Nguyễn thị Cỏ May
( Nhạc trong hình pls )
Học sinh ở Miền nam Việt Nam ngày xưa mong đợi Hè thường
không nhìn vào tờ lịch mà nhìn những cây Phượng trong sân trường. Khi thấy cây
Phượng trổ bông đỏ rực, học sinh bắt đầu thấy lòng xao xuyến vì sắp được nghỉ
học nhưng lại không khỏi buồn vì xa bạn, xa trường. Năm học sau, chắc chắn kẻ
còn trở lại trường, người đi nơi khác.
Ở xứ ôn đới, khi cái lạnh bắt đầu dịu lại, ngày bắt đầu
dài hơn, vạn vật cũng trỗi mình dậy sau một giấc ngủ dài, mọi người biết Hè lại
sắp về.
Học sinh vui mừng được nghỉ hai tháng và sẽ đi chơi với
gia đình.
Năm nay, ở một ngôi trường tiểu học nhỏ tại một vùng quê
miền Trung-Tây nước Pháp, để về nghỉ Hè, học sinh cả trường họp lại tổ chức một
buổi tối "Chia tay và tri ân 2 Cô Giáo” vì 2 Cô Giáo sẽ không trở lại
trường ngày nhập học năm tới. Hai cô sau buổi tối hôm ấy đi nghỉ hưu.
Một buổi chia tay biểu hiện sâu sắc tình nghĩa Thầy Trò
không khác gì ở thời xa xưa. Tham dự buổi lễ hay chỉ đọc báo địa phương tường
thuật, người Việt Nam cứ ngỡ là mình đang sống lại thời cực thịnh của quan hệ “Thầy
Trò” ở quê hương vì cứ chủ quan nghĩ văn hóa Việt Nam trọng tình cảm nên mới có
cảnh chia tay cảm động, mọi người không cầm được nước mắt, còn văn hóa Tây
thiên về duy lý nên khó
biểu lộ sự xúc động trong lòng.
Quan hệ Thầy trò ngày xưa ở Việt Nam
Theo cái học ngày xưa, người học trò tôn trọng thầy học
theo thứ bậc “Quân, Sư, Phụ”. Cha có công ơn sanh ta ra, Thầy là người dạy dỗ
cho ta nên người. Mối quan hệ Thầy trò được xem là cái Đạo - Đạo Thầy trò như
Đạo Cha con.
Qua cả ngàn năm bị Tàu đô hộ, người Việt Nam theo học chữ
và văn hóa Tàu nên bị ảnh hưởng văn hóa Tàu sâu đậm. Năm 939, Ngô Quyền đánh
thắng quân Nam Hán ở trận Bạch Đằng đem lại nền độc lập dân tộc cho Việt Nam. Nhưng
Việt Nam, cho tới thời Pháp đô hộ năm 1884, vẫn sử dụng chữ Hán và tổ chức xã
hội theo văn hóa Trung Hoa. Việc học và thi cử của dân chúng theo đó cũng không
tránh khỏi bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, việc dạy học và đi học được tự do, miễn
không dạy những điều vi phạm tới đạo đức, lễ nghĩa mà thôi. Riêng việc học hoàn
toàn miễn phí. Người học giỏi được xã hội trọng vọng.
Thầy Giáo thường là người học giỏi đỗ đạt cao nhưng không
chịu ra làm quan hoặc người học giỏi nhưng không đỗ đạt. Họ đều là người đạo
đức được mọi người kính trọng nên mới gởi con em tới để nhờ dạy dỗ.
Nhà trường là một căn hay một khoảng trống trong ngôi nhà
ở dành riêng ra làm lớp học cho vài mươi đứa trẻ trong làng. Người đi học không
phải trả tiền học mà chỉ tạ ơn Thầy bằng lễ vật như gạo, nếp, hoa quả của nhà kiếm
được. Học trò theo Thầy học, có khi chỉ với một ông Thầy, cho tới ngày thi đậu.
Nên tình nghĩa thầy trò rất sâu đậm. Học trò xem thầy như cha. Không như ngày
nay, lớp học đông, hết năm học, có thầy mới. Khi lên lớp lớn, có nhiều thầy
khác nhau, mỗi người dạy một môn học, với vài giờ. Lên Đại học, thầy trò càng
thêm xa lạ.
Thầy dạy học ngày xưa như Chu văn An, Võ Trường Toản,...
đời đời không quên tên tuổi.
Khi thầy chết, học trò phải để tang như để tang cha mẹ.
Thầy trò trong nhà trường mới
Nhà trường mới bắt đầu khi việc học chữ Nho và thi cử do nhà vua tổ chức chấm
dứt vào đầu thế kỷ XX để nhường chỗ cho nền Tây học do nhà nước thuộc địa cai
trị nước ta. Cái học mới dạy vừa chữ quốc ngữ, vừa chữ Pháp để đào tạo một lớp
người mới thay thế lớp Nho sĩ trước phục vụ chánh quyền thuộc địa.
Ngày 21 tháng 12 năm
1917, Nha Học Chánh Đông Dương ban hành chế độ giáo dục Pháp - Việt.
Nền giáo dục mới này là một sự cải tổ toàn diện, từ chữ
làm chuyển ngữ là chữ Quốc ngữ và chữ Pháp, cho đến cách tổ chức học vấn,
chương trình học và cách thi cử.
Trong nền học mới, Thầy giáo là một người chọn nghề dạy
học, được đào tạo để có đủ khả năng dạy theo chương trình của chánh phủ. Thầy
giáo được chính phủ tuyển dụng và bổ nhiệm, lãnh lương của chính phủ.
Trường học là cơ sở lớn, công cộng khang trang, lập ra
dành làm nơi dạy học cho cả trăm học sinh hay nhiều hơn.
Tuổi đi học từ 3 tuổi vào lớp Mẫu giáo cho tới 17-18 tuổi
học xong Trung học. Đây là lớp tuổi bắt buộc phải đi học.
Trường
Làng
Trường
Trung học Gia Long
Hệ thống giáo dục Pháp-Việt được chia làm nhiều cấp, mỗi
cấp gồm nhiều lớp.
Cấp Sơ Học gồm có 3 lớp, lớp Đồng Ấu hay lớp Năm (lớp1),
lớp Dự Bị hay lớp Tư (lớp 2), lớp Sơ Đẳng hay lớp Ba (lớp 3). Trường Sơ Đẳng
thường được mở ở làng. Cấp sơ học dạy chữ Quốc Ngữ. Bài học gồm có tập đọc, tập
viết, tập đặt câu bằng chữ Quốc Ngữ, và làm toán cộng trừ nhân chia, cách trí,
vệ sinh, đức dục. Lớp Sơ Đẳng bắt đầu dạy thêm một ít chữ Pháp.
Cấp tiểu học gồm lớp Nhì Nhất Niên (lớp 4 năm thứ nhất),
Lớp Nhì Nhị Niên (lớp 4 năm thứ hai), và lớp Nhất (lớp 5). Trường tiểu học công
lập được mở tại các Quận. Chữ Pháp là chữ chính được được dạy ở cấp này. Các
môn học có thêm Điạ dư, Sử ký, Cách trí, toán pháp, luận văn.
Học xong lớp Nhất học sinh thi Bằng Sơ Đẳng Tiểu Học. Đậu
xong bằng tiểu học thì học sinh được thi tuyển theo học cấp tiếp theo.
Chương trình giáo dục ngày xưa chú trọng đạo đức, lễ
nghĩa theo Nho giáo, và văn chương. Chương trình giáo dục ngày nay trọng khoa học nhiều
hơn.
Ngày nay, sự liên hệ thầy trò không còn sâu đậm và tôn
quí như thời của nền học vấn chữ Nho.
Do đó, quan niệm địa vị của thầy giáo đối với học sinh
cao hơn địa vị của cha mẹ không còn hợp lý nữa trong nền giáo dục mới.
Mặc dầu thời gian và tổ chức giáo dục ngày nay hoàn toàn
thay đổi khác hẳn tổ chức giáo dục ngày xưa, nhưng với truyền thống trọng văn
hóa, giáo dục từ mấy ngàn năm qua của người Việt Nam, thầy giáo bao giờ cũng
được học sinh kính trọng như kính trọng cha mẹ mình vì “trọng thầy mới được làm
thầy ".
Một gương sáng Thầy trò ở Pháp ngày nay
Hôm 5 tháng 7 vừa qua, trường Tiểu học ở một làng nhỏ của tỉnh Vienne,
Pháp, nơi Bà Hélène Fillet làm Hiệu trưởng bãi trường. Hội phụ huynh, các Thầy cô giáo cũ mới,
Hội đồng Xã họp lại cùng tổ chức một buổi tiệc tiễn hai bà giáo già về hưu. Bà
Hélène làm việc 17 năm tại đây, Hiệu trưởng 12 và 5 năm dạy học. Bà Françoise
Bellanger, bạn của Hélène, đến nhận việc cùng ngày, về hưu cùng ngày. Thật cảm
động. Học trò tất cả các lớp hát, làm kịch kể những vui buồn với hai cô giáo, những
thói quen của hai cô. Học trò nay, có những người già nhứt là 25 tuổi, 23 tuổi,
có hai con, một trai, một gái, đẩy xe tới tham dự lễ. Một cô bé, lúc xưa, trước
khi Hélène làm cô giáo, đến học làm nghề service ở quán ăn nhà, sau đó học nghề
y tá, và làm việc ở Nhà thương Montmorillon, cùng chồng có nhà ở La Trimouille
(cách Montmorillon 12 cây số) nay có chân trong Hội phụ huynh, có hai đứa
con một đứa là học trò của Hélène hôm nay cũng có mặt.
Tất cả trên 400 người khách, tặng bông hoa cho 2 Bà Giáo đi hưu trí, ăn uống
từ 18 giờ đến mãi 22 giờ mới về. Trời chiều mùa Hè nên 10 giờ đêm trời vẫn còn
sáng, nhiều người còn kéo nhau ra sân cỏ uống rượu và nói chuyện vui. Gia đình
của Bà Giáo Hélène đều có mặt tham dự tiệc.
Ở cấp tiểu học, nhơn viên vừa dọn ăn vừa chăm sóc học sinh ăn uống.
Nhiều khi nhơn viên phải cắt thịt và đút cho các trẻ con ăn uống chu đáo.
Ở Pháp phần ăn uống buổi trưa do làng xã trách nhiệm. Bữa ăn đều có Bác sĩ theo
dõi để bảo đảm cho đủ thành phần dinh dưỡng. Phần ăn của học sinh đều được Hội
phụ huynh để mắt chăm sóc để trẻ con ăn uống đúng tiêu chuẩn và hạp vệ sinh.
Học sinh nhà nghèo đều có sự giúp đỡ.
Hiệu trưởng cũng phải có mặt trong tất cả mọi sanh hoạt từ nghề nhà giáo
đến việc quản lý đời sống con trẻ. Suốt buổi tối nói chuyện với các Hội đồng
Xã, với bà Bác sĩ xã hội, với bà Tâm lý con trẻ... mới thấy tài nghệ của Bà
Hiệu trưởng khôn khéo, luôn luôn giữ lèo lái, cho làm sao trường mình lúc nào
cũng đạt những đòi hỏi của học trò mình. Từ sửa sang tu bổ nhà trường, trồng
thêm cây, vườn trẻ, sắp xếp thứ tự, sơn phết để trường lúc nào cũng sạch sẽ
khang trang.
Lễ tiễn hai Bà Giáo đi hưu trí vừa để
nói lên lòng biết ơn sâu xa của học sinh, của phụ huynh và Chánh quyền thị xã
thật long trọng. Tờ báo địa phương tới và viết một bài tường thuật rất đầy đủ:
“Phòng khánh tiết mới của Thị xã nay
được những bàn tay bé nhỏ của học sinh Tiểu học trang hoàng đẹp đẽ để làm
nơi tổ chức buổi lễ tiễn 2 Bà Giáo đi hưu trí. Từng toán một học trò dưới quyền
đạo diển của Cô Isabelle Léon tiến lên sân khấu trình diễn những vở kịch hài
hước, những thoại kịch, hát những bài hát vui,... Tất cả đều nhằm kể lại thời
gian qua hai Cô Giáo kính yêu giảng dạy học trò.
Bà Hélène Fillet, đầu tiên, năm 1995,
tới trường Tiểu học công lập La Trémouille và dạy lớp Dự Bị. Năm 2000, Bà làm
Hiệu trưởng nhưng vẫn dạy lớp Dự Bị cho tới ngày nghỉ hưu.
Bà Françoise Bellanger, sau nhiệm sở đầu
tiên ở La Bressuire niên học 1993 - 1994, cũng tới La Trémouille năm 1995 nhận
dạy lớp Vở Lòng cho tới ngày hôm nay.
Các quan khách, bạn bè, phụ huynh tặng
cho 2 Bà nhiều bông hoa và đồ vật kỷ niệm.
Hai Bà từ nay ra “sân chơi” dài hạn, mang theo cái bàn làm việc của mình với tất
cả những hình trang trí do học sinh của mình, theo suốt thời gian giảng dạy,
tại một nơi, trong một phòng lớp, vẻ tô” (PVS dịch).
Qua mấy ngàn năm lịch sử, quan niệm của
con người về cuộc sống có thể thay đổi, vấn đề học vấn có thể thay đổi cho hợp
với sự tiến hóa của xã hội, khoa học, văn minh của thời đại mới, nhưng chức
năng của người thầy giáo không bao giờ thay đổi, đó là đem học thức, hiểu biết
của mình đã học hỏi được truyền lại cho lớp người trẻ của thế hệ nối tiếp.
Qua lễ “Tiễn đưa và Tri ân” 2 Cô Giáo đi hưu trí hôm 5
tháng 7 vừa qua ở trường Tiểu học của làng La Tremouille, không ai có thể nói
là người Phương Tây duy lý thiếu tình cảm sâu sắc như người Á đông.
Việt Nam là một nước thường tự hào có hơn bốn ngàn năm
văn hiến, ngày nay cũng khó tìm được một trường hợp thể hiện tình Thầy trò như
vậy. Vì “nhà trường xã hội chủ nghĩa là nơi thầy không muốn dạy, trò
không muốn học!” thì làm sao có thể có được những tình cảm chơn thật?
Nguyễn thị Cỏ May
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment