt được tinh thần của người Nhật, họ đã biến
cái nhục thua trận thành sức mạnh để vươn lên từ đống tro tàn.
Đến năm 1970, chỉ có 25 năm, một nước bại trận
hoang tàn đổ nát trở thành một cường quốc kinh tế đứng thứ nhì trên thế giới,
chỉ thua có Hoa Kỳ. Danh từ “Phép lạ kinh tế” phát xuất từ hiện tượng này.
Trong 7 năm từ 1945 cho đến 1952, tướng
MacArthur, thay mặt Hoa Kỳ quản trị nước Nhật với tư cách là Chỉ Huy Tối Cao
của Lực Lượng Đồng Minh (Supreme Commander of the Allied Powers) – vì nể phục
và quý mến người Nhật cho nên vị tướng này muốn biến nước Nhật trở thành một
“Nước Mỹ lý tưởng” hay nước Thụy Sĩ ở Á Châu.
Tuy cuối cùng kết quả không được trọn vẹn như ý
muốn của ông vì người Nhật không thể để mất hồn tính dân tộc. Nhưng nước Nhật
được như ngày nay có công đóng góp rất lớn của tướng MacArthur.
Trở lại chuyện thiên tai vừa rồi, ngay sau đó có
cả ngàn bài viết ca ngợi tinh thần của người Nhật. Nhiều tờ báo lớn của Tây
Phương đi tít trang mặt: “Người Nhật: Một Dân Tộc Vĩ Đại”.
Nhật báo lớn nhất của Mỹ, New York Times, số ra
ngày 20 tháng 3 đăng bài “Những điều người Nhật có thể dạy chúng ta” của ký giả
Nicholas Kriftoff. Đúng như lời của nhà báo Ngô Nhân Dụng đã viết: “Một dân
tộc, và mỗi con người, khi bị thử thách trong cơn hoạn nạn, là lúc chứng tỏ
mình lớn hay nhỏ, có đáng kính trọng hay không”.
Dùng từ vĩ đại đối với nước Nhật không cường
điệu chút nào, họ vĩ đại thật. Giữa cảnh chết chóc, nhà cửa tan nát, đói lạnh,
tuyệt vọng… vậy mà họ vẫn không để mất nhân cách, mọi người nối đuôi nhau chờ
đợi hàng giờ để lãnh thức ăn, tuyệt đối không oán trách trời, không trách chính
quyền, không lớn tiếng, không ồn ào, kiên nhẫn chờ đợi đến phiên mình.
Một đất nước mà trong cơn khốn khó, không đổ lỗi
cho nhau, từ quan đến dân, trăm người như một, trên dưới một lòng lo tìm cách
đối phó, thì đất nước đó xứng đáng là một đất nước vĩ đại.
Toàn bộ nội các Nhật làm việc gần như 24/24. Các
hiệu trưởng ngủ lại trường cho đến khi học sinh cuối cùng được di chuyển đi.
Các siêu thị hoàn toàn không lợi dụng tình cảnh này để tăng giá. Tiền rơi ngoài
đường từ những căn nhà đổ nát không ai màng tới thì đừng nói chi đến chuyện hôi
của.
Ông Gregory Pflugfelder, giáo sư chuyên nghiên
cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại Học Columbia (Mỹ) đã nhận xét về người Nhật sau
thiên tai này như sau: “Hôi của đơn giản là không xảy ra ở Nhật Bản. Tôi thậm
chí còn không chắn rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có từ ngữ này.”
Người Nhật là một dân tộc có tinh thần độc lập,
tự trọng và lòng yêu nước rất cao, không chờ đợi ai mở lòng thương hại, sau
những hoang tàn đổ nát, mọi người cùng nhau bắt tay xây dựng lại.
Mặc dầu chính phủ Hoa Kỳ đề nghị đến giúp dập
tắt lò nguyên tử Fukushima nhưng họ từ chối. Xa lộ tại thành phố Naka, thuộc
tỉnh Ibaraki bị hư hại nặng do động đất. Chỉ một tuần sau, ngày 17/3 các công
nhân cầu đường Nhật bắt đầu sửa chữa, chỉ 6 ngày sau xa lộ này đã hoàn tất,
ngay cả Hoa Kỳ có lẽ cũng không thể đạt được kỷ lục này.
Từ Nhật Hoàng Akihito, Thủ Tướng Naoto, cho đến
các thường dân đều tự tin rằng: “Chúng tôi sẽ phục hồi” như họ đã từng làm
trong quá khứ. Cho đến hôm nay (18/5) theo những tin mà chúng ta đọc được trên
Internet thì những nơi bị tàn phá đang được phục hồi nhanh chóng. Có thể chỉ 2,
3 năm sau nếu có dịp đến đây chúng ta sẽ thấy cảnh vật hoàn toàn thay đổi.
Điều đáng chú ý nhất trong thiên tai này đối với
người viết – chính là thái độ của trẻ em. Đến xứ nào, chỉ cần nhìn qua tuổi trẻ
là có thể đoán được tương lai của xứ đó, bởi vì tuổi trẻ là hy vọng, là tương
lai của đất nước.
Không phải chỉ có em học sinh 9 tuổi mất cha mất
mẹ, đang đói khát nhưng vẫn từ chối sự ưu tiên hơn người khác được cả thế giới
biết đến, mà còn có cả ngàn em học sinh Nhật khác trong hoàn cảnh tương tự vẫn
luôn luôn giữ tinh thần kỹ luật và lễ phép.
Những em nhỏ, có em còn được bồng trên tay, có
em ngồi bên cạnh mẹ trong các nơi tạm cư, mặc dầu đói khát từ mấy ngày qua
nhưng nét mặt của các em vẫn bình thản chờ đợi thức ăn mang đến. Những em bé
này được dạy dỗ từ nhỏ tinh thần kỷ luật, tự trọng, danh dự và khắc kỷ…
không phải chỉ học ở trường hay qua sách vở mà
còn qua những tấm gương của người lớn trong những hoàn cảnh thực tế và được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Mai đây nếu có một cuốn sách giới thiệu những
nét đẹp nhất, cao thượng nhất của con người sống trên hành tinh này thì cuốn
sách đó không thể thiếu được những hình ảnh của người Nhật trong thiên tai vừa
qua.
Trông người lại nghĩ đến ta!
Trong bài “Góc ảnh chiếu từ nước Nhật”, nhạc sĩ
Tuấn Khanh (ở VN) đã viết một câu thật thấm thía:
“Đôi khi giữa những hoang tàn đó của nước Nhật,
người ta bừng sáng hy vọng và đôi khi sống giữa những điều được gọi tên là bình
yên của đất nước mình, một người Việt Nam vẫn có thể cảm nhận được những ảnh
chiếu sắc cạnh của sự hoang tàn”.
Một số người đặt câu hỏi: Nếu tai họa như nước Nhật xảy ra
tại VN thì chuyện gì sẽ xảy ra? Bà Mạc Việt Hồng đã diễn tả bức tranh đó như
thế này:
- Động đất có khi chết 200 nhưng giẫm đạp lên
nhau mà chạy, chết thêm nghìn nữa.
- Các ban ngành sẽ họp bàn cách cứu hộ từ ngày
này qua ngày kia.
- Cướp giật hôi của sẽ phổ biến, hoa người ta
còn cướp giật nói chi tới đồ ăn hay tiền bạc vào lúc hỗn quan hỗn quân như vậy.
Người đi hôi của sẽ nhiều hơn người đi cứu trợ.
- Nếu có phát khẩu phần ăn sẽ chẳng có hàng lối
gì, bà già trẻ nhỏ sẽ bị chen cho bẹp ruột, ai thắc mắc hay nhìn đểu mấy kẻ
chen lấn, thì “bố cho mày mấy chưởng”.
- Sẽ xuất hiện đủ loại cò: Cò mua, cò bán, cò di
tản, cò cứu trợ, cò bệnh viện… tha hồ chặt chém đồng bào.
- Tiền và hàng cứu trợ sẽ vào tay dân thì ít,
cửa quan thì nhiều.
- Ai muốn người nhà mình đang kẹt trong đống đổ
nát được đào bới, tìm kiếm trước thì hãy chi đẹp cho đội cứu hộ.
- Khu nào có quan chức ở thì được ưu tiên cứu hộ
trước, khu nào dân đen sinh sống thì cứu sau.
- Cửa hàng sẽ thi nhau tăng giá, bắt chẹt những
người khốn khổ.
- Tổ chức nào, tôn giáo nào muốn cứu trợ thì
phải được sự đồng ý của Mặt trận Tổ quốc và các cấp chính quyền kẻo các “thế
lực thù địch” lợi dụng.…v.v….
Tôi không nghĩ là bà Mạc Việt Hồng nói quá đáng.
Chúng ta cũng không cần phải có kinh nghiệm thực tế, chỉ cần đọc qua báo trong
nước sau mỗi lần có thiên tai cũng đủ biết là những ghi nhận trên của tác giả
không sai chút nào.
Nói chung nạn nhân nếu muốn sống sót phải làm
theo bản năng “mạnh được yếu thua” hay “khôn nhờ dại chịu”, còn quan chức chính
quyền thì coi đó như thời cơ để kiếm tiền.
Có thể có những quý vị nghĩ rằng: không nên quá đề
cao người khác và rẻ rúng thân phận của mình – vì phải giữ lại niềm tự hào dân
tộc. Riêng tôi thì không đồng ý với những quan điểm như thế.
Có hãnh diện gì khi nói ra những điều không hay
về chính dân tộc mình, người viết cũng là người Việt, cũng có tất cả những thói
hư tật xấu của người VN. Nhưng thiết nghĩ, muốn thoát khỏi sự thua kém, trước
hết phải dám can đảm biết nhìn lại chính mình, phải biết mình tốt chỗ nào, xấu
chỗ nào, đang đứng tại đâu và cần phải làm những gì.
Cũng giống như một người sinh ra trong một gia
đình nghèo khó bất hạnh, phải biết chấp nhận số phận đó, nhưng chấp nhận để tìm
cách vươn lên chớ không phải chấp nhận để đầu hàng hoàn cảnh.
Gần một trăm năm nước đây, Lỗ Tấn từ bỏ nghề y
chuyển sang viết văn để mong đánh thức được dân tộc Trung Hoa ra khỏi căn bệnh
bạc nhược bằng những toa thuốc cực đắng như “AQ chính truyện”, gần đây nhà văn
Bá Dương tiếp nối tinh thần đó với “Người Trung Quốc xấu xí” cũng được nhiều
đồng bào của ông cho đó là một đóng góp đáng kể.
Cuộc cách mạnh Duy Tân của Minh Trị Thiên Hoàng
vào giữa thế kỷ 19 chắc chắn sẽ không thành công được như vậy nếu những nhà tư
tưởng của Nhật lúc đó không vạch ra cho đồng bào của họ thấy được những những
cái yếu kém trong văn hóa truyền thống cần phải bỏ đi để học hỏi những cái hay
của Tây Phương, nhà văn Miyake Setsurei, dành riêng một cuốn sách công phu
“Người Nhật xấu xa” xuất bản năm 1891 để đánh thức người Nhật ra khỏi căn bệnh
lạc hậu.
Chúng ta chỉ có thể yêu nước nếu chúng ta có
niềm tự hào dân tộc. Nhưng tự hào vào những điều không có căn cứ hay không có
thật sẽ có tác dụng ngược như những liều thuốc an thần.
Những tự hào giả tạo này có khi vì thiếu hiểu
biết, có khi vì mưu đồ chính trị của kẻ cầm quyền như trong hơn nửa thế kỷ qua,
và tác hại của nó thì ngày nay chúng ta đã thấy rõ.
Trong khi đó, người Việt có những mâu thuẫn kỳ
lạ. Chúng ta mang tự ái dân tộc rất cao nhưng đồng thời chúng ta cũng mang một
tinh thần vọng ngoại mù quáng.
Chúng ta thù ghét sự hiện diện của ngoại bang
trên đất nước chúng ta bất kể sự hiện diện đó có chính đáng đến đâu, nhưng đồng
thời giữa chúng ta cũng không tin lẫn nhau, xưa nay mọi giải pháp quan trọng
của đất nước chúng ta đều trông chờ vào lý thuyết và giải pháp của người ngoại
quốc, chớ không tự quyết định số phận của mình.
Có thể nói trong lịch sử hiện đại của VN, hoàn
toàn trái ngược với các nhà cách mạng cùng thời, Phan Chu Trinh chọn giải pháp
Khai Dân trí, Chấn Dân Khí, Hậu Dân sinh. Theo ông, muốn thoát khỏi ách đô hộ
của ngoại bang và sự nghèo khổ lạc hậu, trước hết phải nâng cao dân trí, mở
mang trí tuệ.
Dân trí cao người dân sẽ ý thức được quyền làm
người, quyền dân tộc, rồi từ đó sẽ tranh đấu bằng giải pháp chính trị để giành
độc lập. Dân trí thấp kém cho dù có dành được độc lập thì vẫn tiếp tục là một
dân tộc nô lệ ở một hình thức khác.
Ông là một trong những người Việt hiếm hoi nhìn
ra nguyên nhân mất nước, nguy cơ dân tộc, không phải ở đâu khác mà là trong văn
hóa, từ văn hóa mà ra.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến có gần 30 nước dành được
độc lập, phần lớn không đổ một giọt máu, chỉ có vài nước như VN, phải trả bằng
máu và nước mắt của hàng triệu sinh mạng để cuối cùng trở thành một trong những
nước nghèo khổ và lạc hậu nhất thế giới.
Chọn lựa này là chọn lựa của dân tộc, của VN chớ
không phải do sức ép của ngoại bang hay một lý do gì khác. Lòng yêu nước mù
quáng biến dân tộc VN trở thành một lực lượng tiên phong trong cuộc tranh chấp
giữa hai khối CS và Tự Do và luôn luôn hãnh diện với thế giới về một dân tộc
“bước ra khỏi cửa là thấy anh hùng”.
Những bi kịch của đất nước hôm nay là cái giá
phải trả cho sự chọn lựa đó.
Thật cay đắng cho những người hết lòng vì nước
vì dân như Phan Chu Trinh, mặc dầu nhìn xa thấy rộng, tư tưởng nhân bản, kiến
thức uyên bác, lòng yêu nước và nhiệt tình có thừa, nhưng cuối cùng Phong Trào
Duy Tân của cụ đã thất bại chỉ vì không được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng,
ngay cả cụ Phan Bội Châu – một đồng chí thân thiết với cụ trong nhiều năm cũng
không ủng hộ quan điểm của cụ.
Là một người yêu nước chân thật ông không tự lừa
dối mình và lừa dối dân tộc của mình bằng những chiêu bài mị dân, những điều tự
hào không có thật.
Ông là người nhìn thấy được vấn đề, và cố gắng đi tìm một
phương thuốc cứu chữa.
Nhưng tại những nơi mà lưỡi gươm có tác dụng
mạnh hơn ngòi bút thì những tiếng nói nhân bản như ông trở thành những tiếng
kêu giữa sa mạc hoang vắng và ông trở nên lạc lõng trong một xã hội mà nếp suy
nghĩ hủ lậu đã bám rễ quá lâu và quá chặt, trở thành một căn bệnh trầm kha hủy
hoại đất nước và làm cho dân tộc sa vào vòng nô lệ.
Nhìn qua đất nước Nhật Bản, một dân tộc có chiều
dài lịch sử gần giống như chúng ta, có diện tích gần bằng, dân số không chênh
lệnh mấy (127 triệu so với 87 triệu), cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và
Khổng Giáo, không khỏi làm cho chúng ta đau lòng khi thấy được sự khác biệt quá
lớn giữa hai đất nước.
Sự khác biệt về kinh tế, sự giàu có tiện nghi
không phải là điều quan trọng, chủ yếu là sự khác biệt về cách suy nghĩ
(mentality) giữa hai dân tộc.
Vào thời điểm 1858, khi người Pháp bắt đầu xăm
lăng VN thì dân ta vẫn còn u mê bám vào những giá trị đã lỗi thời, người Nhật
tức thời bỏ những truyền thống hủ lậu, học hỏi những cái hay của Tây Phương để
bắt kịp họ.
Đến thời điểm sau Đệ Nhị Thế Chiến, VN muốn trở
thành biểu tượng của một dân tộc anh hùng, người Nhật biết nuốt nhục của kẻ
thua trận chịu sự đô hộ của Mỹ, tận dụng lòng mã thượng của kẻ chiến thắng, dồn
mọi sinh lực dân tộc để vươn lên thành một cường quốc kinh tế.
Tại sao lại có sự khác biệt như vậy? Những
nghiên cứu công phu và nghiêm chỉnh của các cơ quan quốc tế gần đây như Cơ quan
Phát Triển Liên Hiệp Quốc (United Nations Development Program – UNDP) đã chứng
minh một cách thuyết phục rằng sự chênh lệnh giàu nghèo giữa các quốc gia chủ
yếu không phải do yếu tố địa lý, tài nguyên thiên nhiên, tôn giáo, chủng tộc…
Mà chủ yếu là do yếu tố văn hóa. Văn hóa quyết
định tất cả. Văn hóa tạo ra nếp suy nghĩ (mentality) của mỗi dân tộc, và chính
nếp suy nghĩ này làm cho mỗi dân tộc có ứng xử khác nhau khi đương đầu với cùng
một thử thách.
Tại sao có những dân tộc mà quan chức chính phủ
tham nhũng cả hàng triệu đô la như ở các nước Phi Châu mà mọi người vẫn xem đó
là chuyện bình thường, trong lúc đó tại một nước khác – một bộ trưởng chỉ vì
nhầm lẫn nhận 600 đô cho quỹ tranh cử đã phải xin lỗi quốc dân rồi từ chức (1)?
tại sao một quốc gia nhỏ bé như Do Thái chưa tới 3 triệu dân (2) có thể chiến
thắng cả khối Á Rập trong cuộc chiến năm 1967 và tồn tại vững mạnh cho đến ngày
hôm nay?
Trong lúc đó có những nền văn minh đã từng một
thời ngự trị thế giới mà ngày nay biến mất … và còn cả ngàn thí dụ khác để
chứng minh rằng chính yếu tố văn hóa quyết định sự tồn vong và sự lớn bé của
mỗi dân tộc.
Những dân tộc như Đức, Nhật, Do Thái, Thụy Sĩ,
Hòa Lan, Hoa Kỳ… cho dù bị thiên tai tàn phá đến đâu,cho dù sống ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn có
thể vươn trở thành những nước giàu mạnh, trái lại những xứ như Iraq, Nigeria,
Venezuela, Angola, Libya… mặc dầu tràn ngập dầu hỏa nhưng vẫn là những nước
nghèo.
Bước ngoặt quan trọng nhất đã làm thay đổi
khoảng cách giữa ta và Nhật chính là cuộc cách mạng Duy Tân tại Nhật bắt đầu từ
năm 1868. Trong lúc người Nhật tức thời thay đổi thì các vua chúa VN vẫn còn
ngủ mê bên trong các bức tường cung điện ở Huế.
Họ không thấy được thế giới đã thay đổi, vẫn
tiếp tục tôn sùng và thần tượng Trung Quốc trong lúc nước này đã bị thua thê
thảm trước sức mạnh của Tây Phương.
Vào tháng 7 năm 1853 khi triều đình Tokugawa từ
chối không cho Thuyền trưởng người Mỹ Mathew Perry lên bờ để trao bức thư của
Tổng Thống Fillmore, ông ra lệnh bắn vào thành phố Edo (Tokyo ngày nay). Những
quả đại bác này đã làm cho người Nhật thức tỉnh ngay.
Lòng ái quốc và niềm tự hào dân tộc đã làm cho
họ đoàn kết lại để tìm cách giúp đất nước thoát khỏi nguy cơ nô lệ. Chính sự
thức tỉnh này đã mở đầu cuộc cách mạng Minh Trị Duy Tân kéo dài 44 năm.
Đó là một cuộc cách mạnh đúng nghĩa, một cuộc
cách mạng triệt để, họ làm đến nơi đến chốn, kẻ đi Mỹ, người đi Âu Châu, kẻ đi
chính thức người đi lậu bằng cách trốn xuống tàu buôn Tây Phương như trường hợp
của thần đồng Yoshida Shôin, tất cả đều cùng một mục đích là tìm đến tận nguồn
cội của nền văn minh để học hỏi những cái tinh túy mang về thay đổi đất nước.
Họ từ bỏ một cách dứt khoát tất cả những cái cũ
không còn hợp nhưng không để mất tinh thần độc lập. Họ không phải chỉ có một ông
vua Minh Trị hết lòng yêu nước mà cả trăm ngàn những tấm lòng như thế quyết tâm
đưa nước Nhật lên vị trí ngang hàng với các nước Tây Phương.
Khi nói đến cuộc Duy Tân Minh Trị nhiều người
vẫn lầm tưởng đó là cuộc cách mạng kỹ nghệ, mở cửa để giao thương và học hỏi kỹ
thuật của Phương Tây. Thật sự không phải như thế, học hỏi kỹ thuật chỉ là mặt
nổi, chủ yếu là người Nhật học hỏi những tinh túy về tư tưởng của người Tây
Phương để khai sáng trí tuệ cho dân tộc của họ.
Chỉ có vài quả bom của Thuyền Trưởng Mathew
Perry đã làm cho người Nhật thức tỉnh, trong lúc đó nhìn lại đất nước chúng ta,
kể từ thời điểm 1853 cho đến hôm nay đã có hàng trăm ngàn quả bom đã rơi xuống
đất nước Việt Nam, không những chỉ tàn phá hình hài đất nước mà còn làm tan nát
tâm hồn dân tộc với bao sự ngậm ngùi, nhục nhã đắng cay của một dân tộc nhược
tiểu.
Nhưng tất cả những nỗi đau đó vẫn chưa đủ để làm
cho người Việt thức tỉnh, để thấy cần phải có một nhu cầu thay đổi cần thiết
như người Nhật đã làm từ giữa thế kỷ thứ kỷ 19.
Vào tháng 8 năm 1858 người Pháp bắt đầu cuộc
chiến xăm lăng đất nước VN, trước đó vào mùa thu năm 1847 để phản đối chính
sách cấm đạo của vua Thiệu Trị, Trung tướng Rigault de Genouilly đã bắn chìm 5
chiếc thuyền của Việt Nam, năm 1842 Trung Quốc đã bại trận thê thảm trước sức
mạnh của Tây Phương trong cuộc chiến Nha Phiến.
Nhưng tiếc thay tất cả những dấu hiệu cảnh cáo
đó vẫn chưa đủ để làm cho triều đình nhà Nguyễn thức tỉnh. Đến lúc đó họ vẫn
không nhận ra rằng đất nước đang đứng trước khúc quanh của lịch sử.
Từ thời điểm năm 1842 hay 1847 cho đến 1858, đó
là một khoảng thời gian rất dài (14 năm), nếu các vua nhà Nguyễn thức thời,
khôn khéo như các vua chúa Nhật Bản thì đất nước chúng ta đâu phải chịu 80 năm
đô hộ của người Pháp và đâu phải chịu tai họa văn hóa kéo dài đến hôm nay.
(Theo Tri Thức)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment