From: Tran Ho
Tôi
xin chuyển bài viết này đến những ai muốn biết về tình hình Việt Nam dưới sự
cai trị cùa đảng cộng sản VN, do một đảng viên có 45 tuổi đảng viết ra.
( bài được một người quen từ trong nước chuyển đến ) :
Xin mời đọc,vì rất đáng đọc
Phần tô màu đậm là do tôi muốn làm nổi bật phần ấy.
( Người Lính Già 73 Lê Phú Nhuận )
( bài được một người quen từ trong nước chuyển đến ) :
Xin mời đọc,vì rất đáng đọc
Phần tô màu đậm là do tôi muốn làm nổi bật phần ấy.
( Người Lính Già 73 Lê Phú Nhuận )
=
= = = == = = = = = = = = = = =
“SUY
NGHĨ TRONG NHỮNG NGÀY NẰM BỊNH…”
(LÊ
HIẾU ĐẰNG)
Sau
hơn 45 năm chiến đấu trong hàng ngũ Đảng Cộng Sản Việt Nam, với 45 tuổi Đảng,
những trãi nghiệm cay đắng mà tôi cùng nhiều bạn bè nữa trong phong trào học
sinh sinh viên trước 1975 đã chịu đựng thôi thúc tôi phải “thanh toán”, “tính
sổ” lại tất cả. Trong lúc nằm bịnh tôi đọc quyển “Chuyện nghề của Thủy” của đạo
diễn Trần Văn Thủy, các truyện của các nhà văn quân đội như Nguyễn Khải, Nguyễn
Minh Châu, Lê Lựu, Trần Dần và qua ti vi xem các chuyến đi thăm Mỹ của chủ tịch
nước Trương Tấn Sang, chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thăm Hàn Quốc, Myanma
(Miến Điện)lại càng giục giã tôi viết những dòng này.
Các nhà văn đã cho tôi
thấy thêm sự bi thảm của thân phận con người trong cái gọi là CNXH ở Miền Bắc, một
xã hội không có bóng người. Chuyến đi của chủ tịch nước Trương Tấn Sang không
có những nghi thức cao nhất của một nguyên thủ quốc gia hay chuyến đi thăm Hàn
Quốc , Myanma của chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nếu đem so sánh các chuyến
đi thăm Trung Quốc của các vị thì không khí hoàn toàn khác nhau.
Một bên thì
khô cứng, lạnh lùng của một nước lớn đầy tham vọng, một bên là không khí cởi mở,
vui vẻ bình đẳng. Không biết các nhà lãnh đạo của ĐCS Việt Nam với lòng tự trọng
dân tộc có “mở mắt” thấy điều đó
không?. Hẳn nhiên chúng ta không thể đòi hỏi Mỹ làm nhiều điều tích cực hơn bởi
vì công bằng mà nói anh không thể “mở lòng” với một nước mà thái độ không rõ
ràng, bất nhất.
Tất
cả tình cảm của gia đình và bạn bè trong nước cũng như ở nước ngoài làm tôi suy
nghĩ miên man trong lúc nằm bịnh càng khẳng định với tôi một điều: con đường mà
tôi cùng nhiều bạn bè, đồng đội đã lựa chọn, con đường tiếp tục đấu tranh cho
lý tưởng thời trai trẻ và một xã hội công bằng tự do dân chủ.
Ở đó con người
sống với nhau một cách tử tế, thật sự được giải phóng từ người nô lệ thành
người làm chủ của đất nước. Tôi ngày càng hiểu sâu sắc từ “GIẢI PHÓNG” không
có nghĩa như ngày nay người ta thường dùng mà là sự thoát xác thật sự
làm người tự do , dù cho người cai trị là da trắng hay da vàng, thậm chí điều
đau khổ, bi thảm nhất là hệ thống cai trị chính là người của dân tộc đó, là
Việt Nam, là Trung Quốc, v.v.
Nếu hiểu từ giải phóng
theo ý thức sâu xa đó thì tôi cũng rất đồng tình với nhận xét của nhiều nhà
báo, nhà văn, học giả ở Miền Bắc, trong đó có nhà báo Huy Đức trong cuốn “Bên
thắng cuộc” mới đây. Thật sự là Miền Nam đã giái phóng Miền Bắc trên
tất cả các lĩnh vực nhất là kinh tế, văn hóa tư tưởng…Vì
những lẽ trên tôi xin “tính sổ” với ĐCS VN và với bản thân cuộc đời của tôi, tư
cách một đảng viên, một công dân ở những điểm cơ bản sau: một cách minh bạch,
song phẳng để từ đây thanh thản dấn thân vô cuộc chiến
mới.
1.
Vì sao tôi đi kháng chiến, vào ĐCS Việt Nam?
Vào
thế kỉ trước, chủ nghĩa Marx, CNXH, CNCS đã làm say mê biết bao trí thức, văn
nghệ sĩ ở các nước, nhất là ở nước Pháp, cái nôi của khuynh hướng xã hội, dân
chủ mà cả thời kỳ ánh sáng với các tên tuổi như Montesquieux, Voltaire, Jean
Jacquess Rousseaux v.v…với khát vọng xây dựng một xã hội bác ái, tự do, bình
đẳng. Chủ nghĩa Marx, CNXH, CNCS chẳng những lôi cuốn, làm say mê của nhiều thế
hệ trí thức phương Tây thì ở Việt Nam cũng vậy.
Những tri thức văn nghệ sĩ tên
tuổi lẫy lừng như Văn Cao, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Thanh
Tịnh, Thế Lữ v.v…hay những tri thức tên tuổi ở nước ngoài như Trần Đức Thảo,
Nguyễn Mạnh Tường. Thật ra họ theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của HCM mà
họ đi vào chiến khu chứ họ ít hoặc chưa biết chủ nghĩa Marx là gì, CNXH ra sao
nhưng họ hy vọng sau khi kháng chiến thành công sẽ xây dựng một xã hội dân chủ
tiến bộ xã hội, tự do, hạnh phúc mà trong tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp năm
1946 ông HCM đã trịnh trọng cam kết trước toàn dân trước Ba Đình lịch sử. Lòng
yêu nước, lòng tự trọng dân tộc đã thúc đẩy mọi người tham gia Cách mạng tháng
8 và sau đó đi kháng chiến.
Bạn bè tôi và bản thân tôi cũng thôi thúc bởi những
tình cảm đó: lòng yêu nước, ý chí chống xâm lược, giành độc lập tự do dân chủ
cho Tổ quốc để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn các chế độ cũ ở đó công nhân,
nông dân, người lao động, những người hi sinh nhiều trong chiến tranh có cuộc
sống ấm no, hạnh phúc đã thôi thúc chúng tôi lên đường. tôi vào Đảng cũng rất
đơn giản: năm 1966, anh Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết) phụ trách đơn tuyến tôi,
hẹn tôi gặp nhau ở một chùa trên đường Trần Quốc Toản (nay là 3-2) để sinh
hoạt.
Anh Nguyễn Ngọc Phương nghiêm mặt tuyên bố: “Đ/c Bắc Sơn (bí danh của tôi
lúc đó) đ/c từ nay là Đảng viên Đảng nhân dân cách mạng (thực chất là
Đảng Lao động Việt Nam ở Miền Nam mà thôi). Lẽ ra tôi đưa điều lệ để
đồng chí nghiên cứu nhưng đ/c là người hoạt động công khai trong Ban chấp hành
Tổng hội sinh viên Sài Gòn và ĐH Luật Khoa nên tôi bây giờ mới phổ biến một số
điều trong điều lệ để đ/c biết”. Một buổi kết nạp chẳng có lời thề thốt, cờ
quạt gì cả. Anh Nguyễn Ngọc Phương, người phụ trách tôi trong thời gian đầu, là
người lớn lên trong một gia đình khá giả, có em gái lấy nghệ sĩ hài nổi tiếng
Bảo Quốc.
Thật ra qua một số người hoạt động ở Huế anh ấy đã biết tôi đã từng
tham gia phong trào đấu tranh Sinh viên học sinh Huế lúc tôi còn học đệ nhị, đệ
nhất Quốc học Huế và đã từng bị bắt giam ở lao Thừa Phủ Huế gần một năm với Lý
Thiện Sanh (nay là bác sĩ định cư ở Úc). Vì chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó
nghĩ tôi là thành viên của Đoàn TN nhân dân Cách mạng Miền Nam. Nhắc đến đây
tôi có một kỉ niệm khó quên: ba tôi và mẹ Lý Thiện Sanh nóng lòng vì đã đến kì
thi Tú tài II nhưng chúng tôi vẫn bị nhốt trong tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú
họa xin cho hai chúng tôi ra thi.
Thế mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc
đó lại giải quyết cho ra thi.
Tôi theo ban C Triết học nên chỉ còn vài
ngày nữa là thi, ba tôi gửi một số sách vào cho tôi. May mắn lúc đó tôi đã đọc
nhiều sách triết học của các Giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn và các tạp
chí Sáng tạo, Hiện đại của nhà văn Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, nhà thơ Nguyên
Sa, Tô Hoàng Yên v.v…, kể cả quyển sách viết về Niejche của Nguyễn Đồng Thi
Hiền còn trai trẻ trước 1945 nên gặp đề thi triết khá hay tôi tán đủ điều đậu hạng
thứ dễ dàng. Còn Lý Thiện Sanh học ban B vốn rất giỏi nên đậu hạng bình thứ. Những
ngày ba tôi đến đón tôi ra thi ông đã đi qua cánh đồng An Cựu trong những ngày
giá lạnh. Tôi không thể nào quên hình ảnh đó của ba tôi. Bây giờ Người đã mất
nhưng tôi không bao giờ quên ông, biết ơn nuôi dạy tôi thành người trưởng thành
pha một chút ân hận vì tôi mà ông phải khổ sở. Tôi
không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện nay có người tù nào đã được cho ra
đi thi như chúng tôi hay không?
Trong thời gian
đó, lúc nhà tù cho tù nhân làm văn nghệ, tôi thường hát bài “Tình quê hương”
thơ Phan Lạc Tuyên, nhạc Đan Thọ, lúc đó là Đại úy Quân đội Sài Gòn. Gia đình
của người phụ trách lao Thừa Phủ đứng trên bức tường có đường đi bao quanh nhà
tù để xem. Đúng là cái máu lãng mạng của đám Sinh viên học sinh chúng tôi lúc
đó ngay trong tù cũng nổi dậy đùng đùng và có cô con gái rất thích bài đó. Lý
Thiện Sanh đùa “Nó khoái mày rồi đó”. Về anh Nguyễn Ngọc Phương người phụ trách
tôi sau này bị địch bắt, đã hi sinh trong tù năm 1973.
Năm ngoái, nhân ngày giỗ
anh, tôi có kể lại việc mỗi lần sinh hoạt với tôi xong anh đề nghị tôi hát bài
“Trăng mờ bên suối” của Hoàng Nguyên. Hát xong tôi hỏi anh: “Anh là bí thư Đảng
ủy sinh viên mà sao thích bài hát ước át quá vậy?”. Anh cười buồn và nói:
“Chúng ta chiến đấu xét đến cùng là vì con người. Nhưng bài hát đó viết rất hay
về con người thì sao mình không thích được!”.
Nghe anh tôi càng cảm phục người
đ/c phụ trách tôi và hôm giỗ anh tôi hát lại bài “Trăng mờ bên suối” để cúng
anh. Sau đó, chị Cao Thị Quế Hương có vẻ trách tôi vì cho rằng anh Phương
không thể ủy mị như vậy. Tôi cười buồn và im lặng.
Tôi
đã đi theo kháng chiến và vào Đảng như thế đó…
2.
Vấn đề đa nguyên, đa đảng
Có
thời gian từ 1975 đến 1983 tôi là giảng viên Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa
học ở trường Đảng Nguyễn Văn Cừ thuộc khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Về phương pháp
luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin mà tôi hiểu được có một điều cơ bản là cơ sở hạ
tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế v.v…) như thế nào thì phản ảnh lên thượng
tầng kiến trúc như thế đó. Sau một thời gian dài Đảng
và nhà nước Việt Nam nhận chìm các tầng lớp nhân dân Việt Nam từ Bắc đến chí
Nam dưới chế độ quản lý kinh tế bao cấp, đi ngược lại tất cả qui luật tự nhiên,
cóp pi mô hình kinh tế của Liên bang Xô viết và Trung Quốc cộng sản 100%. Dân chúng
đói kém rên xiết. các đợt cải tạo tư sản X1, X2 đã làm tan nát biết bao gia
đình, làm dòng người vượt biên ngày càng nhiều, và biết bao gia đình phải chết
tức tưởi trên biển.
Trong đó có gia đình nhà báo Trần Triệu Luật, người đã cùng
tôi vào chiến khu và đã hi sinh vào ngày 11.10.1968. tại căn cứ Ban tuyên huấn
T.Ư cục Miền Nam cùng với nhà thơ Thảo Nguyên Trần Quang Long sau trận bom ác
liệt của F105 của Mỹ. Hoặc bị bọn cướp biển hãm hiếp làm nhục trước mặt chồng
con. Có thể nói tất cả điều đó là tội ác của Đảng và Nhà nước Việt
Nam, không thể nói khác được. Trước sự rên xiết của
người dân, những nhà lãnh đạo còn có tấm lòng và suy nghĩ đã chủ trương phải
đổi mới kinh tế bằng cách phải chấp nhận kinh tế có nhiều thành phần trong đó
có kinh tế cá thể. Thế thì một khi cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế
khác nhau trong xã hội sẽ có nhiều tầng lớp với lợi ích khác nhau thì tất yếu
họ phải có tổ chức để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của họ. Đó là qui luật tất yếu,
vì vậy không thể không đa nguyên đa đảng được, và như vậy điều
4 Hiến Pháp hiện nay là vô nghĩa.
Trước sau gì các vị
lãnh đạo của ĐCS phải chấp nhận thách thức này : các
Đảng, tổ chức đối lập sẽ đấu tranh bình đẳng với ĐCS trong các cuộc bầu cử hợp
pháp có quan sát viên Quốc tế giám sát như hiện nay
Campuchia đã làm. Tôi thách bất cứ ai trong Bộ chính trị, Ban bí thư,
trong ban Tuyên huấn của Đảng mà đứng đầu là ông Đinh Thế Huynh, vừa là Trưởng ban,
vừa là Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương trả lời luôn một cách công khai,
minh bạch với chúng tôi trên các diễn đàn mà không chơi trò “bỏ bóng đá người”
như đã từng thường sử dụng hiện nay. Thực tế hiện nay, trong Nam ngoài Bắc đã
tập hợp được những khuynh hướng có chủ trương đấu tranh cho một thể chế dân chủ
cộng hòa mà tiêu biểu là đề nghị 7 điểm và dự thảo hiến pháp năm 2013 của nhân
sĩ trí thức tiêu biểu ở trong Nam Bắc như nhà văn Nguyên Ngọc, các giáo sư Hoàng
Tụy, Chu Hảo, Tương Lai, Phạm Duy Hiển, những trợ lý Tổng bí thư, Thủ tướng hoặc
đại sứ nhiều thời kỳ như ông Trần Đức Nguyên, Việt Phương, Nguyễn Trung v.v…
Các
nhà kinh tế có uy tín lớn như Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, các nhà báo, nhân sĩ
trí thức kỳ cựu như Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Đình Đầu, Lữ Phương, Kha Lương Ngãi,
Nguyễn Quốc Thái, và các “lãnh tụ” sinh viên trước đây đã có một thời kỳ lẫy
lừng trong phong trào đấu tranh tại Sài Gòn và các đô thị Miền Nam trước 1975
như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Trần Văn Long (Năm Hiền), Huỳnh Kim Báu, Hạ
Đình Nguyên, Cao Lập và biết bao con người tâm huyết mặc dầu đời sống kinh tế đã
khá giả, có những người là giàu có nhưng không thể yên tâm thụ hưởng tất cả những
tiện nghi của đời sống đã vùng lên sau một giấc ngủ khá dài để chấp nhận mọi
rủi ro, nguy hiểm cho bản thân cá nhân mình cũng như gia đình để dấn thân vào
cuộc chiến đấu mới để tiếp tục thực hiện lý
tưởng thời trai trẻ mà hiện nay đã bị phản bội, chà đạp những lời hứa năm nào trong
kháng chiến.
Ngoài ra còn cả một lớp trẻ hăng hái, nhiệt tình
bao gồm những blogers, những sinh viên đang có những hoạt động ở các trường Đại
học hoặc nhiều tổ chức khác. Tình hình trên cộng với thực tế hiện nay tôi biết
nhiều đảng viên đang muốn ra khỏi Đảng, hoặc không còn sinh hoạt Đảng (giấy sinh
hoạt bỏ vào ngăn kéo). Vậy tại sao chúng ta,- hàng trăm đảng viên không tuyên
bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới
chẳng hạn như Đảng Dân chủ xã hội, những Đảng đã có trên thực tế trước đây cho đến
khi bị ĐCS bức tử phải tự giải tán. Tại sao tình hình đã chín mùi mà chúng ta
không dám làm điều này vì chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương
của Đảng chứ chưa có một văn bản pháp lý nào cấm điều này. Mà nguyên tắc pháp
lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm.
Đó là quyền công
dân chính đáng của chúng ta. Không thể rụt rè, cân nhắc gì nữa. Đây là một yếu
tố sẽ làm cho xã hội công dân, xã hội dân sự mạnh lên, không có thế lực nào ngăn
cản được. Đây là cách chúng ta phá vỡ một mảng yếu nhất của một nhà nước độc tài
toàn trị hiện nay. Chẳng lẽ nhà nước này bắt bỏ tù tất cả chúng ta sao? Chúng
ta phải đấu tranh với phương châm công khai, minh bạch, ôn hòa, bất bạo động, phản
đối tất cả mọi hành động manh động, bạo lực khiêu khích gây chiến tranh. Như
nhà thơ Nguyễn Duy đã viết đại khái trong bất cứ cuộc chiến tranh nào người thất
bại đều là nhân dân. Giờ hành động đã đến. Không chần chừ, do dự được nữa.
3.
Vấn đề Độc lập dân chủ, tự do và hạnh phúc
-Việt
Nam đã thống nhất mặc dầu còn nhiều điều chưa hòa hợp, đoàn kết thực sự. Nhưng còn
độc lập thì sao? Sau khi hi sinh biết bao xương máu, nay Đảng và Nhà nước Việt
Nam đều phải len lén nhìn ông bạn láng giềng Trung Quốc, -những kẻ luôn chực nuốt
chửng nước ta ,và vào năm 1979 họ đã xua quân tàn sát người dân Lạng Sơn và các
tỉnh phía Bắc mà tên Đặng Tiểu Bình xấc xược gọi là dạy cho Việt Nam một bài
học. Thật ra tổ tiên chúng ta, những tiền nhân thời xa xưa trước đã cho họ nhiều
bài học Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa v.v… Không biết tập đoàn Tập Cận
Bình có còn nhớ những bài học đó không? Riêng các vị lãnh đạo ĐCS và Nhà
nước Việt Nam thì dường như chưa thấy hết sức mạnh của dân tộc Việt nam nên quá
“hiền lành” đối với một nước lớn nhưng rất “tiểu nhân” (chữ nghĩa của các
truyện Tàu), miệng thì xoen xoét nói về “bốn tốt ,mười sáu chữ vàng” trong lúc
hành động thực tế là uy hiếp, săn đuổi, bắt bớ một cách vô nhân đạo các ngư dân
Việt Nam đang đánh bắt trong ngư trường truyền thống của mình, hoặc hèn hạ cắt
đứt cáp các tàu thăm dò dầu khí của chúng ta.
Thế mà phản ứng của lãnh đạo Việt
Nam thì quá nhu nhược: chỉ là lời phản đối lặp đi lặp lại nghe quá nhàm tai và
khó chịu của người phát ngôn viên bộ Ngoại giao. Đến nỗi, có những vụ việc lớn,
càng không dám thực hiện những việc bình thường trong quan hệ quốc tế là
triệu tập đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội đến để trao công hàm phản đối, chứ không
chỉ là tự mình phải mang công hàm đến toà đại sứ. Vậy thì độc lập cái gì?
Hẳn nhiên là chúng ta không dựa vào nước nầy chống các nước khác, nhưng thực tế
quốc tế hiện nay rất thuận lợi để chúng ta liên kết với các nước để đấu tranh
với Trung Quốc về Biển Đông.
Tôi rất mừng nghe Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên
bố ở hội nghị Shangri-la chống lại nền chính trị cường quyền và những đối xử vô
nhân đạo đối với ngư dân Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn một thiếu tướng Trung
Quốc, Thủ tướng đã khéo léo nói nước đó là nước nào ai cũng biết !. Rõ ràng đây
là cú đấm đích đáng bọn bành trướng Bắc Kinh trong một diễn đàn quốc tế.
Tôi
càng thấy vui hơn khi được biết đây là ý kiến của cá nhân Thủ tướng dám chịu
trách nhiệm để tuyên bố như vậy chứ không có sự chỉ đạo nào của Bộ chính trị
cả. Vì thế mà Hạ Đình Nguyên trong một bài viết về vấn đề nầy đã hoan hô Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đến 5 lần.
-Vấn
đề Dân chủ, tự do và hạnh phúc
Thực
chất đây là vấn đề dân sinh, dân chủ mà trước đây trong thời kì kháng chiến
hoặc trước 1975, ĐCS VN đã phát động để đấu tranh giành quyền sống. Đây là vấn
đề về con người.
+Về
dân chủ thì đã quá rõ. Muốn có dân chủ thực sự thì phải thay đổi thể chế
từ một nhà nước độc tài toàn trị chuyển thành một nhà nước cộng hòa với tam quyền
phân lập: lập pháp, hiến pháp, tư pháp, riêng biệt và độc lập. Tư
pháp độc lập thì mới có thể chống tham nhũng. Cần có Quốc hội lập hiến để soạn thảo
và thông qua Hiến pháp mới. Sau đó bầu Quốc hội lập pháp để ĐCS sẽ qua bầu cử
bình đẳng mà trở thành người lãnh đạo. Tôi nghĩ trong một thời gian dài ĐCS sẽ
là một lực lượng chính trị mà không có bất cứ lực lượng nào có thể tranh chấp được.
Các nhà lãnh đạo ĐCS cần tự tin điều đó. Dần dần các Đảng đối lập sẽ trở thành
một lực lượng làm nhiệm vụ như một kháng thể trong một cơ thể xã hội lành mạnh.
Nếu xã hội không có lực lượng đối lập sẽ trở thành một con bệnh SIDA khó trị,chỉ
có chờ chết mà thôi.
+Con
người khác con vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính của con người. Không có
tự do thì con người chỉ là một đàn cừu (theo ngôn ngữ của giáo sư toán học Ngô
Bảo Châu). Không có tự do thì không thể có khoa học, văn học, nghệ thuật, báo
chí…thật sự.
Do đó Hiến Pháp 1946 đã qui định những quyền tự do của con người. Đó
là vấn đề quyền con người. Nhưng giờ đây,chế độ toàn
trị đã phản bội tước đoạt tất cả các quyền cơ bản đó, vất bỏ tuyên ngôn nhân
quyền và nhai đi nhai lại luận điệu mỗi nước có hoàn
cảnh riêng, có vấn đề nhân quyền riêng.
Họ không biết rằng đó là quyền cơ bản
và phổ quát mà loài người đã đấu tranh qua nhiều thế kỷ đầy máu và nước mắt mới
có được. Trong cuốn “Đi tìm cái tôi đã mất” của đại tá nhà văn Nguyễn Khải đã
nói: “khi đọc cuốn Bàn về tự do của Stuart Mill thì vỡ ra nhiều vấn đề”.
Vì vậy
anh Nguyễn Khãi đã nhìn lại những gì mà anh đã trãi nghiệm một cách sâu
sắc với một giọng văn nhẹ nhàng không hàm hồ nên rất thuyết phục. Đây là quyển
sách đã đi sâu vào tim óc của chế độ mà không thấy các vị “phê bình điểm chỉ”
(cách gọi mới đây của nhà văn Phạm Xuân Nguyên, chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội đối
với tên Nguyễn Lưu cùng với một số người trong việc “bề hội đồng” bài viết của
Thạc sĩ Nhã Thuyên về nhóm “Mở miệng”) nào dám phê phán, chửi rủa.
Các vị lãnh
đạo ĐCS tại sao không suy nghĩ trong chế độ thuộc Pháp
lại có một thời báo chí, văn học nghệ thuật phát triển mà cho đến nay chưa có
thời kì nào có thể so sánh được dù là chế độ gọi là “tự do gấp vạn lần” như bà
Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã nói một cách hàn hồ, thiếu suy nghĩ, chỉ
làm trò cười cho thiên hạ. Báo chí thì nở rộ Gia Định báo, Phụ nữ tân văn, Nam
Phong, Phong hóa ngày nay…với những Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi…Văn
học nghệ thuật thì có cả một trào lưu thơ mới với Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ,
Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư và nhiều nhà thơ nổi tiếng khác với nhiều bài thơ
bất hủ mà đến nay ai cũng thuộc nằm lòng.
Về tiểu thuyết thì có nhóm Tự lực văn
đoàn với Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo…Ngoài ra còn có hàng loạt
nhà văn tài hoa khác như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Lan Khai, Thanh Tịnh, Nguyên
Hồng v.v…Với Thanh Tịnh tôi vẫn nhớ bài “Tôi đi học” trong tập “Quê mẹ” của
ông. “Hằng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những
đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức với những kỷ niệm hoang mang của buổi
tựu trường.
Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nẩy nở trong
lòng tôi như những đóa hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Buổi mai hôm
ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm đắt tay tôi trên con
đường làng dài và hẹp.
Con đường nầy tôi đã quen đi lại nhiều lần nhưng lần nầy
bỗng nhiên thấy lạ vì hôm nay tôi đi học.” Nhạc thì có một thời có nền tân nhạc
rực rỡ với các tên tuổi như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn-Từ
Linh, Doãn Mẫn, Lê Thương, Nguyễn Văn Thương…Thế mà Thanh Tịnh và những nhà
văn, nhà thơ, nhạc sĩ nói trên dưới chế độ XHCN ở Miền Bắc chẳng có tác phẩm
nào ra hồn.
Cũng
may ra sau 1975, không khí vui vẻ, sum họp của những ngày đầu đã tạo nên trào lưu
hứng khởi để nhạc sĩ VĂN CAO làm bài “Mùa xuân đầu tiên”
với điệu valse dìu dặt. Nhưng tội nghiệp cho Văn Cao đã ngây thơ tin rằng
“Từ đây người biết yêu người, từ đây người biết thương người, từ đây người biết
quê người…” thế mà bài ca này cũng bị cấm hát hết mấy năm.
Những năm sau, khi vào chơi với Trịnh Công Sơn và các nhạc sĩ Miền Nam,ông
Văn Cao đã nói lên nỗi thất vọng của ông. Cảnh chia lìa, vượt biên, đày đọa, tù
tội trong đó có người bạn văn chương của các ông đã làm ông buồn bực và tiếp
tục uống rượu.
Chỉ có một điều an ủi
của ông là vào Nam, vào Sài Gòn, ông nghe mọi người từ trẻ đến già đều hát “Mùa
xuân đầu tiên”, “Thiên thai”, “Suối mơ”, “Trương Chi”, “Buồn tàn thu”v.v…của ông.
Vấn đề là:- ĐCS VN cần trả lại những gì của lịch sử, của tiền nhân để lại. Việc
đổi tên đường từ Trần Quý Cáp thành Võ Văn Tần, từ Phan Đình Phùng thành Nguyễn
Đình Chiểu v.v…là việc làm thiếu suy nghĩ, nếu không nói là ngu xuẩn, chà đạp
lên lịch sử, xúc phạm những chiến sĩ tuy không phải là Cộng sản nhưng đã đấu
tranh bảo vệ đất nước trong các phong trào Cần Vương, Duy Tân.
Ngay trong lĩnh vực báo chí tại sao lại lấy ngày ra đời báo Thanh Niên, báo của
tổ chức CS làm ngày báo chí VN. Quan điểm tôi là phải lấy ngày 15-4 là ngày số
báo đầu tiên của Gia Định báo năm 1914 làm ngày báo chí VN. Năm sau, một số nhà
báo cùng chúng tôi sẽ tổ chức ngày báo chí VN vào ngày 15-4. Còn ĐCS và các tổ
chức của mình cứ lấy ngày 21-6 làm ngày báo chí Cách mạng cũng không sao. Việc
ai nấy làm. Thế thôi.
Tại
Miền Bắc gọi là XHCN khi hòa bình mới lập lại (1954), các văn nghệ sĩ mà đặc
biệt đi tiên phong là các nhà thơ, nhà văn quân đội, mà tiêu biểu là Trần Dân,
Phùng Quán, Hoàng Cầm…đã gây chấn động trong vụ Nhân văn giai phẩm. Có lẽ
vì họ là những người trực tiếp chiến đấu, từng chứng kiến cảnh chết chóc của
nhân dân trong chiến tranh nên họ quyết tâm tiếp tục chiến đấu để xây dựng một
chế độ tự do dân chủ và tiến bộ xã hội.
Họ đã quy tụ được nhiều nhân sĩ, trí
thức, văn nghệ sĩ giàn trận đấu tranh quyết liệt với Đảng để đòi hỏi tự
do sáng tác, đòi hỏi chính trị không được can thiệp vào sáng tác của văn nghệ
sĩ. Nhà nước độc tài Đảng trị trong những năm đó thấy
đây là nguy cơ đe dọa của chế độ nên đã ra tay đàn áp, bắt bớ, tù đày một cách
không nương tay. Người bị tù với vụ án ngụy tạo như công thần Nguyễn Hữu Đang,
người đã làm lễ đài Độc lập năm 1946. Hữu Loan với lòng tự trọng của một người
văn nghệ sĩ cương quyết về quê thồ vác đá nuôi vợ con. Ba mẹ vợ anh, trong cải
cách ruộng đất, đã bị chôn sống để trâu bò bừa lên đầu, lên cổ cho
đến chết.
Một Nguyên Hồng khảng khái bỏ về quê nuôi heo
để kiếm sống. Trần Hữu Đang sống những ngày tủi nhục phải góp nhặt bao thuốc lá
làm hàng “đối lưu” với ếch nhái, rắn rết của bọn trẻ chung quanh kiếm
cho. Năm 1989, tôi gặp thạc sĩ Luật Nguyễn Mạnh Tường ở Pháp , người đã theo Hồ
Chí Minh về nước năm 1946. Ông kể lại hoàn cảnh của ông lúc đó, bị cô lập đến
nỗi học trò cũng không dám nhìn mặt, phải bán tủ sách quí để sống qua ngày. Còn
nhà triết học Trần Đức Thảo , khi tôi còn làm Phó chủ tịch thường trực MTTQ
TP.HCM đã mời ông đến nói chuyện. Bước xuống xe ông ngó lên liền, xem có công
an theo dõi ông không. Buổi nói chuyện làm mọi người thất vọng vô cùng về ông.
Tôi
còn có những kỉ niệm đau đến xé lòng khi còn nằm trong hệ thống chính trị của
nhà nước toàn trị. Lúc còn là phó CT/TT MTTQ TP.HCM và là đại biểu HĐND TP khóa
4, khóa 5. Có mấy việc tôi còn nhớ mãi:
+ĐCS
VN ngày trở thành kiêu binh. Đâu đâu cũng vỗ ngực xưng tên là “ĐCS VN quang
vinh muôn năm”. Ngay cả Hội trường của cơ quan dân cử như HĐND TP thế mà chẳng
thấy đất nước, Tổ quốc đâu cả, chỉ thấy một khẩu hiệu
to, chần dần “ĐCS VN quang vinh muôn năm”. Một số đại biểu trong HĐND trong
Đảng cũng như ngoài Đảng thấy chướng mắt nhưng không dám nói. Họ đến nói với
tôi. Tôi thông cảm họ.
Trong HĐND khóa 5, khi lên phát biểu ở Hội trường tôi
trầm giọng nói: “Đây là cơ quan dân cử, đại diện cho nhân dân TP., nhưng tôi
không thấy đất nước, Tổ quốc ở đâu mà chỉ có ĐCS muôn năm thôi là sao? Đảng chỉ
là một bộ phận của nhân dân, không có Tổ quốc, nhân dân thì làm gì có Đảng. Đảng
phải đặt Tổ quốc lên trên hết vì vậy tôi đề nghị thây đổi khẩu hiệu này bằng câu
CHXHCN Việt Nam. Cả hội trường im phăng phắc. Nhưng ngay kỳ họp sau thì khẩu hiệu
Đảng đã thay đổi bằng tên nước.
+Tôi
là trưởng ban VHXH HĐND TP khóa 5. Trong các kỳ họp HĐND TP, các ban có bài
thẩm dịnh khá công phu. Phải đi thực tế, làm việc với các ngành và sau đó họp
toàn ban để thông qua Trưởng ban là người quyết định cuối cùng. Tôi nhớ trong
một kì họp, tôi thức suốt đêm sửa chữa, hoàn thiện văn bản để phát biểu trước
HĐND.
Khi lên phát biểu, nhìn xuống thì không thấy vị phó CT nào dự, kể cả phó
CT phụ trách VNXH. Thấy vậy tôi không đọc mà đề nghị ông Huỳnh Đảm, lúc đó là
CT HĐND, cho các thư kí, trợ lý điện gấp cho các phó CT, nhất là các phó CT phụ
trách VHXH về dự họp. Ban thẩm định chuẩn bị công phu để phân tích những vấn
đề, nhất là vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế,
thể dục thể thao, các vấn đề xã hội khác.
Những vấn đề có liên quan thiết yếu
đến đời sống nhân dân TP. Khi thầy các phó CT lục tục về họp tôi mới phát biểu
bản thẩm định của Ban. Đây là lần đầu tiên các phóng viên báo chí thấy việc này
nên rất khoái. Từ đó, kì hôp nào các PCT UBND cũng đều có mặt trừ một số PCT có
lý do chính đáng. Cái bệnh chỉ coi trọng Đảng , Thành ủy, xem thường HĐND đã
vào máu các vị quan chức của chúng ta.
+Việc
thứ ba là cuộc đấu tranh hay có thể nói là đấu khẩu của chủ tịch UBND TP Võ
Viết Thanh và tôi về việc có nên dẹp chợ hoa Nguyễn Huệ hay không? Cuộc đấu
khẩu gay gắt đến nỗi CT Võ Viết Thanh nói đại ý nếu đ/c Đằng thấy Đảng chật hẹp
quá thì xin ra khỏi Đảng. Tôi liền đốp chát lại: đó là chuyện mà tôi và anh sẽ
nói trong Đảng còn đây là HĐND. Giữa lúc có nhiều đại biểu đồng ý với tôi,
trong đó có Trần Văn Tạo, ủy viên TVTU, phó giám đốc Công an TP, Phạm Phương
Thảo, Ủy viên TVTU, phó CT phụ trách VHXH UBND TP thì chủ tọa kỳ họp lại được
tin ban TVTU họp và đã đồng ý dẹp chợ hoa TP.. Tôi cương quyết đề nghị có Nghị
quyết về vấn đề này nhưng chủ tọa làm ngơ và thông qua NQ ở HĐND TP.
Tuy đấu
tranh gay gắt như vậy nhưng đối với anh Võ Viết Thanh tôi vẫn tôn trọng tính
trung thực, quyết đoán của anh. Lúc đó tôi với tư cách đại biểu HĐND TP có phối
hợp với các vị hưu trí Q.6, với Ban quản lý thị trường TP để tố cáo những tiêu
cực, sai trái của Giám đốc Đông lạnh Hùng Vương lúc đó.
Phối hợp cuộc đấu
tranh này có anh Nguyễn Văn Thắng, ủy viên TV Quận ủy Q.6, Trưởng ban tuyên
huấn Q.6. Thắng cũng là dân phong trào SV. Không hiểu sao sau đó có một văn bản
có danh sách 12 người gọi là điệp báo của Cục tình báo TƯ trong đó Nguyễn Văn
Thắng nằm ở số 7. Lúc ấy anh Nguyễn Minh Triết mới về làm phó bí thư thường trực
của TƯ.
Tôi gặp anh Nguyễn Minh Triết và trình bày với anh về vấn đề thì anh đề
nghị tôi không can thiệp nữa vì danh sách đã có dấu đỏ của đặc ủy tình báo TƯ của
Mỹ. Trước đó có người biết chuyện ngụy tạo danh sách nầy và nói danh sách láo
được đánh trên giấy Bãi Bằng là giấy chỉ Cộng sản sau 1975.
Anh Nguyễn Minh
Triết ghi nhận nhưng Nguyễn Văn Thắng vẫn bị giam ở 4 Bạch Đằng. Lúc ấy Q.6
tính lấy lại nhà của Nguyễn Văn Thắng ở Bà Hom, Q.6. Tôi gặp chủ tịch Võ Viết Thanh
và đề nghị anh xem xét lại vấn đề này thì anh nói với tôi một cách cương quyết:
“Chuyện chính trị của Thắng tôi không biết nhưng chuyện nhà của Thắng tôi bảo
đảm không ai lấy được”. Anh giữ lời hứa khi Thắng được giải oan về lại Bà Hom,
Q.6 như cũ. Tôi gặp anh Võ Viết Thanh cám ơn anh.
Nhân đó tôi hỏi thăm tại sao
anh không đi học cử nhân, tiến sĩ như những người khác. Anh cười nói rất Nam
bộ: “Tôi không chơi kiểu đó. Nếu tôi học tôi sẽ xin nghỉ làm để đi học thật sự,
không như những vị học giả mà bằng thật như hiện nay”. Từ đó quan hệ giữa anh
và tôi rất vui vẻ, không còn nhớ gì trận đấu khẩu nảy lửa ở HĐND về vụ chợ hoa
Nguyễn Huệ. Sau này anh bị thất sủng vì vụ án Sáu Sứ mà trong quyển “Bên thắng cuộc”
nhà báo Huy Đức có nêu.
Tôi
nêu những trải nghiệm nói trên để chứng minh rằng trong
chế độ này không có chỗ cho người trung thực mà chỉ dành cho những người nói láo,
tránh né đấu tranh. Giờ đây chúng ta phải phá vỡ nỗi sợ hãi đó đi
để thực hiện một chủ trương cực kỳ quan trọng của nhà cách mạng Phan Châu Trinh:
Khai dân trí, chấn dân trí, hậu dân sinh.
Cuối
cùng tôi xác định bài viết này chỉ có mục đích là thanh toán, tính sổ cuộc đời của
mình, trang trải những nợ còn lại để gửi các vị lãnh đạo Đảng CSVN, để mong các
vị “mở mắt” ra mà có sự lựa chọn con đường sống cho dân tộc. Hiện nay xu hướng chạy
theo CN Mác-Lênin CNXH đã lạc điệu, không còn phù hợp nữa và đã sụp đổ tan tành
ở ngay quê hương Xô Viết. Hiện nay là cuộc đấu tranh trên thế giới về dân
quyền, dân sinh, dân chủ, tự do, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
Nghĩa là đây
là cuộc đấu tranh quyết liệt cho con người, vì con người chống lại các thế lực
phản động đang âm mưu nô dịch nhân dân, phá hoại môi trường vì những lợi ích
kinh tế ích kỷ của các tập đoàn, lũng đoạn nhà nước.
Tôi
không tin lắm về sự tự giác của một số nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước sớm thấy tình
hình và xu thế phát triển hiện nay để đặt lợi ích của Đất nước, Tổ quốc lên
trên hết cần có một giải pháp hợp lý, không vì lợi ích và sự tồn tại của Đảng, của
chế độ mà đi ngược lại xu thế phát triển của thời đại hiện nay.
Tôi quan niệm rằng,nhiệm
vụ của chúng ta hiện nay là cương quyết đấu tranh cho một xã hội công bằng, dân
chủ và tiến bộ, tôn trọng, thực hiện những lý tưởng của biết bao thế hệ cha anh
chúng ta về một nước VN hòa bình, độc lập, tiến bộ xã hội, văn minh và giàu
mạnh. Một khi xã hội dân sự, xã hội công dân mạnh lên, xã hội sẽ có đủ sức kiềm
hãm, ức chế các khuynh hướng độc tài của một nhà nước toàn trị. Trước mắt là phải
“chấn dân khí” để không còn sợ hãi các thế lực tàn bạo, không sợ bắt bớ, tù
đày. Sau đó là “khai dân trí” và “hậu dân sinh”.
Bài
viết nầy cũng là để trải lòng với bạn bè, đồng đội và những nhân sĩ trí thức,
các văn nghệ sĩ, các bạn TNSVHS mà tôi đã quen hoặc mới quen, để khẳng định một
điều: -với lòng tự trọng của một công dân một nước có lịch sử hào hùng
chúng ta phải hành động. Không nên ngồi tranh
luận với nhau về sự đúng, sai khi chọn lựa đứng bên nầy hay bên kia. Vì thật ra
cả một bộ phận loài người trong đó có người VN khát khao với một xã hội tốt đẹp
hơn, chống lại cái ác, cái xấu nên đã có thời gian dài nuôi ảo tưởng về ĐCS VN
và CNXH.
Vấn đề là trước đây chúng ta chưa có đủ điều kiện, dữ liệu để nhận
thức một số vấn đề sống còn của đất nước; Nhưng hiện nay tình hình trong nước
thế giới đã thay đổi, vì vậy chúng ta phải nhận thức lại một số vấn đề trước
đây. Nhận thức lại và dấn thân hành động cho cuộc chiến đấu mới. Đừng
loay hoay những chuyện đã qua mà làm suy yếu sức mạnh đoàn kết dân tộc. Hãy để
con cháu chúng ta làm nhiệm vụ đánh giá lịch sử. Còn chúng ta, trước mắt là
hành động, hành động và hành động. Điều này, tôi nói một
lần, rồi thôi…
Viết
trong những ngày nằm bịnh ( 8-2013 ).
Lê Hiếu Đằng
-Nguyên phó TTK Ủy ban
TƯ LM các lực lượng Dân tộc, dân chủ và Hòa bình Việt Nam
-Nguyên phó CT Ủy ban
MTTQ VN TP.HCM (từ 1989-2009)
-Đại biểu HĐND TP khóa
4, khóa 5
Các
chất trong hóa học , dù vô cơ hay hữu cơ , mỗi loại đều có thể kết hợp khi tạo
thành một hợp chất ...
Về nhân chủng dân tộc , có 3 thứ không thể kết hợp được :
Về nhân chủng dân tộc , có 3 thứ không thể kết hợp được :
Có
3 thứ không thể kết hợp với nhau . Đó là:
@ Thông minh, lương thiện & cộng sản.1 - Một người thông minh& lương thiện thì không thể cộng sản .
2 - Một người thông minh mà cộng sản thì không thể lương thiện . 3 - Một người lương thiện mà cộng sản thì chắc chắn không thông minh.
@ Thông minh, lương thiện & cộng sản.1 - Một người thông minh& lương thiện thì không thể cộng sản .
2 - Một người thông minh mà cộng sản thì không thể lương thiện . 3 - Một người lương thiện mà cộng sản thì chắc chắn không thông minh.
Những
Nhân Vật Nổi Danh Thế Giới khẳng định Về Cộng Sản?
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment