Những ưu tiên khác nhau đang thách thức quan hệ Mỹ-Việt
Ryan MacClure
Trần Ngọc Cư
dịch
Kể từ khi bình thường
hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1995, Hoa Kỳ đã trở thành đối tác
thương mại hàng đầu của Việt Nam và là một trong những nước có đầu tư dẫn đầu
tại nước này. Việt Nam có tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong 20 năm qua. Vào
năm 2018, quốc gia này hi vọng được công nhận là một nền kinh tế thị trường và,
vào năm 2020, Việt Nam hi vọng ở vào địa vị một nước công nghiệp hóa.
Tuy nhiên, việc cải tổ
chính trị và bảo vệ nhân quyền đã không tiến bộ song hành với tăng trưởng kinh
tế. Những vấn đề này đã cộm lên như những lãnh vực đáng quan tâm đối với một số
quan chức Hoa Kỳ muốn theo đuổi một chính sách đối ngoại chủ động hơn tại Việt
Nam nhằm hạn chế những vi phạm nhân quyền và đẩy mạnh chế độ pháp trị. Những
quan tâm của họ có phần xung khắc với tham vọng của Chính quyền Obama trong
việc nới rộng quan hệ quân sự và kinh tế với Việt Nam nhằm biến nước này thành một
đồng minh chiến lược tại Đông Nam Á.
Kể từ khi Chính quyền
Obama đưa ra chính sách tái quân bình lực lượng hướng về châu Á, Hoa Kỳ đã gia
tăng hợp tác quân sự với các nước Đông Nam Á, như Việt Nam và Philippines để
đối trọng lại ảnh hưởng đang gia tăng của Trung Quốc trong khu vực. Các hải
cảng của Việt Nam, vai trò thành viên của nước này tại ASEAN, cũng như thị
trường đang lớn mạnh của nó đối với hàng hóa Mỹ, có khả năng biến Việt Nam
thành một đối tác quan trọng của Hoa Kỳ ở trong khu vực.
Hành động ve vãn Việt
Nam của Chính quyền Obama diễn ra vào một thời điểm độc đáo trong lịch sử của
khu vực này. Quan hệ lâu đời của Việt Nam với Trung Quốc gần đây đã xuống cấp
vì thái độ quyết đoán của Trung Quốc về vấn đề lãnh hải trong Biển Nam Trung
Hoa [Biển Đông Việt Nam]. Do đó, Việt Nam đã nới rộng quan hệ hữu nghị với một
số nước nhằm ngăn chặn hành động thù nghịch tiềm năng của Trung Quốc.
Chính quyền Obama đã gia
tăng đáng kể các nguồn lực dành cho Việt Nam. Trong ngân sách năm 2014, Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ đã gia tăng mức chi tiêu cho công tác yểm trợ giáo dục và đào
tạo quân sự quốc tế cũng như yểm trợ tài chính quân sự nước ngoài. Trong thời
gian làm Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, Hillary Clinton đã nhiều lần đến Hà Nội.
Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta cũng đã đến Việt Nam. Vào tháng Sáu năm nay,
Tướng Martin Dempsey [Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Mỹ] đã tiếp người đồng
nhiệm Việt Nam, Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ [Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN, Thứ trưởng
Bộ Quốc phòng VN], tại Lầu Năm Góc. Ngoài ra, Hoa Kỳ và Việt Nam cũng đang ráo
riết đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương [TPP], một hiệp định tự
do mậu dịch có lợi cho kinh tế đang tăng trưởng của Việt Nam.
Chuyến thăm viếng gần
đây của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang làm rõ nét những nỗ lực của
Chính quyền Mỹ trong việc hợp tác với Việt Nam. Vào cuối chuyến thăm viếng, ông
Trương Tấn Sang đã đưa ra một thông cáo chung với Ông Obama mô tả chi tiết việc
thiết lập Quan hệ đối tác Toàn diện Mỹ-Việt nhằm tạo một khuôn khổ để đẩy mạnh
quan hệ hai nước. Đại sứ Mỹ tại Việt Nam David Shear gọi cuộc thăm viếng này là
một thành công và cho biết thêm rằng nhiều cuộc họp giữa quan chức hai nước sẽ được
tổ chức trong năm nay.
Tuy nhiên, vấn đề cải tổ
chính trị và nhân quyền có tiềm năng cản trở, nếu không làm tiêu tan, những hi
vọng của Chính quyền Mỹ về việc hợp tác với Việt Nam. Đối
với nhiều quan chức Chính phủ Hoa Kỳ, những vấn đề này có thể phá vỡ mối quan
hệ giữa hai nước. Trước khi Chủ tịch Trương Tấn Sang đến Mỹ, Tiểu ban châu Á và
Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ đã mở một cuộc tường
trình về quan hệ của Mỹ với Việt Nam, trong đó những vi phạm nhân quyền của
Việt Nam đã cộm lên như một vấn đề trung tâm. Các thành viên của
Tiểu ban này đã bày tỏ mối quan tâm về việc Chính phủ Việt Nam đàn áp các nhà
tranh đấu nhân quyền và các lãnh đạo tôn giáo, đồng thời kêu gọi Hoa Kỳ phải
tạo sức ép buộc Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền và chế độ pháp trị.
Chủ tịch Ủy ban Hạ viện
Steve Chabot đã đặt nghi vấn là liệu việc Chính quyền Obama chi ra một ngân quĩ
cho việc phát triển quân sự tại Việt Nam có phải là một cách sử dụng khôn ngoan
tiền thuế của dân Mỹ hay không. Ông tuyên bố thêm rằng, một quan hệ liên tục
của Mỹ với Việt Nam là khó biện minh, cho đến khi nào nước này chịu “thực hiện
những cải tổ thích đáng và chứng tỏ cam kết tôn trọng những quyền cơ bản của
người dân”.
Tiểu ban này ghi nhận
rằng, nếu và khi các cuộc đàm phán TPP đạt được thỏa thuận cuối cùng, Quốc hội
còn phải phê chuẩn chúng, và họ sẽ duyệt xét rất kỹ lưỡng chỉ vì các vi phạm
nhân quyền của Việt Nam. Dân biểu Dana Rohrabacker bày tỏ mối quan tâm bằng
cách khuyến cáo Hoa Kỳ không nên tiếp sức cho “Chính phủ Việt Nam đàn áp
dân chúng”.
Việc làm luật đang được
xúc tiến tại Quốc hội Mỹ có thể cản trở Hoa Kỳ hợp tác với Việt Nam. Trong một
phiên họp duyệt xét và tranh luận dự luật [mark-up session] vào ngày 27 tháng
Sáu, Ủy ban Đối ngoại Hạ viện đã thông qua dự luật H.R. 1897,
một dự luật được dân biểu cả hai đảng đề xuất nhằm đẩy mạnh dân chủ và tự do
tại Việt Nam. Ủy ban này cũng lưu ý rằng việc Việt Nam đẩy lùi các bảo vệ nhân
quyền, dân chủ, và tự do báo chí có thể chặn đứng việc Mỹ hợp tác với Việt Nam,
bất chấp cả tầm quan trọng địa chiến lược của nước này.
Dự luật này ngăn cấm các
viện trợ nằm ngoài lý do nhân đạo cho Việt Nam nếu Chính phủ này không chịu cải
thiện lối ứng xử đối với các tù nhân chính trị và tôn giáo. Trong phiên họp
duyệt xét và tranh luận dự luật, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện đã gọi dự
này là một “thông điệp có răng”
[message with teeth] gửi đến Chính phủ Việt Nam.
Bất chấp các quan tâm về
vấn đề nhân quyền và cải tổ chính trị được nêu lên trong chuyến viếng thăm của
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Việt Nam có vẻ không muốn cải thiện tình hình.
Gần đây, Chính phủ Việt Nam thông qua một đạo luật [Nghị định 72] có tiềm năng
hạn chế bất đồng chính kiến trên Internet. Sứ quán Mỹ tại Hà Nội đã lên án nghị
định này, gọi nó là “không phù hợp với các nghĩa vụ của Việt Nam theo Công ước Quốc
tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, cũng như với các cam kết của Việt Nam theo
Tuyên ngôn Phổ quát về Nhân quyền”.
Chính quyền Obama thấy
rõ các trở ngại tiềm năng này. Họ cũng quan tâm về những vi phạm nhân quyền tại
Việt Nam. Năm 2010, Hillary Clinton, trong chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao, đã
cảnh báo rằng Việt Nam cần phải cải thiện hồ sơ nhân quyền của mình. Joseph
Yun, lúc bấy giờ là Quyền Trợ lý Bộ trưởng tại Phòng Sự vụ Đông Á và Thái Bình
Dương, hiện đang được đề cử làm Đại sứ Mỹ tại Malaysia, đã báo cáo với Quốc hội
Hoa Kỳ rằng Chính quyền Obama đã cho Việt Nam biết việc nâng cấp quan hệ Mỹ-Việt
sẽ gặp khó khăn nếu Việt Nam không cải thiện việc tôn trọng nhân quyền.
Mặc dù cùng chia sẻ
những mối quan tâm nói trên, nhưng Chính quyền Obama và Quốc hội Mỹ hình như có
hai ngưỡng chấp nhận khác nhau [different acceptability thresholds] đối với
việc phát triển quan hệ Mỹ-Việt. Chính quyền Obama, vì bận
tâm hơn với an ninh quốc gia và các liên minh quân sự khu vực, có vẻ muốn đặt
tình hình nhân quyền và chính trị tại Việt Nam ở một tầm quan trọng thấp hơn
tiêu chuẩn của các đại biểu Quốc hội Mỹ, là những chính trị gia đang chịu nhiều
sức ép của cử tri, nhất là người Mỹ gốc Việt. Trước khi Chính
quyền tiếp tục quan hệ đối tác Mỹ-Việt hay đưa ra các cam kết với Việt Nam,
trước hết Tổng thống phải có sự hợp tác của Quốc hội để đảm bảo rằng chính sách
đối ngoại của ông sẽ không gặp sự chống đối từ trong nước.
R. M.
Ryan McClure là một luật
sư và là một blogger về chính sách đối ngoại. Bạn đọc có thể theo dõi ông trên
Twitter@The BambooC.
Dịch giả gửi trực tiếp
cho BVN.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment