Friday, May 17, 2013

VN bơm 30 nghìn tỷ cứu bất động sản TRỰC TIẾP HAY GIÁN TIẾP ĂN CƯỚP TIẾT KIỆM CỦA DÂN


 

VN bơm 30 nghìn tỷ cứu bất động sản

Cập nhật: 10:16 GMT - thứ năm, 16 tháng 5, 2013
Tồn kho bất động sản, nhất là ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh vẫn rất cao
Bộ Xây dựng và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tung ra 30 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ cho thị trường bất động sản.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký thông tư hướng dẫn cho vay hỗ trợ mua nhà ở.

Các bài liên quan

Chủ đề liên quan

Thông tư được đại diện Ngân hàng Nhà nước ký cùng với Bộ Xây dựng 15/5 và 5 ngân hàng thương mại khác bao gồm BIDV, Vietcombank, VietinBank, Agribank và MHB.

Tái cơ cấu, giải quyết đầu ra

Thông tư của Ngân hàng Nhà nước tập trung khá nhiều xung quanh vấn đề tái cơ cấu nguồn cung và giải quyết đầu ra để xử lý tồn kho bất động sản.
Thời gian cho vay đối với các đối tượng là người mua, thuê hay thuê mua là 10 năm, trong khi đó là 5 năm, đối với các doanh nghiệp. Thời gian hỗ trợ lãi suất tối đa cũng tương tự nhưng không vượt quá thời điểm 1/6 năm nay.
Lãi suất trong thời hạn cho vay, mặc dù không phải là cố định và có thể thay đổi hàng năm (được thông báo bởi Ngân hàng Nhà nước), nhưng sẽ không vượt quá 6% trong thời hạn cho vay.
Ngoài ra, lần này đối tượng cho vay cũng được mở rộng cả đối với người dân có nhu cầu về nhà ở thương mại mà có diện tích dưới 70m2 và giá bán dưới 15 triệu đồng/m2.
Các doanh nghiệp đầu tư nhà ở xã hội và các chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại chuyển công năng sang thành dự án nhà ở xã hội cũng được hỗ trợ 30% số vốn 30 nghìn tỷ đồng này.

Tồn kho tiếp tục tăng

Lãi suất ưu đãi được cho là thấp hơn 50% so với lãi suất cho vay bình quân các ngân hàng trên thị trường
Lượng tồn kho của bất động sản trong đầu năm 2013 vẫn tiếp tục tăng.
Theo thống kê đại diện Cục Quản lý Nhà và Thị trường bất động sản đưa ra đầu tháng 5, trong quý một năm nay, lượng căn hộ tồn kho đã tăng lên đến 20%, tương đương 33.852 căn hộ, đất nền tồn kho hơn 1 triệu m2.
Cũng theo thống kê của cục này, ở thành phố Hồ Chí Minh, trong 121 dự án đã tồn kho hơn 30 nghìn tỷ đồng. Tại thị trường Hà Nội tồn kho hơn 14 nghìn tỷ đồng.
Tuy nhiên con số này chỉ tính các dự án đã hoàn thành hoặc đang thi công nhưng chưa bán được mà không tính các dự án chưa triển khai cũng như mới giải phóng mặt bằng.
Nhiều doanh nghiệp bất động sản đang gặp khó khăn vì tâm lý người dân vẫn đang chờ đợi, theo dõi diễn biến thị trường. Trong khi đó, các ngân hàng vẫn siết chặt vốn vay.
Số liệu do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đưa ra ngày 14/5 cho thấy tăng trưởng tín dụng trong quý một năm nay chỉ ở mức 0,03%, gần như đứng tại chỗ.
 

__._,_.___

 

 
ĐẢNG CSVN CẢ LŨ
TRỰC TIẾP HAY GIÁN TIẾP
ĂN CƯỚP TIẾT KIỆM CỦA DÂN
 
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 09.05.2013
 
              Tuần trước, ngày 09.05.2013, viết bài CSVN IN TIỀN CHO VÀO LƯU HÀNH ĂN CƯỚP TIẾT KIỆM CỦA DÂN, chúng tôi nhấn mạnh đến Lạm phát ở khía cạnh Tiền tệ bằng cho Tiền mới in vào Khối Tiền đang lưu hành. Có độc giả nêu thắc mắc tại sao Chủ tịch FED Hoa kỳ, Giáo sư Tiến sĩ BERNANKE, cũng đã dùng biện pháp Phát hành tiền mới vào lưu hành để cứu vãn Kinh tế Mỹ trong thời kỳ đình trệ thiếu vốn. Chúng tôi xin trả lời vớ ba lý do của FED như sau:
1)           Khối Dollar lưu hành tại Hoa kỳ và trên Thế giới với lượng khổng lồ. Việc tăng tiền mới sánh với khối tiền lưu hành khổng lồ ấy chỉ như muối bỏ bể. Hãy tưởng tượng ngoài Hoa kỳ, hầu hết các Ngân Hàng trên Thế giới đều giữ dự trữ bằng đồng Dollar. Tỉ dụ Khối Dllar lưu hành ở Hoa kỳ và trên Thế giới là 100’000’000 tỉ. Nếu chỉ thêm vào lưu hành 1’000 tỉ, thì độ nhúc nhích Lạm phát mới chỉ có 0.000001% không thấm vào đâu cho Lạm phát. Ngoài ra tăng Lạm phát này lại được chia ra một phần tương đối nhỏ cho Hoa kỳ, mà một phần lớn cho lưu hành Dollar trên Thế giới. Trong khi ấy, khối Tiền Đồng lưu hành ở Việt Nam là khối nhỏ, nên việc tăng Tiền mới cho vào lưu hành mang tầm Lạm phát lớn.
2)           Chủ tịch FED tăng Tiền mới vào lưu hành khối Dollar của Hoa kỳ và trên Thế giới lại dưới hình thức dài hạn chứ không ngắn hạn như trả lương, mua nợ cấp bách như ở Việt Nam, nghĩa là độ tăng 0.000001% tại Hoa kỳ được tản ra dài hạn trong hàng chục năm trong khi ấy độ mất giá của Tiền Đồng VN xẩy ra cấp thời.
3)           Việc tăng Tiền mới in cho Khối lưu hành Dollar tại Hoa kỳ là nhằm nới rộng vốn cho lãnh vực sản xuất Kinh tế thực. Thực vậy, theo Công thức của Fisher (MV/T)=P, thì nếu tăng MV (Khối Tiền tệ) để T (lượng sản xuất Kinh tế thực) cũng tăng cùng một tốc độ, thì việc Lạm phát Tiền tệ được hóa giải. Tại Việt Nam, việc tăng Tiền mới ngắn hạn bằng trả lương công chức hay mua nợ, trong khi ấy lượng sản xuất của Kinh tế thực của các Tập đoàn Kinh tế quốc doanh, không những không tăng mà lại giảm xuống, thì ảnh hưởng lên Lạm phát sẽ là bình phương.
              Nếu học tại Havard về tài chánh mà áp dụng những nguyên tắc tài chánh Mỹ cho Việt Nam với mô hình Kinh tế Tập quyền định hướng “Xã Hội Bóc Lột “ thì trật lấc.
              Lạm phát tăng vọt, Đồng Tiền mất giá là ăn cướp Tiết Kiệm của Dân. Nhà Nước in Tiền mới cho vào lưu hành làm mất giá đồng tiền là trực tiếp ăn cướp Tiết Kiệm. Các Tập đoàn , Tổng Công ty Nhà nước giảm lượng sản xuất Kinh tế thực là gián tiếp ăn cướp Tiết Kiệm qua ngả Lạm phát.
              Trong bài của tuần trước, chúng tôi nói đến việc ăn cướp trực tiếp. Trong tuần này, chúng tôi đề nhấn mạnh đến việc ăn cướp gián tiếp Tiết Kiệm của Dân do các Tập đoàn, Tổng Công ty quốc doanh. Chúng tôi xin đề cập đến những khía cạnh sau đây:
=>          Tình trạng Lạm phát, mất giá đồng Tiền VN đã liên tục xẩy ra từ lâu và tích lũy
=>          Cung cách sử dụng vốn của các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước
=>          Hiệu năng sản xuất yếu kém của các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước
=>          Kết luận Nhà Nước CSVN đáng cho Dân dứt bỏ hẳn
 
Tình trạng Lạm phát, mất giá đồng Tiền VN
đã liên tục xẩy ra từ lâu và tích lũy
 
              Phá giá đồng nội tệ đi song hành với tình trạng LẠM PHÁT tăng nhanh ở Việt Nam. Viết về tình trạng tăng nhanh lạm phát, chúng tôi cũng trích dẫn chính những phân tích và nhận định của những nhà Kinh doanh, những Ngân Hàng gia, những Giáo sư Kinh tế/Tài chánh từ Quốc nội để đám Mafia CSVN không chống chế, lừa gạt được Dân chúng bằng cách cố hữu nói trên báo đài độc chiều rằng đó là do “thế lực thù địch” hải ngọai vu khống.
              Một số Phóng viên, Ký giả đã phỏng vấn những Giáo sư, Cố vấn Kinh tế/Tài chánh tại quốc nội về tình trạng Lạm phát hiện nay. Chúng tôi xin trích đăng lại một số phát biểu trong Bài đăng trên Vietnamnet do Phước Hà thực hiện (Cập nhật lúc 18:37, Thứ Năm, 28/02/2008 (GMT+7))
              Chỉ số tăng giá tiêu dùng hai tháng đầu năm lên đến 6,02%, đã đi được 2/3 so với chỉ tiêu Quốc hội đề ra, trong khi vẫn còn 10 tháng ở phía trước. Các chuyên gia kinh tế tỏ ra không có nhiều bất ngờ và cho rằng cần có các giải pháp đồng bộ hơn để chặn đứng lạm phát.
*            Ông Cao Sỹ Kiêm, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, Chủ tịch Hiệp hội DN vừa và nhỏ Việt Nam:
              “Tốc độ tăng giá 2 tháng đầu năm lên tới 6,02% là quá cao. Đặc biệt, có những nguyên nhân chủ quan, trong đó có một nguyên nhân chính là ngân hàng đã bỏ lượng tiền lớn ra mua USD chưa thu về hết được, đầu tư nhưng hiệu quả còn thấp, ngân sách bội chi tăng lên.” 
*            Giáo sư TSKH Ngô Trí Long, Học viện Tài chính:
              “Con số 6,02% tăng cao quá. Nhìn cả một quá trình, đây là tăng cao nhất trong hơn 10 năm lại đây. Đây là một cảnh báo đối với nền kinh tế. Những tháng tới, nếu có tăng 0,5% thôi như dự báo tháng 3 của Tổ điều hành thị trường, thì cả năm cũng không thể thực hiện nghị quyết Quốc hội đề ra. Biện pháp tiền tệ đã được thực hiện. Giá cả đang lao nhanh như thế thì những biện pháp ra chỉ có tính ngăn chặn thôi. Trong kiềm chế lạm phát, giải pháp tài chính tiền tệ có ý nghĩa quan trọng, trong đó giải pháp tiền tệ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Lạm pháp do tiền tệ !”
*            Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam
              “Việc chống lạm phát năm 2008 này phải được đặt lên ưu tiên hàng đầu, hơn cả mục tiêu tăng trưởng. Vì suốt bốn năm liền lạm phát cao, cộng lại đã lên tới 40%. Điều này đồng nghĩa với việc đồng tiền mất giá, đội giá thành sản phẩm lên cao, tăng thêm dự án treo, còn đời sống người dân bị ảnh hưởng nặng.
              Như vậy, về phương diện đối nội, phân phối nguồn lực đã bị lệch và tác động đến đời sống.
              Cùng điều kiện, hoàn cảnh, các nước trong khu vực lạm phát thấp hơn của mình. Nếu môi trường VN vẫn bất ổn, lòng tin của nhà đầu tư sẽ giảm đi, ảnh hưởng đến cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư bỏ đi cũng sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn.
              Lạm phát ảnh hưởng cũng sẽ làm cho sức cạnh tranh trong nước giảm đáng kể.
              NHNN cũng đã vừa sử dụng kết hợp cả hai loại biện pháp dài hạn và tức thì. Biện pháp hành chính như bán 20.300 tín phiếu.
              Ngay sau đó NHNN lại bơm ra 39.000 tỷ đồng. Điều này khiến sự vận động của dòng tiền thành bất thường, gây hiệu ứng tiêu cực.”
*            GSTS Vũ Văn Hóa, Trưởng Khoa Kinh Tế Tài Chánh - Đại Học Quản Lý Kinh Doanh, chia sẻ them về vấn đề này:
              “Ngân Hàng Nhà Nước quyết định tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng USD và tiền đồng VN tăng thêm 603 đồng tương đương với 3,3%. Tôi cho rằng việc này cũng coi như một sự phá giá của đồng VN, tức là cái tình trạng nhập siêu của Việt Nam ngày nay lại càng gia tăng. Mà hiện nay, nếu theo tỷ giá này thì nó càng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu, điều đó là điều hiển nhiên rồi.”
              Theo Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, trong 4 năm, đồng Tiền VN mất giá 40%. Điều này có nghĩa là việc mất giá của đồng tiền VN không phải là có tính cách nhất thời, giai đọan với những lý do bất thường mà Nhà Nước CSVN thường nêu ra để cắt nghĩa cho dân chúng để chữa lỗi. Lý do mất giá đồng Tiền Việt Nam mang tính cách thường xuyên và trường kỳ.
              Dưới chủ trương Kinh tế tập quyền chỉ huy, chúng tôi không nói đến làm gì vì nền Kinh tế này thất bại hòan tòan. Nhưng hãy kể từ 10 năm nay, từ thời đổi mới, mở cửa và tuyên bố chấp nhận nền Kinh tế Tự do và Thị trường, thì đồng Tiền VN có thể nói là mất giá 100%, nghĩa là lạm phát, vật giá tăng 100%.
 
Cung cách sử dụng vốn
của các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước
 
              Những Công ty, Tổng Công ty Nhà Nước làm việc với vốn, Tiền của quốc gia. Vốn, Tiền của quốc gia được thả lỏng cho những Công ty Nhà Nước. Những dự án thi nhau trình lên Nhà Nước để lấy vốn. Phải có dự án, thì mới có dịp ăn bẩn ăn thỉu. Thi đua dự án có nghĩa là thi đua cắt xén “đúng chỉ tiêu “. Có ba lọai dự án chính:
*            Những dự án thuộc ngành nghiệp chuyên môn
*            Những dự án thuộc hệ thống Bộ
*            Những dự án thuộc vùng, mỗi Tỉnh
              Thời kỳ đầu của đổi mới, mở cửa, những dự án của những Công ty quốc doanh được coi như việc thưởng công chiến tranh. Dần dần sau này, những dự án dễ dàng được cấp vốn thường là do những con ông cháu cha có quyền trong đảng.
              Việc cấp vốn là theo tiêu chuẩn liên hệ quyền hành trong đảng, chứ không tất nhiên theo tieo tiêu chuẩn cần thiết và hiệu quả Kinh tế. Ví tính cách liên hệ quyền lực trong đảng, nên việc kiểm sóat xử dụng vốn cũng không thể xiết chặt giữa các quyền lực trong đảng được bởi lẽ cùng ăn bẩn như nhau thì bỏ qua những bẩn thỉu của nhau. Những chủ dự án nếu làm ăn không thành công hay thua lỗ, thì đã có vốn nhà nước cấp phát thêm.
              Đối với mỗi dự án từ vốn nhà nước, trước hết chủ dự án phải nghĩ đến cắt xén cho túi riêng mình. Sau đó việc chi tiêu trong Công ty hay Tổng Công ty cũng không được người Trách nhiệm kiểm sóat chặt chẽ bởi lẽ nếu người Trách nhiệm khắt khe kiểm sóat, thì những người dưới kiểm sóat ngược lại khắt khe với mình. Đây là cả hệ thống lãng phí vốn quốc gia.
*            Chúng tôi xin trích bài viết của Bloger Người Buôn Gió :
              “Phát triển kinh tế hay tư duy nhiệm kỳ?
              Mấy chữ “tư duy nhiệm kỳ” nghe mà phát ghét. Ở đó bao hàm tất cả những cái gì là hủ bại nhất trong tính cách dân tộc, nhất là cái tính cách ăn xổi ở thì. Ăn xổi ở thì thì làm bất kỳ việc nào cũng cốt qua loa cho xong đi, để mà còn nặng túi trở về với gia đình, chăm sóc cái tổ ấm vốn đã lo đâu vào đấy trong khi đang tại chức. Cho nên mọi việc anh làm, tiếng là vì dân, nhân danh thật to tát, cuối cùng chỉ là đổ vỏ ra đấy để cho kẻ đến sau đi hót. Và chu trình cứ thế lặp đi lặp lại, trở thành một đại họa cho dân. Một thành phố Hà Nội mà càng cải tạo lại càng nhếch nhác chẳng phải vì thế thì còn gì. Nghe đâu ngài đương kim trọng thần của nhiệm kỳ này đang cố tranh thủ một mảnh đất nào đấy ở Hồ Mây, cái đích ngài cố ngắm cho trúng, chứ đâu phải là nghĩ suy về những quy hoạch tổng thể cho Hà Nội ngàn năm “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như cụ Hồ nói. Trách gì mới vài năm trước khi nước mưa biến cả thành phố thành sông thì có vị quan to đã có ngay một câu thật nổi tiếng: Dân Hà Nội bây giờ quen dựa dẫm vào Nhà nước mất rồi. Thì chính là vì dựa dẫm vào Nhà nước mà dân chúng Thủ đô chúng tôi cứ tưởng rồi sẽ có đường phố khang trang, đi lại thông thoáng hơn, nào hay bây giờ ra đường đã thấy ngay những con đường do Nhà nước cải tạo đã đang tắc ứ. Còn các khu Hà Nội mới mở từ khi Thủ đô ta giải phóng đến nay nhất là từ khi có đồng vốn vay nước ngoài để làm kinh tế thị trường, thì nhiều nơi lại còn ngõ ngách chật hẹp, chen chúc, lúc nhúc còn hơn cả Hà Nội 36 phố phường thuở xưa. Những nơi ấy xe cộ tha hồ mà tắc.”
              Những Giáo sư, Cố vấn Kinh tế cho Cơ Chế CSVN, không ai không nhắc đến lý do thiếu kiểm sóat chặt chẽ Tiền, Vốn của Nhà Nước.
*            Ông Cao Sỹ Kiêm, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, Chủ tịch Hiệp hội DN vừa và nhỏ Việt Nam nói đến “đầu tư nhưng hiệu quả còn thấp, ngân sách bội chi tăng lên.” 
*            Giáo sư TSKH Ngô Trí Long, Học viện Tài chính, nhấn mạnh “Chính sách tài chính  phải xem lại để làm sao chi đầu tư phải hiệu quả, chi thường xuyên phải tiết kiệm, cái nào cần phải giảm, cái nào phải bỏ. Đầu tư phải hiệu quả, mua sắm tài sản công phải tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí... Chi tiêu công phải siết chặt lại, chống lãng phí, tiết kiệm tiêu dùng, tiết kiệm sản xuất - hạ giá thành sản phẩm, đầu tư hiệu quả.”
*            GSTS Vũ Văn Hóa, Trưởng Khoa Kinh Tế Tài Chánh - Đại Học Quản Lý Kinh Doanh, nói thẳng đến các Dự án và chi tiêu của Chính phủ: ”Theo các chuyên gia kinh tế nhận định thì rất nhiều công trình có đầu tư lớn của nhà nước đang còn dở dang và những công trình này không thể ngừng lại được. Để giải quyết chúng nhà nước phải chấp nhận bỏ thêm một số tiền rất lớn trong ngân sách. Bây giờ không thể kềm chế được cho nên biện pháp quan trọng nhất hiện nay là phải xem xét lại, tức là cơ cấu lại các khoản chi thường xuyên của chính phủ. Còn các công nghiệp khác ở trong nước thì ODA và FDI rất là ít cho nên chúng tôi cũng chưa biết là chính phủ sẽ làm như thế nào, nhưng mà chúng tôi cũng có khuyến cáo là chính phủ nên xem xét lại, tức là cơ cấu lại các khoản chi của chính phủ, không dàn trải, phải nâng cao hiệu quả.
              Khi lượng Tiền, Vốn bỏ ra, thả lỏng cho những Dự án chuyên môn, cho những Dự án Bộ hay những Dự án Địa phương (Tỉnh), mà hiệu quả Kinh tế không đạt được, thì đồng Tiền không Hội nhập đầy đủ, nghĩa là không có tương đương Hàng hóa hay Dịch vụ bảo đảm Giá trị của đồng Tiền.  Đồng Tiền mất giá, lạm phát đã nhiều năm trường là do sự thả lỏng này. Nhà Nước lấy Tiền, Vốn đâu mà thả lỏng ra như vậy ? Tại sao không có thể nghĩ rằng trong suốt những năm trường, Nhà Nước độc tài đã ra lệnh cho Ngân Hàng Nhà Nước in tiền mới (chưa Hội nhập Kinh tế), thả vào nền Kinh tế để đánh lận với đồng Tiền thực (đã Hội nhập Kinh tế) mà dân chúng đang giữ.
 
Hiệu năng sản xuất yếu kém
của các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước
 
              Người làm Kinh tế có câu nói: “Làm ra Tiền đã khó, mà tiêu Tiền còn khó hơn”. Thực vậy, tiêu Tiền không phải là vất Tiền ra cửa sổ. Tiêu Tiền theo ý nghĩa Kinh tế là phải làm thế nào để một đồng chi ra, phải thu vào tối thiểu hơn một đồng, nghĩa là nếu không có lợi nhuận, thì thà đừng tiêu. Việt Nam cũng có câu :”Tiêu Tiền Chùa”, nghĩa là tiêu Tiền của chung thì dễ dàng phung phí, không cần nghĩ đến hiêu quả. Phải nghĩ đến hiệu quả trước khi quyết định chi tiêu.
              Những Công ty, Tổng Công ty quốc doanh không làm ăn cho có hiệu quả tương xứng vì những lý do sau đây:
*            Đây là Công ty Nhà Nước, lợi nhuận làm ra do cố gắng làm việc hữu hiệu, cũng thuộc về Nha Nước. Vì vậy không cần cố gắng nhiều.
*            Người đứng trách nhiệm Công ty nghĩ đến cắt xén thưởng công cho mình trước khi làm Kinh tế thực sự để sinh lợi nhuận.
*            Những sản phẩm công nghệ ngày nay là sự chắp nối những linh kiện rời trong hệ thống sản xuất từng phần (sous-traitance). Những Công ty Nhà Nước khó lòng phân công với nhau để sản xuất từng phần trong mục đích giảm giá thành sản phẩm cuối cùng. Những Công ty công nghệ Nhà nước chọn những dễ dãi là nhập siêu những thành phần từ nước ngòai để đem về ráp nối chặng chót. Vì vậy sản phẩm chặng chót có giá thành cao lên vì nhập siêu những linh kiện.
*            Mỗi lần nhập siêu linh kiện là mỗi lần những chủ Công ty nhà nước lại có dịp thông đồng kín đáo với người bán từ nước ngòai để tăng giá mua, cắt xén cho vào túi riêng của mình.
*            Cuối cùng, nếu Công ty không làm việc cho có hiệu lực, thua lỗ, thì đã có Tiền, Vốn quốc gia bù thêm vào.
              Theo Công thức tóm tắt của FISHER mà chúng tôi đã cắt trong bài viết tuần trước và mới nhắc lại trên đây, thì khi nền Kinh tế không có hiệu quả, số sản phảm (T) giảm, thì Khối Tiền lưu hành (M.V) không có Hàng hóa và Dịch vụ tương xứng. Đồng Tiền mất giá, lạm phát, đồng tiền mua được ít hàng, nghĩa là vật giá tăng.
*            Bloger Người Buôn Gió viết rất đúng về thái độ làm việc của những người trách nhiệm các Công ty Nhà Nước:” Các kế hoạch xây dựng càng xây càng hỏng, nào hầm Thủ Thiêm, đường hầm Kim Liên…; có nhà máy như Dung Quất tưởng đã vận hành từ  lâu thì nay lại phát hiện thêm 100 lỗi trong khi thi công nên phải tạm ngưng, không biết sẽ còn ngưng đến bao giờ. Các đại tập đoàn đứng sau Nhà nước, tưởng lập ra là cốt tăng thêm GDP, giúp cho an sinh được cải thiện, dân đỡ khổ hơn, nào hay anh nào cũng dài mồm than lỗ, mới ra Tết mọi thứ sản phẩm của họ đã tăng giá vùn vụt, nghĩa là họ chỉ góp phần vào bĩ cực mà chẳng thấy có thái lai.”
*            Giáo sư TSKH Ngô Trí Long, Học viện Tài chính, nhấn mạnh như một hiệu lệnh: “Đầu tư phải hiệu quả”.    
*            GSTS Vũ Văn Hóa, Trưởng Khoa Kinh Tế Tài Chánh - Đại Học Quản Lý Kinh Doanh, cũng nhất thiết khuyến cáo: “Phải nâng cao hiệu quả”.
*            Chúng tôi xin trích một đọan của bài viết của Oâng VŨ QUANG VIỆT đăng trên báo Lao Động (số 197, ngày 25.8, và số 198, ngày 27.8.2007) :“Tôi rất đồng ý với các nhà kinh tế đã nhận định là ở bất cứ đâu và bất cứ thời điểm nào lạm phát có nguyên nhân in tiền nhiều quá. Tại sao lại in tiền nhiều ? Vì nhà nước chi nhiều hơn số thuế thu được. Vấn đề là nhà nước bắt ông Ngân hàng Nhà nước mua trái phiếu. Điều này có nghĩa là bắt NHNN in tiền. Tiền nhiều hơn hàng làm ra thì tất phải lạm phát. Thời chống lạm phát cuối những năm 1980, hầu hết mọi người trong chính phủ đều cho rằng phải tăng năng suất, phải tăng cung để giảm lạm phát. Tôi đã đặt cho các bạn ấy một câu hỏi. Thế khả năng tăng sản xuất thật một năm là bao nhiêu ? Cao nhất như Trung Quốc thì cũng chỉ 10-15% là cùng, nhưng các ông lại đang tăng tiền tới cả vài trăm phần trăm một năm. Các ông có tăng sản xuất nổi vài trăm phần trăm một năm không ?“
 
Kết luận: Nhà Nước CSVN
đáng cho Dân dứt bỏ hẳn
 
              Xin nhắc lại lời của Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, nói: “Cùng điều kiện, hoàn cảnh, các nước trong khu vực lạm phát thấp hơn của mình.“. 
              Có lẽ Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, không dám nói ra một điều làm Việt Nam khác với các nước trong khu vực vì ngại sợ rằng Công an CSVN lại mời ông lên làm việc, rồi truy tố ông ra tòa theo Điều 88 Bộ Hình Luật. Riêng tôi, tôi đã nói từ lâu rằng cái Cơ Chế CSVN làm Kinh tế, gọi là nền Kinh tế Tự do và Thị trường định hướng XHCN, khác hẳn với việc làm Kinh tế Tự do và Thị trường ở những nước trong khu vực. Nền Kinh tế Tự do và Thị trường của những nước trong khu vực tôn trọng Môi trường Chính trị—Luật pháp dân chủ phù hợp (Environnement Politico-Juridique démocratique adéquat), trong khi ấy Việt Nam cố thủ chủ trương Chính trị độc tài nắm trọn độc quyền Kinh tế. Cái khác là ở chỗ đó và chính cái khác này làm cho Lạm phát và đồng Tiền mất giá cao hơn nhiều sánh với những nước trong khu vực.
              Kinh tế Việt Nam là Kinh tế nhóm đảng Mafia CSVN độc tài cướp bóc của cải dân chúng và quốc gia cho riêng mình, chứ không phải nền Kinh tế do Dân và cho Dân. Vì nắm giữ cả hai quyền, nên Tiền, Vốn nhà nước bỏ lỏng ra để Khối Tiền lưu hành (M.V) tăng theo ý đảng và họat động Kinh tế không cần hiệu quả để không đủ sản phẩm tương xứng (T) bảo đảm cho giá trị đồng Tiền. Lạm phát, Phá giá đồng Tiền là như vậy.
              Khi viết về cuộc Khủng hỏang Tài chánh Á-châu năm 1997 làm đồng tiền một số lớn những nước Á châu mất giá, Bà Francoise NICOLAS đã đưa ra tỉ dụ tình trạng lạm phát đã làm dân chúng đói nghèo nổi dậy đạp đổ chế độ độc tài SUHARTO sau 32 năm cai trị.
              Thực vậy khi vật giá tăng vọt, đồng tiền mà họ tiết kiệm mất giá do chính Cơ chế Nhà Nước CSVN, một đàng trực tiếp do in thêm Tiền mới cho vào lưu hành, một mặt gián do những Tập đoàn, Tổng Công ty quốc doanh, thì những người lãnh lương như công nhân, công chức thì không được tăng lương là bao nhiêu, đa số rơi vào cảnh nghèo đói. Những người giữ quyền hành Chính trị, đặc quyền làm ăn bóc lột thì giầu có, vẫn tiêu pha, nhập siêu. Việc nổi dậy của đại đa số dân chúng nghèo đói không đến từ một thế lực ngọai lai nào khuyến dụ mà từ BỤNG ĐÓI của Dạ Dầy. Sức mạnh nổi dậy trước khi bị chết đói làm họ không sợ chết nữa.  Nếu họ biết rằng việc mất giá Tiền tiết kiệm và Tiền lương của họ là do sự gian lận in tiền mới ra để lừa đảo đánh lận con đen với Tiền thực của họ và do những Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước một mặt cắt xén bỏ túi riêng, mặt khác làm việc cho có lệ nên yếu kém năng suất,  thì cuộc nổi dậy còn tăng thêm thù hận đến giết lát nữa.
              Để Kết luận, chúng tôi xin lấy lời nhận định của Oâng Jacques DIOUF, Tổng Giám Đốc FAO, tuyên bố với báo Financial Times:” Si les prix continuent à augmenter, je ne serais pas surpris que l’on assiste à des émeutes de faim.” (Nếu giá cả tiếp tục tăng, thì tôi không ngạc nhiên về việc người ta chứng kiến những nổi dậy vì đói khổ) (LE MONDE, No.19523, Thứ Tư 31.10.2007)
 
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 16.05.2013
 

 

DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ

LÀM NỀN TẢNG

XÂY DỰNG DÂN CHỦ HOÁ CHÍNH TRỊ

 

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 16.05.2013


 

            Một số Độc giả nói rằng chúng tôi viết về CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP mà nói nhiều về việc BỎ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP, dành lại QUYỀN KINH TẾ CHO DÂN, mà ít nói đến việc đấu tranh đòi đa nguyên đa đảng như giải pháp nền tảng xây dựng DÂN CHỦ CHÍNH TRỊ.  Chúng tôi có những lý do sau đây để nhấn mạnh lúc này đến việc đòi BỎ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP và đòi  QUYỀN KINH TẾ CHO DÂN:

1)         Chúng ta đang đấu tranh trong tình hình phá sản Kinh tế Quốc gia do Cơ chế CSVN hiện hành. Đây là TỬ HUYỆT mà CSVN sợ nhất nên chúng ta phải nhằm TỬ HUYỆT đó mà đánh.

2)         Cái Mô hình Kinh tế hiện giờ tạo ra phá sản bởi THAM NHŨNG LÃNG PHÍ là do sự gắn liền Độc tài Chính trị và Độc quyền Kinh tế. Khi BỎ ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP tức là cắt đi Độc tài Chính trị, thì Kinh tế không còn Độc quyền nữa. Mọi người đều phải làm kinh tế để kiếm cơn nuôi thân. Khi không còn Độc quyền Kinh tế, thì việc làm ăn thuộc về mọi người, nghĩa là cho toàn Dân. Đó là QUYỀN KINH TẾ CHO DÂN.

3.         Việc Dân chủ hóa Kinh tế là nền tảng để Dân chủ hóa Chính trị. Đời sống Kinh tế là cụ thể và thiết thân của mọi người. Nó là nền tảng để xây dựng một môi trường Chính trị—Luật pháp Dân chủ cho phù hợp (Environnement Politico-Juridique démocratique adéquat). Đó là Dân chủ hóa Chính trị-Luật pháp vậy. Có thể nói việc Dân chủ hóa Kinh tế cụ thể tự động dẫn tới Dân chủ hóa Chính trị (La Démocratisation Economique réelle mène automatiquement à la Démocratisation Politico-Juridique).

            Lúc này, Kinh tế Mafia CSVN phá sản, chúng ta nhấn mạnh về cuộc đấu tranh Kinh tế sẽ phù hợp và lôi cuốn được đại đa số quần chúng hơn, nhất là dân nghèo.

            Hồng y BERGOGLIO, tức là Giáo Hoàng PHANXICÔ hiện nay, đã gọi những kẻ gây ra nghèo khó cho quần chúng là những tên khủng bố lớn nhất tạo phá hoại tập thể.

            Năm 2009, chúng tôi xuất bản cuốn sách DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN bởi cái Cơ Chế này chủ trương Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế. Khi hai cái quyền ấy xậm xụi cấu kết với nhau, thì THAM NHŨNG và LÃNG PHÍ lan tràn làm bại họai việc PHÁT TRIỂN KINH TẾ.

            Đã từ mấy năm nay, chúng tôi không kêu gọi việc Dân chủ hóa Chính trị nữa, mà chỉ yêu cầu việc Dân chủ hóa Kinh tế, nghĩa là Kinh tế phải vì Dân và cho Dân. Dưới chủ đề DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ, chúng tôi mới đưa ra so sánh hướng phát triển Kinh tế của Aán Độ do Dân và cho Dân và chủ trương Kinh tế tập quyền của Trung quốc do nhóm đảng và cho nhóm đảng. Chủ trương Kinh tế tập quyền này có cái đuôi là “định hướng XHCN” nhưng chính là “định hướng bóc lột Xã hội Dân sự” cho cá nhân nhóm đảng.

            Chính Oâng Gia Bảo biết rõ và lo sợ những hậu quả của chủ trương Kinh tế tập quyền nhóm đảng này. Oâng tuyên bố:

“L’inflation, plus une redistribution inéquitable des revenus et la corruption pourraient affecter la stabilité sociale et même la stabilité du gouvernement” (Lạm phát, thêm vào đó là một sự phân phối không đồng đều những thu nhập và tham nhũng có thể tác hại đến sự ổn định xã hội và ngay cả đến sự ổn định nhà nước” (Le Monde 16.03.2010, trang 16).

            Hội Nghị Trung Ương 12 CSVN sửa sọan cho Đại Hội đảng năm 2011 đã không tháo gỡ cho nền Kinh tế Việt Nam theo hướng Dân chủ hóa Kinh tế, mà ngược lại còn tiếp tục trói buộc nền Kinh tế trong quyền lực độc tài độc đảng Chính trị. Thực vậy, Dự thảo Cương lĩnh từ Hội Nghị Trung Ương 12 đã viết rõ rệt: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.

            Đại Hội đảng kỳ trước đã quyết định cho phép đảng viên làm Kinh tế. Khi mà đảng viên giữa quyền độc tài Chính trị từ Trung ương đến Tỉnh, Quận..., thì khi có quyền làm Kinh tế, những đảng viên này giữ ưu tiên làm ăn cho cá nhân mình hay gia đình mình.

            Một đàng thì Nhà Nước đưa ra và tài trợ những Công ty, Tổng Công ty nhà nước để nắm chủ đạo nền Kinh tế với quyền lực độc đảng,  một đàng thì những cá nhân đảng viên , với quyền Chính trị trong tay, nắm những họat động kinh tế gọi là tư doanh, nhưng với quyền thao túng chính trị độc đóan quyết định đặc quyền đối với những tư doanh không phải là đảng viên CSVN. Đảng và Nhà Nước CSVN còn nắm trọn trong tay Đất đai và những tài nguyên Quốc gia (Ressources naturelles) và nguồn nhân lực (Ressources humaines).

            Như vậy, cả một hệ thống xử dụng quyền lực Chính trị độc tài để nắm trọn nền Kinh tế Quốc gia:

=>       Hệ thống Công ty, Tổng Công ty, dưới danh nghĩa Tập đòan Kinh tế Nhà Nước, có quyền chủ đạo Kinh tế, nghĩa là những Tập đòan tư doanh không gồm đảng viên CSVN phải tùy thuộc những Tập đòan Kinh tế nhà nước gọi là chủ đạo.

=>       Những cá nhân đảng viên CSVN, với quyền Chính trị độc đóan từ Trung ương đến Địa phương, tất nhiên dành những ưu tiên làm Kinh tế đối với những cá nhân tư doanh không phải là đảng viên CSVN.

            Một hệ thống Kinh tế như vậy, do quyền lực Chính trị độc tài thống trị, từ cá nhân đảng viên đến những tập đòan dưới danh nghĩa nhà nước, mang đến những yếu kém, nếu không nói là phá họai, được tóm tắt ở những điểm sau đây:

*          Thiếu hiệu năng  bởi vì những tác nhân Kinh tế thiếu khả năng hay thiếu cố gắng sáng tạo, mà chỉ dùng quyền lực nắm những ưu tiên Kinh tế thu lợi cho cá nhân.

*          Thiếu tính tóan căn cơ Tài chánh trong họat động kinh tế để có kết quả tương xứng. Nếu thua lỗ, thì có Tài chánh nhà nước bù đắp.

*          Lãng phí ngân sách vì đây là tiêu tiền rồi tính sổ cho nhà nước chịu. Mà tiền nhà nước lại là tiền từ dân.           

*          Lợi dụng quyền lực Chính trị và quyền chủ đạo Kinh tế để ăn hối lộ, làm tham nhũng. Vì là độc đảng, nên hối lộ, tham nhũng được đảng che chở cho nhau.

Những điểm tóm tắt về những yếu kém hay phá họai Kinh tế trên đây được chứng minh bằng những gương Lịch sử để dẫn đến kết luận rằng phải tản quyền Kinh tế nếu muốn phát triển trong bền vững và lâu bền. Chúng tôi khai triển những phương diện sau đây:

 

=>       Hai quan điểm về sở hữu nền tảng cho hai hệ thống Kinh tế

=>       Cấu trúc lạm quyền và sự thất bại của nền Kinh tế tập quyền chỉ huy

=>       Hậu quả nào cho Kinh tế Tự do Thị trường Mafia nhóm đảng “định hướng XHCN”

=>       Sự bền vững phát triển của nền Kinh tế tản quyền: Dân chủ hóa Kinh tế

           

Trong bài viết của Ký giả Thomas FULLER đăng trên trang nhất của New York Times này 24.04.2013, Ký giả nhận định: “Nội bộ Đảng đang bị chia rẽ giữa một bên là những người bảo thủ muốn vẫn duy trì những nguyên tắc soi đường của chủ nghĩa xã hội và sự độc quyền lãnh đạo, và một bên là những người kêu gọi một xã hội đa nguyên và chấp nhận hoàn toàn chủ nghĩa tư bản.”. Những người bảo thủ này duy trì ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP để theo đúng Marx và “Tư tưởng Hồ Chí Minh “. Chính vì vậy mà trong những khai triển dưới đây, chúng tôi nói dài về Marx cùng những thất bại của mô hình Kinh tế Chỉ huy Tập quyề và những thành công của mô hình Kinh tế Tự do Thị trường đặt nền tảng trên TƯ HỮU, nghĩa là trên QUYỀN KINH TẾ CỦA DÂN.

 

Hai quan điểm về sở hữu

nền tảng cho hai hệ thống Kinh tế

 

Sự phân biệt hai hệ thống quản trị phát triển Kinh tế mà chúng ta thấy ngày nay lấy nền tảng từ quyền SỞ HỮU (propríeté) những phương tiện sản xuất (production) và những hiệu quả của sản xuất dành cho tiêu thụ (consommation). Sở hữu được hiểu theo hai quan điểm: (i) TƯ HỮU (propriété privée) và (ii) CÔNG HỮU (propriété collective).

(i)        TƯ HỮU

Tư hữu được coi là quyền tự nhiên bởi lẽ thân xác và trí tuệ là của riêng của mỗi cá nhân được sinh ra ở đời. Để nuôi sống thân xác và phát triển trí tuệ, mỗi cá nhân có quyền sở hữu những phương tiện làm ăn nuôi xác và mở mang trí tuệ. Sức lao động bắp thịt tăng cường bởi hiểu biết là tư hữu tuyệt đối. Việc chuyển nhượng tư hữu lao động chỉ có ở dưới thời nô lệ khi mà người có quyền không coi người khác giống mình. Khi nói đến Tư hữu thì phải chấp nhận việc Tự do xử đụng tư hữu nếu không tư hữu không còn ý nghĩa nữa. Khi những cá nhân bỏ chung tư hữu với nhau để lập thành Công ty, Tập đòan, thì Tư hữu vẫn giữ tính cách cá nhân và sự Tự do xử dụng. Cái quyền lực điều hành trong Công ty, Tập đòan vẫn dựa trên tầm quan trọng sở hữu của mỗi cá nhân.

Quan điểm TƯ HỮU này là nền tảng xây dựng hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường trong đó sự cạnh tranh giữa những Cá nhân, những Công ty, những Tập đòan là động lực thúc đẩy sự kiện tòan phát triển sinh họat Kinh tế. Dựa trên Tư hữu, hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường không thể lọai bỏ nguyên tắc DÂN CHỦ làm phương tiện giải quyết những tranh chấp giữa những CÁ NHÂN tạo thành Tập thể hay Xã hội. Kinh tế Tự do và Thị trường phải được phát triển trong một Môi trường Chính trị—Luật pháp Dân chủ phù hợp (Environnement Politico-Juridique Démocratique adéquat).

(ii)       CÔNG HỮU

Xin phân biệt ngay từ đầu sự khác biệt giữa CÔNG HỮU (propriété COLLECTIVE) và SỞ HỮU NHÀ NƯỚC (propriété ETATIQUE). Công hữu là Sở hữu thuộc về Tòan Dân bao gồm mọi Cá nhân thành phần. Sở hữu Nhà nước là Sở hữu mà Nhà nước lấy Ngân qũy Nhà nước mua tậu hay do Tập thể Cá nhân hoặc Nước khác tặng nhượng. Nhà nuớc có quyền xử dụng Sở hữu Nhà nước nhưng Nhà nước không có tòan quyền xử dụng CÔNG HỮU vì nó thuộc về Tòan Dân, thì phải có sự quyết định của Tòan Dân.

Nếu hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường cạnh tranh là Hệ luận tất nhiên của quyền Tư hữu, thì hệ thống Kinh tế tập quyền chỉ huy là sự cấu trúc lạm quyền từ quan điểm CÔNG HỮU lẫn lộn với SỞ HỮU NHÀ NƯỚC. Chúng tôi sẽ nói lại Lịch sử cấu trúc lạm quyền này khi khai triển hệ thống Kinh tế tập quyền chỉ huy. Vì sự cấu trúc lạm quyền của hệ thống Kinh tế tập quyền chỉ huy, nên hệ thống này từ chối Môi trường Chính trị—Luật pháp Dân chủ (Environnement Politico-Juridique Démocratique) hay nói đúng hơn cần một Môi trường Chính tri-Luật pháp Độc tài biện minh (Environnement Politico-Juridique Dictatorial justificatif)

 

Cấu trúc lạm quyền và sự thất bại

của nền Kinh tế tập quyền chỉ huy

 

Nền Kinh tế tập quyền chỉ huy chỉ là cấu trúc lạm quyền và ảo tưởng từ sự lẫn lộn giữa CÔNG HỮU và SỞ HỮU NHÀ NƯỚC. Nếu TƯ HỮU và hệ luận là Kinh tế Tự do và Thị trường có tính cách tự nhiên, thì hệ thống Kinh tế tập quyền và chỉ huy có một Lịch sử cấu thành lầm lẫn và từ những mơ mộng ảo tưởng (utopique). Chúng tôi nói đến Lịch sử hình thành hệ thống Kinh tế này trước khi nêu ra những thất bại của hệ thống.

Vài nét Lịch sử hình thành quan điểm về Sở hữu

và ảo tưởng về Xã hội thiên đàng

Việc cấu trúc chủ trương Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy đã được thuyết lý dựa trên những quan niệm mang tính cách triết học xa với thực tế và mang tính mơ mộng ảo tưởng (utopique).

Các lý thuyết gia của chủ trương này đã chạy ngược lên mãi thời Triết gia PLATON. Thực vậy, trong những cuốn “La République“, “Les Lois“, Platon đã nói đến “La Cité Communiste“ trong đó những người trách nhiệm làm Luật không được có gia đình và do đó không cần tư hữu cho con cháu.

Thời Trung Cổ Aâu châu, phía Thiên Chúa Giáo đã khai triển những Dòng Tu được coi là những Cộng đồng Cộng sản về Kinh tế.

Nhưng phải đợi đến đầu Thế kỷ thứ XVI, với Thomas MOORE (1477-1553), thì lý thuyết về một Chủ thuyết Xã Hội Kinh tế mới được phát triển có hệ thống. Thomas MOORE là người tôn sùng đạo Thiên Chúa. Được Vua HENRI VIII Anh quốc trọng dụng, nhưng vì cương trực phản đối lại Vua về vấn đề rắc rối vợ con, nên Oâng đã bị hành quyết. Năm 1516, cuốn sách Utopie ra đời và ông chủ trương Nhà Nước Utopie (Etat d’Utopie). Bắt đầu từ Thế kỷ XVI, Xã hội Tây phương có những xáo trộn về mọi phương diện: Tôn giáo, Tư duy, Nghệ thuật, Kinh tế, Xã hội... Oâng tìm kiếm một Thể chế có trật tự mà mẫu Cộng đồng trật tự nhất là các Dòng Tu. Giáo sư Sử học Kinh tế Jean-Marie VALARCHE đã viết: “Il (Thomas MOORE) prévoit un dirigisme absolu de l’Etat“ (Oâng (Thomas MOORE) dự trù một chủ thuyết Chỉ huy tuyệt đối của Nhà Nước).

Chúng tôi nhắc đến tác giả này vì muốn lấy ra những điểm mà Karl MARX đã chịu ảnh hưởng: ảnh hưởng của một Dòng Tu làm việc theo chỉ thị của người đứng đầu, cộng chung những sản phẩm, tiêu thụ theo nhu cầu từng người, chỉ có hệ thống phân phối giữa cung và cầu mà không có thương mại.

Từ đây, bắt đầu những cấu trúc Xã Hội Chủ Nghĩa qua những tác giả khác cho đến thời Karl MARX. Karl Heinrich MARX sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 vùng Rhénanie, Đức, trong một gia đình gốc Do thái. Cha là Luật sư, nên Marx học Luật, sau chuyển sang Triết học theo HEGEL. Oâng chỉ làm quen và suy tư về những vấn đề Xã Hội, Kinh tế, Đấu tranh khi phải di chuyển sống ở nhiều nơi và viết báo. Sống ở một thời đại hậu bán Thế kỷ XIX có nhiều những cực đoan: Kỹ nghệ hóa vượt mức, Giới Tư sản nắm quyền hành, Cách xa Giới Chủ và Giới Thợ, Tình trạng thất nghiệp và đói nghèo, Cách Mạng 1848, những Ý tưởng Quốc gia cực đoan phát sinh. Trong sự hỗn loạn của những cực đoan ấy, Oâng lưu ý khai triển những vấn đề sau đây:

=>     Chủ thuyết Duy vật Lịch sử.

Với Chủ thuyết này, Oâng nhấn mạnh đến sự vong thân tôn giáo để kết luận rằng:“Tôn giáo là cái bông ghê tởm mọc trên đống phân tư bản. Bởi vậy nếu hốt đống phân đi, thì hoa cũng tàn...“ Cũng trong Chủ thuyết này, tương quan Xã hội được chính yếu nhấn mạnh vào hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến thiết. Hạ tầng cơ sở gồm những tương quan sản xuất vật chất, thượng tầng kiến thiết gồm những phương diện Luật pháp, Chính trị quy định Xã hội.

=>     Giai cấp Xã hội và Đấu tranh Giai cấp.

Cái nguyên nhân tạo ra những Giai cấp Xã hội là sự đấu tranh chiếm hữu. Oâng nhìn thấy hiện tượng vô sản hóa Giai cấp Thợ thuyền. Xã hội phân chia ra hai Giai cấp chính: Giai cấp chiếm hữu và nắm quyền, Gai cấp Thợ thuyền bị khai thác và bị bóc lột. Oâng thuyết giải về tính cách Vong thân Lao động, nghĩa là một mặt đối với chính mình, người Lao động sản xuất, nhưng bị tước đoạt sản phẩm; mặt khác đối với tương giao xã hội trước người khác, người lao động biến thành cái máy làm theo quyết định của chủ bóc lột chứ không có sáng kiến tự mình.

=>     Ảnh hưởng bởi Lý thuyết của David RICARDO.

Theo David RICARDO, Giá trị sản phẩm được đo lường bằng chính Giá trị Lao động hàm ngụ trong sản phẩm. Tư sản cũng chỉ là sự tích lũy Giá trị sản phẩm từ Giá trị Lao động. Oâng chủ trương Đấu tranh Giai cấp và hệ luận là Giai cấp Lao động phải dành lấy quyền làm chủ sản phẩm của mình. Cần một cuộc nổi dậy Cách Mạng dù bằng bạo động và Giai cấp Vô sản phải nắm trọn quyền hành độc tài tổ chức Xã hội.

Lénine lạm quyền cấu trúc hệ thống Kinh tế tập quyền chỉ huy

Nếu Karl MARX cấu trúc hệ thống mang đậm tính cách lý luận do ảnh hưởng Triết học và Lý tưởng xã hội đậm hình thức tổ chức Cộng đồng Dòng Tu theo kiểu Thomas MOORE, thì LENINE, một người Chính trị, đã lấy những ý tưởng của MARX để đấu tranh chiếm quyền hành và tổ chức cai trị xã hội. LENINE sinh năm 1870 vùng Simbirsk, giữa Oural và Moscou. Người anh cả của Oâng thuộc một tổ chức Khủng bố, đã muốn ám sát Nga Hoàng, nhưng bị bại lộ và người anh này đã bị treo cổ. Lúc ấy Lénine mới có 17 tuổi và đã bị đi lưu đầy và sống lần lượt tại Anh, Thụy sĩ và Pháp. Năm 1905, sau khi Nga bại trận đối với Nhật, nhóm của Lénine đã phát động nổi dậy, nhưng thất bại.

Năm 1917, Nga lại thất trận đối với Đức. Nhờ tài hùng biện của Lénine và tài chiến thuật của TROTSKY, cuộc CÁCH MẠNG VÔ SẢN tháng 10 đã thành công. LENINE trở thành Nguyên Thủ Quốc gia cho đến năm 1924, năm Oâng chết.

Tổ chức cai trị Xã hội được tiếp tục và trở thành khuôn khổ độc đoán dưới thời STALINE.

Xã hội Cộng sản được tổ chức thực hiện những chủ trương của MARX:

=>       Cuộc đấu tranh đẫm máu thanh trừng Giai cấp tiếp tục khắt khe và vô nhân đạo dưới thời Staline. Giai cấp Tôn giáo, Trí thức và Tư bản bị tiêu diệt.

=>       Truất hữu toàn vẹn những tư hữu. Tất cả trở thành CÔNG HỮU;

=>       Giai cấp VÔ SẢN nắm quyền độc tài, mà đại diện Giai cấp này là Đảng Cộng sản duy nhất, nghĩa là quyền hành cai trị Xã hội và quản trị CÔNG HỮU thuộc về Đảng Cộng sản lãnh đạo Giai cấp vô sản.

=>       Vì những phương tiện sản xuất là CÔNG HỮU, nên chỉ có Nhà Nước (Đảng Cộng sản) có quyền điều hành để sản xuất Kinh tế. Không còn Kinh tế tư nhân nữa mà chỉ còn Kinh tế do Nhà Nước hoạch định qua những Kế Hoạch (Ngũ niên);

=>       Thực hiện một Xã hội bình đảng, không giai cấp, nên cá nhân được bao cấp tiêu thụ theo nhu cầu;

=>       Một cuộc Cải Cách Ruộng Đất được thực hiện. Không còn tư hữu đất đai. Những đất nông nghiệp được chia ra làm hai loại canh tác: Kolkhoz và Soukhoz. Dù canh tác thuộc loại nào chăng nữa, nông dân trở thành những Công nhân (Ouvriers agricoles)

=>       Thương mại không những không được coi là sản xuất giá trị, mà còn bị coi là ăn bám sản xuất, nên bị bỏ đi. Thay vào đó, Nhà Nước tổ chức những Hợp tác xã để phân phối hàng hóa giữa sản xuất và tiêu thụ.

=>       Dưới thời Staline, Đệ Tam Quốc Tế Cộng sản được phát động để mang Cách Mạng Vô sản đến những nước khác. Theo đúng chủ trương đấu tranh giai cấp bằng bạo động của Karl Marx, Nga cung cấp vũ khí để làm bất ổn tại những Quốc gia khác để tạo cơ hội chiếm quyền hành.

Những lý do thất bại của hệ thống Kinh tế tập quyền chỉ huy

Khi lên nắm quyền năm 1985, Gorbatchev đứng trước một tình trạng Kinh tế tập quyền chỉ huy hòan tòan thiếu thốn thực sự kéo theo một tình trạng xã hội hòan tòan đồi tệ.

Oâng Andrei GRETCHEV, cố vấn Chính trị của Gorbatchev đã phải tuyên bố rằng tình trạng suy thóai tận cùng Kinh tế, sự đồi trụy của xã hội và tình trạng ươn hèn của đảng viên đã buộc Gorbatchev phải phất cờ trắng xin hàng với Thế giới Tự do trong cuộc Chiến tranh Lạnh. Nga không còn phương tiện giữ 500'000 lính canh chừng chế độ tại những nước chư hầu Đông Au và không thể tài trợ để giữ những cơ sở Ngọai giao và nuôi những nhân viên vừa ngọai giao vừa gián điệp khắp Thế giới.

Giới công nhân trong guồng máy Kinh tế Tập quyền Chỉ huy đã lưu truyền câu nói: “Ils font semblant de nous payer, on fait semblant de travailler“ (Chúng (nhà nước) làm giống như trả tiền lương, người ta cũng làm giống như có làm việc), nghĩa là họ không trả tiền thì mình cũng không làm việc.

David KINGS, trong cuốn MIKHAIL S.GORBATCHEV do Tác giả David KINGS, xuất bản năm 1988 do Time Incorporated N.York, được dịch ra Pháp ngữ dưới tựa đề MIKHAIL GORBATCHEV, BIOGRAPHIE INTIME, đã tả tình trạng bại họai của những công chức nhà nước như sau: Tất cả mọi người, từ ngưới gác cổng đến Bộ trưởng, đều phải ăn hối lộ nhỏ lớn. Ngay cả những Huy chương cũng đem ra đổi lấy một lượng xúc xích (saucisses) để ăn. (Même les décorations de guerre pouvaient s’échanger contre la quantité de saucisses (Ngay cả những Huy chương chiến chanh cũng có thể đem ra đổi lấy một số lượng xúc xích để ăn) (Sách đã trích dẫn MIKHAIL GORBATCHEV, trang 154)

Tình trạng thê thảm Kinh tế này càng đẩy mạnh mọi người vào say sưa Vodka, vào ma túy, vào ly dị, đĩ điếm. Một câu khuyên rằng nếu muốn kêu thợ đến sửa điện, thì đừng kêu họ đến lúc sau trưa vì họ có thể làm cháy nhà vì đã say khướt rượu từ buổi sáng rồi.

Sau khi Bức tường Bá Linh sụp đổ, chính bản thân tôi đã sang Mạc Tư Khoa và chứng kiến tận mắt cảnh nghèo khó Kinh tế của Thủ đô quyền lực độc tài này. Tôi đã đến và ăn Phở trong chính Đôm 5 cũ, Tòa nhà Viện Hàn Lâm Khoa học, ngày nay vì nghèo quá, những phòng được phá thủng để bán chạp phô, mở tiệm phở. Tôi đã thăm Đôm 5 mới, tại đây tôi đã được ăn thịt chó (chó Berger KGB) lần đầu tiên từ khi rời Việt Nam năm 1965.

Tình trạng tồi tàn Kinh tế, bại họai xã hội, hòan tòan xười ra của cán bộ và tham nhũng đến những hớp Vodka là một ĐỊNH MỆNH làm sụp đổ chế độ. Tình trạng giống như trái cây đã chín rữa và sắp tự động rơi xuống đất để thối ra. Nếu lấy dây cột treo nó vào cành, thì may ra nó chưa rụng ngay. Cuộc Cải Cách mà GORBATCHEV tuyên bố chỉ là tìm những sợi dây hy vọng cột lại phần nào cho trái cây chín rũa sắp rơi khỏi cành.

Năm 1989, Liên Xô và những nước chư hầu Cộng sản Đông Aâu lần lượt sụp đổ mà lý do chính yếu là đời sống Dân chúng quá đói nghèo, nghĩa là sự thất bại của hệ thống Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy.

Hãy thử tìm hiểu những lý do thất bại của hệ thống Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy này.

=>       Nỗ lực sản xuất Kinh tế không nhằm về phát triển Kinh tế, mà nhằm củng cố cho Đảng Cộng sản và Chính trị của Đảng. Khả năng phát triển Kinh tế Quốc gia đã bị tiêu dùng cho mục đích Chính trị. Trong suốt những năm sản xuất, Liên xô sản xuất vũ khí nhiều hơn việc sản xuất những hàng thường dùng của người lao động. Lấy một vài tỉ dụ hiện giờ : Trung Cộng tiêu tốn gần 50 tỉ Mỹ Kim cho sự vẻ vang Chế độ Chính trị của mình, hơn là phục vụ đời sống thực của Dân chúng; một số những xây cất ở Việt Nam cũng nhằm phục vụ cho Đảng và thể chế Chính trị, chứ không nhằm mục đích Kinh tế cho người Dân nghèo.

=>       Khi Nhà Nước nắm giữ những chi tiêu và điều hành những Tập đoàn sản xuất công, thì việc chi tiêu chắc chắn không được căn cơ cho có hiệu lực. Câu nói “Chi tiêu tiền chùa“ hay “Cha chung không ai khóc“ cho thấy thực trạng lãng phí ắt phải xẩy ra, đó là chưa kể đến chủ tâm cắt xén của chung làm của riêng. Đây là một điều tự nhiên. Câu ngạn ngữ Kinh tế tư bản:“Làm ra tiền đã khó, nhưng chi tiêu tiền bạc còn khó hơn“. Đối với Kinh tế tư bản, khi chi tiêu, đã phải tính mình thu vào bao nhiêu lợi nhuận, nghĩa là tính cuyện làm sinh lời Kinh tế thực sự trước khi bỏ một đồng ra tiêu.  Chỉ có tiền tư hữu riêng của mỗi người, thì người đó mới căn cớ tính toán để chi tiêu cho đúng.

=>       Nói về việc tiêu thụ, người lao động cũng dễ lười biếng khi thấy rằng mình cố gắng làm việc mà chỉ được hưởng đồng đều như người không chịu khó làm việc. Chính việc tư hữu những sản phẩm làm ra và được tiêu thụ là động lực kích thích sự chịu khó làm việc. Người ta nói rằng con gái Nga đẹp, nhưng thiếu nụ cười, bởi vì nụ cười của người con gái trong Kinh tế tự do có tư hữu được thưởng công, trong khi đó người con gái của Kinh tế chỉ huy có cười cả ngày cũng chỉ lĩnh được phần tiêu thụ đồng đều như người không cười. Vậy thì cười làm gì để trại quai hàm.

=>       Về sản xuất tại những Soukhoz, Kolkhoz, chính hệ thống Kinh tế Trung ương Tập quyền và Chỉ huy cũng đã phải sửa sai. Hiệu năng nông nghiệp của Soukhoz và Kolkhoz thấp xuống, Nhà Nước đã phải cấp cho mỗi Gia đình một khoảng đất tư để trồng trọt riêng cho Gia đình. Thửa đất tư có rau cỏ mọc tươi tốt, nhưng thửa ruộng công thì cây cỏ dễ khô héo. Cũng vậy con bò tư thì to béo và nhiều sữa, nhưng con bò nhà nước thì gầy còm, chỉ nhỏ giọt sữa.

=>       Một tình trạng làm nản cố gắng sản xuất nữa, đó là những người cố gắng sản xuất, sản phẩm không những chỉ được bao cấp đồng đều mà còn bị chính cán bộ đảng không chân lấm tay bùn, có quyền chia cho mình phần lớn hơn để tiêu xài phung phí. Giảm cố gắng vì thấy người ngồi mát ăn bát vàng tham nhũng, hối lộ.

=>       Những sinh hoạt Kinh tế quốc gia Cung, Cầu được hoạch định bằng những Kế Hoạch Ngũ Niên không được chính xác vì những người làm Kế hoạch thiên về Chính trị hơn là chuyên môn Kinh tế và vì sự phù hợp giữa Cung và Cầu có tính cách sinh động cập nhật ngắn hạn chứ không cứng nhắc dài hạn.

 

Hậu quả nào cho Kinh tế Tự do Thị trường

Mafia nhóm đảng “định hướng XHCN”

 

Chiếm được Miền Nam Việt Nam năm 1975, CSVN vẫn áp dụng Kinh tế tập quyền chỉ huy để đi từ thất bại những vùng Kinh tế mới đến dân đồng bằng sông Cửu Long vựa lúa phải ăn bo bo. Năm 1989, Thế giới Cộng sản sụp đổ, không còn viện trợ nữa, dân chúng sống trong cảnh nghèo đói cùng cực.

CSVN buộc phải mở cửa chấp nhận hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường để cứu vãn Kinh tế. Bề mặt tuyên bố chấp nhận hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường nhưng thêm vào mấy chữ “định hướng XHCN” để che đậy cho một nội dung vẫn là Kinh tế tập quyền chỉ huy. Đây là việc vá víu che đậy.

Chúng tôi thường ví việc vá víu này như việc CSVN đi vá VÁY ĐỤP của những bà nhà quê Miền Bắc thời nghèo khó Pháp thuộc.  Marx-Lénine vẽ mẫu và may cho XHCH một chiếc VÁY lý tưởng bắt Dân mặc. Dân mặc không được vì chiếc váy không hợp, còn dầy vò thắt bụng dân đến đau đớn. Váy đã cũ kỹ không mặc được nữa. Dân Nga và Đông Aâu cởi phăng nó ra vất đi để tự mình đi kiếm may váy mới. Nhưng vì chiếc váy được vẽ mẫu bởi Marx-Lénine và còn đeo tòng teng nhãn hiệu Xã Hội Chủ Nghĩa, nên CSVN đã gọi chiếc VÁY ĐỤP ấy là Kinh tế Tự do Thị trường Định hướng XHCN.

Dù có tuyên bố mấy đi nữa về việc chấp nhận hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường thì người ta vẫn thấy cái bản chất cũ của cái váy là Tập quyền và Chỉ huy qua những sự việc sau đây:

=>       Vẫn giữ độc đảng và độc tài để thiết lập một Môi trường Chính trị-Luật pháp độc tài cho Kinh tế, nói cách khác phủ nhận một Môi trường Chính trị—Luật pháp Dân chủ phù hợp đòi hỏi bởi một hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường đích thực.

=>       Xử dụng hệ thống Công ty, Tổng Công ty, dưới danh nghĩa Tập đòan Kinh tế Nhà Nước, có quyền chủ đạo Kinh tế, nghĩa là những Tập đòan tư doanh không gồm đảng viên CSVN phải tùy thuộc những Tập đòan Kinh tế nhà nước gọi là chủ đạo.

=>       Đại Hội đảng kỳ trước đã quyết định cho phép đảng viên làm Kinh tế. Khi mà đảng viên giữa quyền độc tài Chính trị từ Trung ương đến Tỉnh, Quận..., thì khi có quyền làm Kinh tế, thì những đảng viên này giữ ưu tiên làm ăn cho cá nhân mình hay gia đình mình. Những cá nhân đảng viên CSVN, với quyền Chính trị độc đóan từ Trung ương đến Địa phương, tất nhiên dành những ưu tiên làm Kinh tế đối với những cá nhân tư doanh không phải là đảng viên CSVN.

=>       Đảng và Nhà nước CSVN vẫn nắm trọn trong tay Đất đai và những tài nguyên Quốc gia (Ressources naturelles) và nguồn nhân lực (Ressources humaines) là SỞ HỮU NHÀ NƯỚC hay đúng hơn là SỞ HỮU ĐẢNG. Họ có tòan quyền bán hay phân phối sở hữu này cho dân hay cho tài phiệt nước ngòai. Việc nhượng đất đầu nguồn 50 năm cho Tầu mới đây là tỉ dụ điển hình. Nếu CSVN còn coi Đất đai, Tài nguyên là CÔNG HỮU, nghĩa là thuộc về Tòan Dân, thì họ buộc phải hỏi ý kiến Dân. Điều tồi tệ hơn cả là họ coi người Việt Nam như dưới thời Nô lệ để họ bán sức lao động cho tài phiệt nước ngòai, thậm chí bán phụ nữ phục vụ tình dục. 

=>       Vì chủ trương sản xuất cấp bách những hàng thô sơ phục vụ cho Thị trường nước ngòai, nhất là Tây phương, để ăn xổi ở thì cho thu nhập của nhóm đảng Mafia, nên CSVN đã hầu như bỏ quên việc phát triển Nông nghiệp, nền tảng tự nhiên của Kinh tế quần chúng Việt Nam. Thậm chí họ còn cướp đất nông nghiệp để phục vụ cho chế xuất ngọai lai. Phong trào Dân Oan đang đứng lên chống lại sự bất công này.

=>       Nếu trong thời hệ thống Kinh tế tập quyền chỉ huy còn dựa trên một Ý thức hệ Mác-Lê ảo mộng (Marxisme-Leninisme utopique) với hai chữ BAO CẤP gắn liền cho hữu lý, thì Cơ Chế Kinh tế tập quyền chỉ huy của CSVN hiện nay, mặc dầu mang “định hướng XHCH”, nhưng gạt ra ngòai hai chữ BAO CẤP, nghĩa là họ không còn trách nhiệm đối với dân nghèo nữa mà chỉ biết vơ vét của chung thành của riêng cho nhóm đảng Mafia độc tài.

            Đứng về mặt kỹ thuật làm ăn trong một thế giới cạnh tranh mà họ đã Mở cửa, vào APEC, vào WTO, thì Cơ Chế Kinh tế Mafia tập quyền chỉ huy của CSVN hiện nay sẽ mang Kinh tế Việt Nam đến tụt hậu sánh với những nền Kinh tế trong vùng, bởi những tệ hại thực tiễn sau đây:

*          Thiếu hiệu năng  bởi vì những tác nhân Kinh tế thiếu khả năng hay thiếu cố gắng sáng tạo, mà chỉ dùng quyền lực nắm những ưu tiên Kinh tế thu lợi cho cá nhân.

*          Thiếu tính tóan căn cơ Tài chánh trong họat động kinh tế để có kết quả tương xứng. Nếu thua lỗ, thì có Tài chánh nhà nước bù đắp.

*          Lãng phí ngân sách vì đây là tiêu tiền rồi tính sổ cho nhà nước chịu. Mà tiền nhà nước lại là tiền từ dân.           

*          Lợi dụng quyền lực Chính trị và quyền chủ đạo Kinh tế để ăn hối lộ, làm tham nhũng. Vì là độc đảng, nên hối lộ, tham nhũng được đảng che chở cho nhau.

Hiện nay, nhóm đảng Mafia CSVN không quan tâm đến tương lai phát triển Kinh tế bền vững Đất nước, mà chỉ chú tâm đến những sinh họat Kinh tế ăn xổi ở thì thu vào túi riêng cho đảng và những cá nhân đảng viên.

Cơ chế Kinh tế tập quyền chỉ huy nhóm đảng này cũng giống như Cơ chế tại Trung quốc. Hai Cơ chế trong một thời gian, bóc lột sức lao động quốc nội để sản xuất những hàng hóa  thô sơ phục vụ nước ngòai, đã có những kết quả trong việc thu nhập nhất thời cho một nhóm người chứ không nhằm tạo mãi lực quần chúng để bảo đảm tính cách độc lập của một nền Kinh tế. Một Cơ chế Kinh tế như vậy không thể nói là sự phát triển bền vững lâu dài cho đại đa số quần chúng.

Chúng tôi thấy Tờ Financial Times ngày 09.03.2010, trang 10, viết tóm gọn và xác thực về Kinh tế/ Thương mại tập quyền chỉ huy nhóm đảng ở Trung quốc cũng như ở Việt Nam như sau:

“It is absurd that a poor country (national income per capita was some $3,000 las year) should be devoting its human and physical resources to producing gadgets for the enjoyment of consumers elsewhere when ordinary Chinese are not reaping the fruits from this effort. A large part of proceeds is instead saved and recycled into lending to rich western countries” (Thật là phi lý một nước nghèo (thu nhập quốc gia theo vốn là khỏang $3,000 năm ngóai) đã hy sinh nguồn nhân lực và vật chất để sản xuất những lọai hàng nhất thời mua vui cho những khách tiêu thụ nơi khác trong khi ấy những người Trung quốc bình thường không được hưởng những thành quả từ sự cố gắng ấy. Một số lớn những thu nhập được tiết kiệm và chuyển thành những vốn cho những nước giầu Tây phương vay).

Chính nhóm đảng chủ trương Cơ chế Kinh tế như vậy đang lo sợ những bạo lọan có thể xẩy ra cho chính Chế độ Chính trị.

Tại Việt Nam, những Cố vấn, những Chuyên viên, những Giáo sư Kinh tế đã lên tiếng cảnh cáo cho sự bấp bênh và tình trạng đi xuống của Kinh tế. Chúng tôi đã đăng tải nhiều lần về tình trạng này và không cần lập lại ở đây. Gần nhất, ngày 13.04.2010, Thông tấn AFP, từ Hà Nội, đánh đi bản tin:

“La stabilité macro-économique plus que la croissance rapide est nécessaire au développement durable du Vietnam, a estimé la Banque Asiatique de Développement (BAD) dans un rapport publié mardi” (Sự vững bền của nền Kinh tế tổng thể hơn là đà phát triển nhanh chóng là cần thiết cho việc phát triển lâu dài của Việt Nam, Ngân Hàng Phát triển Á châu thẩm định như vậy trong bản phúc trình tuyên bố ngày thứ ba)

Tại Trung cộng, chính Thủ tướng Oân Gia Bảo đã phát biểu ngày 14.03.2010 trước Quốc Hội Nhân Dân nỗi lo lắng về thực trạng của nền Kinh tế tập quyền chỉ huy của nhóm đảng Mafia:

“L’inflation, plus une redistribution inéquitable des revenus et la corruption pourraient affecter la stabilité sociale et même la stabilité du gouvernement” (Lạm phát, thêm vào đó là một sự phân phối không đồng đều những thu nhập và tham nhũng có thể tác hại đến sự ổn định xã hội và ngay cả đến sự ổn định nhà nước” (Le Monde 16.03.2010, trang 16)

            Chính nhật báo Le Monde cũng tả hố sâu nghèo nàn của quần chúng nông thôn và thiểu số giầu nứt khố của nhóm đảng Mafia như sau:

“La Chine est alarmée par le fait que le fossé ville-campagne va continuer à se creuser dans la mesure òu le pays se focalise sur le développement urbain et pas du monde rural.” (Trung quốc bị báo động bởi sự việc là hố sâu thành phố—nhà quê sẽ tiếp tục tự đào sâu thêm ở mức độ nước này đặt tiêu điểm phát triển thành thị và không phải là lãnh vực nông thôn)

Cách đây 6 năm, số người giầu từ 150 triệu Đo-la, liên hệ với đảng CSTQ, là 100 người. Ngày nay con số đó đã tăng lên 1’000 người (Le Monde 16.03.2010, p.16).

Thú nhận những điểm như trên đây rồi, chính Ôn Gia Bảo tuyên bố một điều làm cho những ai thường ca tụng “cường quốc Kinh tế Trung quốc” phải ngạc nhiên:

“Cela prendra cent ans, même plus pour que la Chine devienne un pays moderne” (Điều đó còn cần 100 năm, ngay cả lâu hơn nữa, để Trung quốc trở thành một nước tân tiến) (Le Monde 16.03.2010, trang 16).

Với chủ trương Kinh tế tập quyền chỉ huy nhóm đảng Mafia, chắc Việt Nam phải nói là trên 100 năm nữa, Việt Nam mới có một nền Kinh tế tân tiến.

 

Sự bền vững phát triển của nền Kinh tế

tản quyền: Dân chủ hóa Kinh tế

 

            Hội Nghị Trung Ương 12 CSVN sửa sọan cho Đại Hội Đảng năm 2011 đã viết rõ rệt: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”, nghĩa là nhóm Mafia CSVN vẫn tiếp tục chủ trương Kinh tế tập quyền chỉ huy cho nhóm đảng. Trước tình trạng quần chúng nghèo và ngay cả giới trí thức phản đối về những bất công, bóc lột của Cơ chế Kinh tế như vậy, dường như nhóm đảng Mafia CSVN đang tìm những mánh khóe tuyên truyền lừa đảo để an dân, tỉ dụ:

=>     Cần sự ổn định xã hội để phát triển.

Tuyên truyền điều này, họ nhằm bịt miệng tất cả những ai muốn đứng lên chống lại những bất công từ Cơ chế Kinh tế tập quyền chỉ huy bóc lột cho nhóm đảng mà họ đang chủ trương. Thực ra ổn định xã hội không phải là sự câm nín trước bạo lực mà họ đang dùng để bịt miệng tòan dân trong một nhà tù lớn. Oån định xã hội phải là một tình trạng hài hòa, công lý được tôn trọng đồng đều. Tỉ dụ họ bịt miệng Lm NGUYỄN VĂN LÝ để nhốt Ngài vào tù là có ổn định được Cha Lý. Chỉ có sự ổn định trong con người của Cha Lý khi Ngài thấy rằng việc bất công nhốt tù Ngài không còn nữa. Một nước ao tù, bình lặng bề mặt, mà bên dưới đầy trùng độc, thì không thể gọi là nước ao yên lành. Để xã hội có ổn định, quyền lợi của từng cá nhân phải được tôn trọng đồng đều. Không có CÔNG LÝ, thì không có HÒA BÌNH, nghĩa là không có xã hội ổn định.

=>     Nêu ra Ý thức hệ Mác-Lê và tư tưởng Hồ chí Minh.

Ca ngợi cái Ý thức hệ Mác-Lê và tư tưởng Hồ chí Minh để họ lấy cái cớ mà giữ lại cái Cơ chế Chính trị độc tài nắm trọn độc quyền Kinh tế. Cái Ý thức hệ Mác-Lê chỉ là ảo tưởng và đã bị chôn vùi từ 1989. Trước đây Cộng sản đã dùng Ý thức hệ ảo tưởng ấy để nắm độc tài Chính trị và tước đọat TƯ HỮU, một quyền tự nhiên gắn liền với con người. Súc vật với nhau, chúng cũng biết tôn trọng vùng săn mồi mà con vật khác đã dùng dấu hiệu ghi quyền tư hữu của mình. Chính CSVN hiện nay, miệng nói là theo Ý thức hệ Mác-Lê, nhưng chúng đã giết chính Ý thức hệ này để trở thành tư bản đỏ, bóc lột tàn nhẫn dân nghèo vô sản. Hãy tôn trọng nhân phẩm và CÔNG LÝ giữa người với người, đó là Ý thức hệ muôn thuở.

=>     Nêu ra chiêu bài Hòa Giải Hòa Hợp để dụ dỗ

Chiêu bài này thường được CSVN nêu ra nhằm mục đích dụ dỗ những thành phần ham chia phần bánh vẽ với CSVN. Việc Hòa Giải Hòa Hợp giữa những thành phần giữ quyền hành điều hành Quốc gia để vẫn giữ độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế, thì đó chỉ là việc dàn xếp để những thành phần điều hành chia nhau miếng ăn bóc lột được. Chúng tôi cũng kêu gọi Hòa Giải Hòa Hợp, nhưng đó là việc Hòa Giải Hòa Hợp giữa quyền lực độc tài hiện hành với người Dân quốc nội đang bị đàn áp và bóc lột bất công do CSVN nắm trọn quyền hành gây ra. Tỉ dụ lập ra một đảng thứ hai để hai đảng ngồi chung chia quyền hành trị nước, đây không phải là Hòa Giải Hòa Hợp mà chỉ là mưu mô xảo quyệt để hai đảng cùng đè nén, bốc lột Dân nữa.

=>     Nới rộng Dân chủ

Trước việc đòi hỏi Dân chủ, CSVN có thể tuyên bố tham khảo ý kiến quần chúng như là nới rộng Dân chủ. Dân chủ không phải là sự ban phát từ những người có quyền. DÂN CHỦ là một nguyên tắc do chính những cá nhân quy định với nhau để giải quyết những tranh chấp khi những cá nhân ấy sống chung với nhau, để cùng tuyển chọn những người điều hành công việc chung. Như vậy, Dân chủ cũng là phương tiện để giữ sự ổn định xã hội.

Chúng tôi đã viết về hệ thống Kinh tế Tự do và Thị trường mà Aán độ đang áp dụng để phát triển bền vững và lâu dài Đất nước của họ. Đây là bài học DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ.

Khi chúng tôi kêu gọi DỨT KHÓAT PHẾ BỎ CƠ CHẾ CSVN HIỆN HÀNH ĐỂ PHÁT TRIỂN, không phải là chúng tôi kêu gọi đấu tranh Chính trị cực đoan hay phản đối Ý thức hệ Mác-Lê đã chết từ lâu. Chúng tôi hòan tòan đứng ở  phương diện quyền lợi Kinh tế của Đất Nước mà kêu gọi. Phải chấm dứt cái Cơ chế chủ trương Độc tài Chính trị NẮM Độc quyền Kinh tế và thực hiện việc DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ nghĩa là một nền Kinh tế phải vì Dân và cho Dân.

Việc tản quyền Kinh tế đến mọi người Dân là việc giữ thăng bằng phát triển Kinh tế trong lâu dài và bền vững.

 

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 16.05.2013

 

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-3/11/2024

Popular Posts

Popular Posts

My Link