From: Be Ta
Subject: VNCS - Câu Chuyện Cảm Động của một Đại Tá Phi Công Hoa Kỳ từng bị Tù VC
Subject: VNCS - Câu Chuyện Cảm Động của một Đại Tá Phi Công Hoa Kỳ từng bị Tù VC
Lời nói đầu:
Sau cuộc chiến Việt Nam, đã có nhiều huyền thoại đầy anh hùng
tính viết về các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Và trong rất nhiều trường
hợp, chỉ tới khi ấy, chúng ta mới giật mình nhận ra những người “anh hùng” được
nhắc tới lại chính là những cấp chỉ huy, những đồng đội, những thuộc cấp rất
bình thường của mình.
Một trong những con người rất bình thường ấy vừa được vinh danh
là cựu Trung-úy hoa tiêu khu trục Nguyễn Văn Xanh, Phi Đoàn 530 Thái Dương,
Không Đoàn 72 Chiến Thuật (Pleiku). Thời gian ấy – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, với tư
cách Sĩ quan Thông Tin Báo Chí đơn vị, có nhiệm vụbáo cáo hàng tuần về tổng số
phi vụ và kết quả hoạt động của đơn vị cho Phòng Thông Tin Báo Chí – BTL/KQ, có
lẽ chúng tôi đã chỉ ghi ngắn gọn trong phần tổn thất của quân bạn: “Phi Đoàn
530: một A-1 Skyraider bị phòng không địch bắn hạ ngày 9/5/1972 tại Kontum; phi
công nhảy dù và được ghi nhận mất tích”. Chấm hết!
Nhưng với một phi công Đồng Minh xa lạ, tới đây câu chuyện của
ông mới bắt đầu. Xin mời độc giả theo dõi câu chuyện cảm động ấy qua hồi ký của
Đại-tá Lục Quân (hồi hưu) William S. Reeder, nguyên phi công trực thăng tấn
công AH-1G Cobra, phục vụ tại Căn cứ Halloway, gần phi trường Cù Hanh, Pleiku,
mới được phổ biến trên Internet. Cũng cần viết thêm, sau khi giải ngũ, ông Reeder
đã trở lại trường đại học, và đạt tới học vị Tiến sĩ.
NHT
o O o
Tôi còn nhớ đợt phục vụ luân phiên (tour of duty) thứ nhì của
tôi khởi đầu vào ngày 7/12/1971. Lúc ấy, chương trình rút quân Mỹ theo kế hoạch
“Việt Nam hóa chiến tranh” của TT Nixon đang được tiến hành một cách suông sẻ.
Gánh nặng trong cuộc chiến đã được chuyển giao gần hết cho Quân Lực VNCH, và
quân Mỹ đã được đưa về nước với một nhịp độ chóng mặt. Giờ này nhìn lại, phải
công nhận chương trình Việt Nam hóa ngày ấy đã đạt kết quả tốt đẹp. Hoạt động
của địch quân ở miền Nam đã giảm hẳn, và hình thức chiến tranh du kích của quân
phiến cộng đã không còn hiện hữu. Thế nhưng, sự yên tĩnh ấy đã không kéo dài.
Mùa xuân 1972, quân Cộng Sản Bắc Việt bất thần mở những cuộc tấn
công vũ bão chưa từng thấy trong cuộc chiến – đợt tấn công mà người Mỹ quen gọi
là “Cuộc tổng công kích mùa Phục Sinh 1972″ (1972 Easter Offensive)*. Đây không phải là một cuộc tổng nổi dậy của Việt Cộng trong
Nam như hồi Tết Mậu Thân 1968, mà là một chiến dịch quy mô với hàng loạt cuộc
tấn công quy mô của quân CSBV băng qua vùng phi quân sự, và từ những căn cứ
đóng quân trên lãnh thổ Lào và Căm-bốt, với mưu đồ cắt đôi lãnh thổ VNCH tại
vùng Cao Nguyên, và tiến đánh Sài Gòn, thủ đô miền Nam. Kết quả, quân CSBV đã
thất bại trước sức chiến đấu mãnh liệt của lục quân và không quân miền Nam, với
sự trợ lực tận tình của những đơn vị Hoa Kỳ còn đồn trú tại đây.
*[1972 Easter Offensive
được phía Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972; và từ đoạn này, người dịch sẽ sử
dụng "Mùa Hè Đỏ Lửa" thay cho "Easter Offensive"]
Cuộc tổng tấn công bắt đầu vào tháng Tư năm 1972 với các cuộc
tấn công của quân chính quy Bắc Việt từ Căm-bốt tiến về hướng Sài gòn, và băng
ngang vùng phi quân sự tiến chiếm cố đô Huế. Sau cùng là mặt trận mang tính
cách quyết định của chiến dịch: quân CSBV từ miền Bắc Căm-bốt và Nam Lào vượt
biên giới tiến đánh vùng Tây Nguyên, với mục đích giành quyền kiểm soát dải đất
Trung phần, và tiêu diệt lực lượng VNCH tại đây – giống như Việt Minh đã thực
hiện, và đã thành công trong chiến tranh với Pháp vào năm 1954. Lần này, quân
cộng sản đã thành công trong bước đầu, tuy nhiên sau đó họ đã không chiếm được
một mục tiêu quan trọng nào. Ở phía bắc, họ chỉ tiến chiếm tới Quảng Trị, và
sau đó đã bị lực lượng Nhảy Dù của VNCH đánh bại. Tại Tây Nguyên, họ chỉ chiếm
được một số tiền đồn chung quanh Kontum, nhưng sau đó cũng bị đẩy lui.
Câu chuyện tôi kể lại sau đây chính là bối cảnh của một bi kịch
đời người diễn ra vào lúc ấy, với vai chính là tôi, và một phi công VNCH tên là
Xanh Văn Nguyễn – hay gọi theo cách gọi của người Việt, họ luôn đứng trước tên
gọi, thì là Nguyễn Văn Xanh. Vào thời gian Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khởi sự, tôi đang
bay trực thăng tấn công AH-1G Cobra tại căn cứ Halloway của Lục Quân Hoa Kỳ, ở
gần tỉnh lỵ Pleiku. Trung-úy Nguyễn Văn Xanh thì bay khu trục cơ A-1 Skyraider
ở căn cứ Không Quân Pleiku. Chúng tôi không hề quen biết nhau, cũng chưa từng
gặp gỡ bao giờ.
Hôm đó là ngày thứ hai 09/5/1972, vào lúc hừng đông, tôi chỉ huy
một phi vụ gồm 2 chiếc trực thăng Cobra yểm trợ một căn cứ bộ binh đang bị địch
công hãm ở Polei Klang, cực tây tỉnh Kontum, gần biên giới Căm-bốt. Một lực
lượng quân CSBV với sự yểm trợ của chiến xa đang tấn công căn cứ và tình hình
thật bi đát. Sau nhiều vòng tấn công và sử dụng toàn bộ rocket, đạn M-79 và đạn
đại liên, chúng tôi bay về phi trường Kontum để tái trang bị và lấy thêm nhiên
liệu. Nhân viên phi hành bay chung với tôi, tức phi công phụ kiêm xạ thủ ngồi
ghế trước của chiếc Cobra, là Thiếu-úy Tim Conry, quê ở Phoenix, tiểu bang
Arizona. Tim là sĩ quan trẻ xuất sắc nhất mà tôi được biết, vì thế ngay sau khi
anh tới đơn vị, tôi đã chọn anh vào phi đội do tôi chỉ huy, và luôn luôn để anh
bay chung với tôi. Anh không chỉ là một nhân viên phi hành xuất chúng mà còn là
một con người toàn hảo. Nhưng vào chiều ngày hôm ấy, anh đã trở thành người
hùng thiên cổ!
Trở lại với phi vụ của chúng tôi, trên đường quay trở lại Polei
Klang, chúng tôi được lệnh thay đổi mục tiêu tấn công: đó là tới yểm trợ cho
một tiền đồn ở vùng Tam Biên – tức giao điểm của ba biên giới Việt Nam, Căm-bốt
và Lào. Địa danh này có tên là Ben Het. Lực lượng trấn giữ là một tiểu đoàn
Biệt Động Quân, với quân số khoảng 300 người, và hai cố vấn Mỹ. Lực lượng bé
nhỏ ấy đang phải chống trả sức tấn công của hàng ngàn bộ đội thuộc hai sư đoàn
CSBV có chiến xa tăng cường. Khi chúng tôi tới nơi, các chiến xa đã vượt qua
hàng rào phong thủ, và bộ đội Bắc Việt đã chiếm gần hết căn cứ.
Trước đó, trên đường tới Ben Het, khi bay ngang qua Polei Klang,
tôi nhìn xuống quan sát. Chiến sự đang sôi động, và tôi có thể thấy những chiếc
khu trục A-1 Skyraider đang nhào xuống thả bom. Bỗng một chiếc A-1 bị trúng đạn
phòng không, bốc cháy, đâm xuống đất nổ tung. Nhưng viên phi công đã kịp thời
phóng ghế thoát hiểm vì tôi thấy cái dù của anh đang lơ lửng. Tôi liền gọi máy
về xin được ở lại Polei Klang để yểm trợ cho cuộc cấp cứu. Lời thỉnh cầu của
tôi bị từ chối. Tôi xin thêm một lần nữa, cũng bị từ chối. Và tới lần thứ ba
thì bị từ chối một cách dứt khoát, cộc lốc. Lúc đó, chưa được biết tình hình ở
Ben Het nguy kịch tới mức nào, cho nên tôi đã vô cùng phẫn nộ vì đã không được
phép cứu giúp một phi công lâm nạn đang cần tới sự yểm trợ của mình.
Tôi bay vào Ben Het mà tưởng như đang bay vào một tổ ong bị
động. Lúc đó, 5 chiến xa địch đã vượt qua hàng rào kẽm gai, và bộ đội Bắc Việt
thì tràn ngập khắp nơi. Các quân nhân đồn trú còn sống sót đã rút vào hầm chỉ
huy ở trung tâm để cố thủ. Chúng tôi tác xạ một hồi rồi yểm trợ cho một chiếc
trực thăng đặc biệt được trang bị một loại hỏa tiễn chống chiến xa mới nhất.
Sau khi sử dụng hết đạn dược, chúng tôi lại bay về Kontum để tái trang bị và
lấy thêm nhiên liệu. Rồi quay trở lại Ben Het để thi hành phi vụ chiến đấu thứ
ba trong ngày.
Sau khi cất cánh khỏi phi trường Kontum, chúng tôi được lệnh hộ
tống một trực thăng có nhiệm vụ tiếp tế đạn dược cho Ben Het. Lúc đó, đạn của
lực lượng cố thủ đã gần cạn, riêng hỏa tiễn chống chiến xa thì đã hết sạch.
Sau khi gặp nhau, chúng tôi hộ tống chiếc Huey (tức trực thăng
UH-1) tới Ben Het, tất cả đều bay sát ngọn cây. Vừa bay tới Ben Het thì súng nổ
như pháo Tết, súng của ta lẫn súng của định. Ở ghế trước trên chiếc Cobra của
tôi, Thiếu-úy Tim Conry rải từng tràng mini-gun và những trái M-79 xuống thật
chính xác. Tôi thì bắn từng cặp rocket. Chúng tôi càng tiến sâu thì hỏa lực
phòng không của địch càng dày đặc. Nhưng rồi chiếc Huey cũng vào được tới nơi
và hoàn tất nhiệm vụ cực kỳ khó khăn ấy, phần lớn là nhờ hỏa lực yểm trợ thật
chính xác của Tim: sau khi lơ lửng tại chỗ ở cao độ gần sát mặt đất, và đạp các
thùng đạn xuống, chiếc Huey bay ra dưới sự yểm trợ hỏa lực của chúng tôi. Cùng
lúc, chiếc Cobra của tôi bị trúng vô số đạn đủ loại của địch, bốc cháy và đâm
xuống theo đường xoáy trôn ốc. Chỉ trong giây lát, chiếc trực thăng chạm đất,
và phát nổ ngay sau khi tôi và Tim – dù bị thương nặng – tìm cách thoát ra khỏi
phi cơ.
Tim chết vào chiều tối hôm đó. Riêng tôi thì bị gẫy xương lưng,
phỏng ở mặt và phía sau cần cổ, một miểng đạn nằm sâu ở mắt cá, và vô số vết
thương nhỏ ở mặt và đầu. Nhưng mặc dù phi cơ rớt ngay trong khu vực có hàng
trăm địch quân đang tấn công căn cứ, tôi cũng lẩn tránh được ba ngày trước khi
bị bắt.
o O o
Tôi bị tra khảo trong mấy ngày liền, và bị đối xử khá tàn bạo.
Khi ấy tôi ở trong một tình trạng cực kỳ thê thảm về thể xác. Lưng tôi bị gẫy.
Máu từ vết thương ở mắt cá chảy ra đầy chiếc giày bốt, giờ này đã khô lại thành
một khối cứng ngắt. Đã ba ngày tôi không cạo râu. Tôi không còn khả năng điều
khiển ruột già và bàng quang, cho nên tôi đã đại tiện, tiểu tiện ra đầy quần.
Tôi bị vô số vắt bám vào người để hút máu, và chúng đã bị tôi bứt ra hết, trừ
một con đang chui vào lỗ mũi phía bên trái mà tôi không hề hay biết. Khi bắt
được tôi và thấy cảnh này, đám bộ đội đã được một trận cười khoái trá.
Tôi bị tra khảo, đánh đập, hăm dọa. Hai tay tôi bị trói ngược ra
phía sau bằng dây nhợ, và càng ngày càng bị xiết chặt theo thời gian bị tra
khảo, cho tới khi hai vai tôi bị trật khớp, và hai cùi chỏ bị trói cứng với
nhau, cấn vào chỗ xương lưng bị gẫy khiến tôi đau đớn khôn tả. Cuối cùng thì
cuộc tra khảo cũng chấm dứt, và tôi được lệnh đi bộ trong ba ngày liên tiếp, để
tới một trại giam trong rừng già – mà theo sự ước đoán của tôi, nằm ở phía bắc
lãnh thổ Căm-bốt, ngay bên kia biên giới. Tôi đã được bọn họ trả lại đôi giày
bốt, nhưng đã lấy mất hai sợi dây giày và đôi vớ. Sau ba ngày đi bộ, khi lết
một cách đau đớn tới cổng trại giam, đôi bàn chân của tôi đã trở nên bầy hầy,
giống như hai cái hamburger còn sống.
Trại giam này là một điển hình của những trại mà nhiều người đã
từng sống qua. Trại được dựng trên một khoảnh đất trong rừng sâu, tất cả đều
làm bằng tre. Chung quanh là một bức tường bằng tre, khiến người ta liên tưởng
tới những tiền đồn của kỵ binh Mỹ vào thời khai phá miền Viễn Tây. Bên ngoài
bức tường này lại có một bức tường khác. Giữa hai bức tường là một cái hào,
giống như hào thành thời trung cổ. Dưới hào có vô số chông – là những thân tre
vót nhọn, sắc bén như dao, cắm sâu dưới một lớp phân người. Nếu rớt xuống đó,
không chết vì bị chông đâm vào những bộ phận trọng yếu thì bạn cũng sẽ chết vì
bị mất máu, hoặc nếu không chết ngay vì những vết thương thì cũng chết từ từ vì
bị nhiễm trùng. Một thân cây được bắt ngang cái hào, mà phải cố gắng giữ thăng bằng,
người ta mới có thể đi trên cái “cầu” này để vào trại.
Bên trong những bức tường tre ấy là những cái cũi, cũng bằng
tre, để nhốt tù binh. Nào là quân nhân VNCH, nào là những người Thượng đồng
minh của Biệt kích Mỹ; và hai người Mỹ – gồm tôi và một phi công trực thăng bị
bắt trước đó một tháng. Tổng cộng, ít nhất cũng có vài trăm tù binh. Tình trạng
trong trại giam thật tồi tệ. Chúng tôi sống như thú vật. Phần lớn những cái cũi
để nhốt chúng tôi không đủ cao để có thể đứng dậy. Tuy nhiên điều đó cũng không
cần thiết bởi vì chân chúng tôi đã bị cùm vào những cái cùm gỗ. Vì xương lưng
bị gẫy, tôi không thể nằm mà phải ngồi để ngủ. Đêm đêm, lũ chuột chạy tới chạy
lui trong cũi và gặm nhấm vết thương ở mắt cá chân của tôi. Vì hai chân bị cùm,
tôi không thể nhúc nhích nên không có cách nào để đuổi chúng đi. Cho tới ngày
nay, tôi vẫn còn ghét chuột!
Mỗi ngày, chúng tôi được ra khỏi cũi một lần để làm công việc
thải cặn bã trong cơ thể ở nhà vệ sinh dành cho tù binh. Giờ giấc mỗi ngày đều
khác nhau, cho nên tù binh nào không có khả năng chờ đợi, kiềm chế, đã tự phóng
uế ra quần khi đang còn bị cùm trong cũi (rất nhiều người trong số chúng tôi bị
tiêu chảy). Sau khi ra khỏi cũi, chúng tôi phải đi một khoảng mới tới nhà vệ
sinh ở một góc trại.
“Nhà vệ sinh” này thực ra chỉ là vài cái hố xí để bạn phóng uế
xuống. “Vấn đề” là có nhiều người trong số tù nhân bị đau yếu đã không thể nín
trên đường tới hố xí, nên đã đại tiện ngay tại chỗ, khiến cả khu vực đầy rẫy
những đống phân người. Một số tù nhân đau nặng, gần chết, thì được đặt trên
những cái võng gần các hố xí. Khi có “nhu cầu”, người nào còn đủ sức thì ráng
xuống khỏi võng để tới hố, người nào kiệt sức thì đành nằm trên võng mà phóng
uế ra quần. Hậu quả là cả khu vực chung quanh mấy cái hố được mệnh danh là “nhà
vệ sinh” ấy đầy rẫy phân người, mà những tù nhân còn tương đối khỏe mạnh, trên
đường đi tới hố xí phải cẩn thận lắm mới né tránh được. Trên đường trở về cũi,
không có bất cứ phương tiện nào để chúng tôi lau chùi, rửa ráy.
Theo ký ức của tôi thì nước uống không có “vấn đề”. Nước phân
phát cho tù nhân được đựng trong những ống tre. Họ nói rằng nước đã được đun
sôi, nhưng tôi vẫn bị tiêu chảy một cách thậm tệ. Nhưng lương thực thì có “vấn
đề”. Hầu như chỉ có một món duy nhất là cơm. Vào lúc gần trưa, mỗi người được
một nắm to bằng trái cam, tới xế chiều được một nắm nữa. Thỉnh thoảng, chúng
tôi được “chiêu đãi” bằng những khúc rễ cây có bột, gọi là sắn dây, tương tự
như rễ cây “yucca” ở châu Mỹ La-tinh. Chỉ trong vài tuần lễ, tôi đã sút mất hơn
20 ký-lô. Tôi giống như bộ xương cách trí với bộ râu dài. Trong khoảng thời
gian 5 tháng, tôi không hề được cạo râu.
Tôi không hề được chăm sóc về y tế hay được cấp phát bất cứ thứ
thuốc men nào cả. Nhưng người nào cũng thế thôi. Người tù binh Việt Nam bị nhốt
chung cũi, nằm cạnh tôi bị một vết thương rất nặng ở ngực, không hiểu đã được
băng từ đời nào, nhưng trong suốt thời gian bị nhốt chung cũi, tôi không hề
thấy anh được thay băng. Cái lỗ sâu hoắm trên ngực anh không bao giờ lành. Anh
còn trẻ và tương đối khỏe, nhưng tôi biết chắc chắn anh sẽ không qua khỏi.
Chúng tôi sống như thú vật, trong điều kiện môi trường nhơ bẩn,
đói khổ, không một chút thuốc men, cho nên hầu như ngày nào cũng có người chết.
Xác họ được chôn trên sườn đồi phía bên ngoài trại.
o O o
Ngày 2 tháng 7 năm 1972, tôi được đưa ra khỏi cũi và sắp hàng
cùng với một toán tù binh. Có khoảng 25 người Việt và một người Mỹ khác. Chỉ
một lát sau, tôi được biết trong toán tù binh này có một phi công bị bắn hạ
cùng ngày với tôi, khi anh bay chiếc khu trục A-1 Skyraider yểm trợ cho trại
Polei Klang. Tên anh là Trung-úy Xanh. Tôi sẽ không bao giờ quên tên anh. Không
bao giờ!
Viên chỉ huy trại tới nói chuyện với chúng tôi, theo đó, chúng
tôi sẽ di chuyển tới một trại mới, khá hơn. Nơi đó, chúng tôi sẽ được ăn uống
đầy đủ hơn, và được chăm sóc về y tế; chúng tôi sẽ được nhận thư từ và bưu phẩm
của gia đình gửi. Ông ta cho biết cuộc hành trình có thể sẽ kéo dài tới 11
ngày, vì thế chúng tôi phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi. Sau khi nghe ông
ta nói, tôi tưởng tượng ra một trại nào đó cũng ở trong rừng, nhưng vị trí
thuận tiện, có nhiều nhân viên và được tiếp tế đầy đủ hơn, nằm ở đâu đó phía
bắc Căm-bốt hoặc ngay bên kia bên giới Lào. Riêng về lời cảnh giác của viên
trại trưởng nói rằng chúng tôi “phải cố gắng hết sức để đi cho tới nơi”, tôi đã
chẳng mấy quan tâm. Cho tới mấy ngày sau đó.
Với đôi chân trần, tôi bắt đầu cuộc hành trình. Các tù binh đều
bị trói, người này bị cột lại với người kia bằng một sợi dây. Sau vài ngày,
chúng tôi không còn bị trói nữa, vì bước đi còn không đủ sức nói gì tới chạy
trốn. Tôi rất đuối, vì thiếu dinh dưỡng, vì đủ thứ bệnh không tên, và vì những
vết thương lâu ngày không được chăm sóc nay đã làm độc, và ngày càng trở nên tệ
hại hơn cùng với cuộc hành trình. Nhưng phải nói chính những con vắt mới là mối
nguy hàng đầu; chúng không chỉ hút máu mà còn gây viêm nhiễm do các độc tố
chúng truyền sang.
Trung-úy Xanh cũng ở trong tình trạng bi đát như tôi, mỗi bước
đi là một sự phấn đấu cả về thể xác lẫn nội tâm, để đối phó với sự kiệt quệ của
cơ thể, sự xuống dốc của tinh thần. Bởi nếu bạn không tiếp tục bước, bạn sẽ
chết. Ở cuộc sống đời thường, muốn chết bạn phải có một hành động cương quyết
nào đó. Bạn phải tự sát. Nhưng một khi bạn là tù binh chiến tranh thì trong bất
cứ tình huống nào, sự thể cũng trái ngược lại. Bạn phải phấn đấu từng ngày để
sống sót. Còn muốn chết thì dễ quá. Cứ việc bình thản, đầu hàng một cách êm ái,
là bạn sẽ chết. Nhiều người đã làm như thế. Họ chết trong trại tù đầu tiên, họ
chết trên đường di chuyển. Ngay sau ngày đầu, một số người đã không chịu bò dậy
nữa. Một số khác cố gắng tiếp tục cuộc hành trình nhưng rồi cũng lần lượt bỏ
cuộc. Trong lúc đoàn người tiếp tục tiến bước, mỗi khi nghe một hay vài tiếng
súng nổ ở phía sau, họ biết họ sẽ không bao giờ còn gặp người tù binh đáng
thương ấy nữa. Toán 27 tù binh chúng tôi đã mất ít nhất là nửa tá trong hoàn
cảnh nói trên, và tới lúc cuộc hành trình kết thúc, Wayne Finch, người tù binh
Mỹ duy nhất ngoài tôi ra, cũng đã bỏ mạng.
o O o
Cuộc di chuyển không kéo dài 11 ngày, và đích tới cũng không
phải là một trại tù nào đó nằm trong khu vực, mà là một cuộc hành trình gian
khổ kéo dài 3 tháng, đưa chúng tôi vượt gần 1000 cây số, ngược đường mòn Hồ Chí
Minh, và cuối cùng hướng về Hà Nội, thủ đô của miền Bắc. Thật là một cơn ác
mộng – một cơn ác mộng kinh hoàng nhất. Mỗi một bước, với tôi là một sự đau đớn
tận cùng thân thể. Các vết thương làm độc ngày càng tệ hại. Tử thần đã kề bên.
Cái chân bị thương đã sưng phù lên gấp đôi bình thường, với những vết nứt dài,
từ đó chảy ra một thứ mủ cực kỳ hôi tanh.
Bệnh tiêu chảy của tôi càng thêm tồi tệ, tôi còn bị tới 3 loại
sốt rét khác nhau cùng với vô số ký sinh trùng trong ruột. Mỗi cuối ngày, khi
tôi kết thúc cuộc hành trình trên dưới 10 cây số, thần chết cứ lảng vảng bên
cạnh. Mỗi buổi sáng, ngay sau khi thức giấc, tôi phải phấn đấu để cố đứng dậy,
máu dồn xuống cái chân bị thương cùng với sức nặng của thân hình đè xuống, tạo
ra một cảm giác đau đớn vô cùng tận. Và Trung-úy Xanh, mặc dù bản thân cũng
trong tình trạng hết sức tệ hại, luôn luôn hiện diện để khích lệ tôi, giúp đỡ
tôi với tất cả sức lực còn lại nơi anh.
Tới bữa chiều, chúng tôi được phát một nắm cơm nhỏ. Xanh nói với
tôi đây không phải là cách ăn uống bình thường của người Việt. Người Việt rất
coi trọng bữa ăn, và có nhiều món ăn ngon. Đừng đánh giá văn minh ẩm thực của
Việt Nam qua những gì chúng tôi đang được cấp phát. Tôi cố gắng duy trì đầu óc
khôi hài. Đây là một việc rất khó khăn nhưng tối cần thiết. Tinh thần là yếu tố
quan trọng nhất trong việc sống còn, và kể cả khi tình hình trở nên tuyệt vọng
nhất, óc khôi hài sẽ giúp bạn giữ vững được tinh thần – từ đó nảy sinh hy vọng.
Và trong việc này, Trung-úy Xanh cũng lại giúp đỡ tôi. Anh luôn luôn quan tâm
tới tôi, và làm bất cứ những gì anh có thể làm để giúp tôi giữ được lạc quan,
hy vọng. Vì thế, cho dù tình hình ngày càng tồi tệ, tôi chưa bao giờ mất hy
vọng, kể cả trong cái ngày mà đáng lẽ ra tôi đã chết, nếu như không có Xanh.
Mỗi ngày, tôi đã phải sử dụng toàn bộ ý chí để thức dậy, đứng
lên và bước đi. Rồi tôi phải phấn đấu hết mình trong suốt ngày hôm đó để tiếp
tục tiến bước trên con đường mòn dài vô tận. Tôi đã không còn đứng vững, nhưng
bằng cách nào đó, tôi vẫn hoàn tất mục tiêu của mỗi ngày, để sáng hôm sau mở
mắt chứng kiến thêm một bình minh nữa mà Thượng Đế đã ban cho.
Nhưng rồi tới một ngày tệ hại nhất trong đời. Tôi đã phấn đấu
hết mình. Tôi lảo đảo muốn ngã xuống. Tôi cố gắng vận dụng hết sức lực.. Tôi
loạng quạng bước đi. Rồi tôi lại lảo đảo, tôi cố gắng phấn đấu, tôi vận dụng
toàn bộ sinh lực còn sót lại, và tôi cầu nguyện xin có thêm sức mạnh. Rồi tôi
ngã gục, tôi bò dậy tiếp tục đi, nhưng rồi lại ngã gục. Tôi lại tiếp tục phấn
đấu, phấn đấu với tất cả những gì còn lại trong cơ thể, trong trái tim, trong
linh hồn.. Nhưng rồi tôi lại ngã gục, và lần này tôi không thể đứng dậy được
nữa. Ý chí của tôi vẫn còn, nhưng cơ thể đã hoàn toàn kiệt lực.
Cuộc đời của tôi đến đây là tận. Quân thù đến kia rồi; tên
vệ binh nhìn xuống, ra lệnh cho tôi bò dậy, nhưng tôi không thể. Hắn quát tháo
lớn hơn, tôi vẫn bất động. Coi như xong đời!
Nhưng Xanh đã tiến tới, vẻ mặt lo âu, cúi xuống nhìn tôi. Mặc cho
tên vệ binh quát tháo, xua đuổi, Xanh vẫn không chùn bước. Khi hắn quát tháo dữ
dội hơn, nét mặt Xanh bỗng trở nên đanh thép lạ thường, và bất chấp những lời
đe dọa của tên vệ binh, Xanh cúi xuống vực tôi dậy, rồi kê cái lưng ốm yếu cho
tôi gục lên, để hai cánh tay của tôi ôm vòng lấy cổ anh, hai cổ tay ghì chặt,
và với tư thế ấy, anh đã kéo tôi lết theo cho tới cuối ngày. Đôi lúc, có một tù
nhân khác tạm thay thế Xanh, nhưng phải nói gánh nặng trong ngày hôm ấy dồn hết
lên vai anh. Xanh là người đã bất chấp nguy hiểm tới tính mạng để lo lắng và
chăm sóc tôi cho tới khi kết thúc cuộc hành trình ngày hôm đó.
o O o
Sáng hôm sau, tôi trải qua mọi đau đớn thường lệ trong việc thức
dậy, đứng dậy và cố gắng lê lết cái chân bị thương trong những bước đầu tiên, để
tạo quyết tâm cho một ngày sắp tới. Tôi cảm thấy đau đớn như chưa từng thấy
nhưng vẫn cố gắng vận dụng ý chí để bước đi. Ngay phía bên ngoài cái trại vừa
dừng chân là cây “cầu” bằng một thân cây lớn bắc ngang một dòng nước chảy xiết
xen lẫn những tảng đá lớn. Tôi bắt đầu băng qua, cố gắng giữ thăng bằng nhưng
không còn sức lực mà cũng chẳng còn một chút ý thức gì về thăng bằng nữa. Cái
chân bị thương vô dụng kia đã hại tôi, kéo tôi nghiêng về một phía khiến tôi
loạng quạng và cuối cùng rớt xuống sông. Xanh và Wayne đang đi phía trước, vội
vàng quay trở lại phía bên này, lội xuống vào kéo tôi lên bờ. Họ năn nỉ đám
cộng sản cho phép cả toán tù binh tạm dừng chân tại trại này cho tới khi nào
tôi đủ sức tiếp tục cuộc hành trình, nhưng bị từ chối. Xanh và Wayne nhất định
không chịu rời tôi. Cho tới khi đám vệ binh tiến tới, dí súng vào người và lôi
cổ họ đi. Nhìn bóng hai người khuất dần cùng với toán tù binh, tôi biết mình sẽ
không bao giờ gặp lại Xanh trên cõi đời này nữa!
Bởi vì, như các bạn tù đồng cảnh ngộ đều biết, trong trường hợp
này, tôi bị bỏ lại trại để chết – như nhiều người khác đã chết. Thế nhưng không
hiểu vì nguyên nhân hay lệnh lạc nào đó, đám cộng sản lại quyết định chích
penecillin cho tôi trong mấy ngày liền. Tôi bắt đầu bình phục, và sau một
khoảng thời gian ngắn, đã có thể đứng dậy. Và ngay sau khi tôi đủ sức bước đi,
đám cộng sản đã ra lệnh cho tôi tiếp tục cuộc hành trình. Lần này, tôi đi chung
với một đoàn bộ đội di chuyển về hướng Bắc, một tay vệ binh được chỉ định đi
theo tôi làm công việc áp giải.
Cuộc hành trình cũng gian khổ như những đoạn đường đã qua, nhưng
với tôi, những gì kinh hoàng nhất đã được bỏ lại sau lưng. Thậm chí tôi còn có
cơ hội chạy trốn: một ngày nọ, khi đi tới một khúc quẹo và khuất tầm nhìn của
tên vệ binh đi phía sau, tôi đã bỏ chạy vào rừng. Nhưng rồi hắn đã mau chóng
lần ra dấu vết và đuổi kịp; mặc dù tỏ ra vô cùng giận dữ, hắn đã không bắn tôi
chết, mà chỉ hung hăng chĩa súng ra lệnh cho tôi quay trở lại. Sau đó, khi bắt
đầu tiến vào lãnh thổ Bắc Việt, tôi được cho nhập bọn với một đoàn tù binh
VNCH, và cuối cùng, tới Hà Nội. Nơi đó, sau khi đã trải qua mọi thủ tục và
nhiều nhà tù khác nhau, tôi được đưa tới “khách sạn Hilton – Hà Nội” lừng danh
(tức nhà tù Hỏa Lò), và ở đó cho tới khi được trao trả vào giai đoạn cuối của
cuộc chiến.
o O o
Ngay sau khi trở lại Hoa Kỳ, tôi đã đi tìm hỏi tin tức về
Trung-úy Xanh nhưng không có kết quả. Tôi đã tìm gặp các quân nhân Việt Nam
đang thụ huấn tại Mỹ, cũng không ai biết gì. Sau khi miền Nam rơi vào tay cộng
sản năm 1975, tôi càng ra sức tìm kiếm, để rồi lại bị thất vọng.
Mấy năm sau, tôi được dịp tái ngộ với một quân nhân VNCH đi
chung với tôi trong toán tù binh thứ nhất, cùng với một người khác trong toán
thứ hai, tên là Phạm Văn Tăng và Nghiêm Kế. Tôi nhờ họ giúp đỡ trong việc tìm
kiếm tin tức về Trung-úy Xanh. Lúc đầu, không có kết quả gì cả. Về sau thì có
tin đồn nói rằng sau khi Sài Gòn thất thủ, Xanh đã bị cộng sản bắt lại và có lẽ
đã chết sau nhiều năm gian khổ trong tù. Nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ có ngày
được biết đích xác những gì đã xảy ra cho Xanh, và có thể cả những tin tức liên
quan tới gia đình anh.
Trong những năm gần đây, tôi ra sức tìm kiếm trên internet,
nhưng luôn luôn thất bại. Thế rồi cách đây mấy tuần lễ, tôi tình cờ khám phá ra
trang mạng của các hoa tiêu bay khu trục A-1 Skyraider của Không Quân VNCH,
trong đó có một số người cùng phi đoàn với Xanh ngày trước. Tôi gửi cho “trang
chủ” mấy lời nhắn tin, và chỉ vài ngày sau, tôi đã liên lạc được với Xanh bằng
email, và sau đó qua điện thoại – lần đầu tiên sau 35 năm, chúng tôi mới được
nói chuyện với nhau. Tôi sẽ gặp lại Xanh trong một ngày gần nhất, có thể là mùa
thu này. Tôi sẽ được nhìn thấy anh lần đầu tiên kể từ cái ngày tôi nằm lại bên
đường mòn Hồ Chí Minh, mắt nhìn theo con người đã cứu mạng mình – đang bị vệ
binh dí súng cưỡng ép bước qua cây cầu, trong lòng đau đớn vì phải bỏ tôi ở lại
để chờ chết.
Xanh đâu có ngờ chính những cố gắng giúp đỡ tận tình của anh
trong những ngày đen tối nhất đời tôi, đã trở thành động lực để tôi phấn đấu
cho sinh mạng của chính bản thân mình – tôi không thể để uổng phí công lao của
Xanh. Tất cả những gì Xanh làm đã giúp tôi sống sót, và chính những hành động
quên bản thân của anh đã giúp tôi có thêm nghị lực và quyết tâm để vượt qua bất
cứ khó khăn, trở ngại nào trong thời gian chờ đợi ngày được trả tự do.
Xanh luôn luôn là một con người đáng ngưỡng phục. Và giờ đây anh
còn là một công dân Mỹ đáng quý. Tôi cám ơn trời đã cho tôi gặp được một người
bạn như Xanh – vào lúc mà tôi cần tới sự giúp đỡ của anh hơn lúc nào hết. Và
giờ đây, xin cám ơn trời một lần nữa, vì đã cho tôi tìm lại được người bạn quý
mến ấy. NGUYỄN VĂN XANH, một
người như mọi người!
William S. Reeder
Nguyễn Hữu Thiện phỏng dịch và đặt tựa.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment