Còn đâu
nguyên khí quốc gia!
Thanh
Quang, phóng viên RFA
2013-08-10
2013-08-10
Hai
khuôn mặt hiếm hoi của dũng khí quốc gia: Uyên và Kha
Courtesy
chauxuannguyen blog photo
Trong
lịch sử VN, tại Trấn Nghệ An ngày xưa có một danh tướng nhà Hậu Trần và cũng là
thi nhân tên Đặng Dung trung kiên phò Vua Trùng Quang Đế, ra tay giúp nước,
nhưng sa cơ lỡ vận, khiến lâm cảnh “Thù trả chưa xong đầu đã bạc, Gươm mài
bóng nguyệt biết bao rày”.
Bài
tự sự “ Cảm Hoài” của thi nhân nói lên ý chí sắt đá của một anh hùng sinh bất
phùng thời, nhưng cũng thể hiện sự trách cứ về nhân tâm ly tán qua những vần
thơ, như:
(…)
Trời
đất vô cùng một cuộc say.
Bần
tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh
hùng lỡ bước ngẫm càng cay
Có
lẽ cảnh “ bần tiện gặp thời” và “anh hùng lỡ bước” ấy khiến blogger Minh Văn
không khỏi liên tưởng tới “Thế sự thời nay”, nhận xét rằng trong một xã hội mà
“Hiền Tài là nguyên khí quốc gia” thì bị nghi kỵ, bị gạt ra ngoài lề xã hội,
khi họ nói lên sự thật cho quê hương dân tộc thì bị gán cho là “thế lực thù
địch”, bị bỏ tù dài lâu trong khi những kẻ thấp hèn, nịnh bợ lại “thành đạt làm
quan”. Do đó, vẫn theo tác giả, chính vì “cái lẽ ngược đời” đó mà xã hội ngày
nay sống “không thật lòng mình”, sự dối gian trở thành “cẩm nang ứng xử”, và
“hiền tài đi vắng đâu cả” rồi. Tác giả Minh Văn cũng cho rằng “nguyên nhân phát
xuất từ chế độ độc tài, nó bắt con người ta phải cúi đầu tuân phục lãnh tụ và
chủ nghĩa” khiến “giết chết đi cái tôi cá tính của mình”!
Nhắc
tới “hiền tài” cùng “nguyên khí quốc gia” “đi vắng đâu cả” rồi và “cái tôi cá
tính của mình bị giết chết” có lẽ khiến người dân Việt lại liên tưởng đến, cách
nay hơn nửa thế kỷ, nhà ái quốc Phan Bội Châu, qua “Lưu cầu huyết lệ tân thư”,
cũng có lưu ý rằng “Dân khí nước ta bị suy giảm quá tệ. Trước kia sống bình thường
đã lâu. Khiếp sợ quen thói, nghe và thấy chật hẹp, tai như điếc, mắt dường mù”.
Qua
“Chuyện cướp bóc ở làng Vĩ Đại”, nhà văn Võ Thị Hảo từ Hà Nội cũng có đề cập
tới xã hội VN ngày nay, nơi “đa phần mọi người đều nói rằng tìm người có dũng
khí và trung thực bây giờ thật khó như mò kim đáy biển”. Nhưng sau khi kể
“Chuyện cướp bóc ở làng Vĩ Đại” với dân chúng “dở sống dở chết, chẳng còn ai
cứu giúp” vì họ chẳng dám “kêu lên”, “mặc kệ ân nhân bị hành hạ”, “làm chứng
dối”, “ném đá tiếp tay cho bọn cướp hãm hại người lành”, nhà văn cảnh báo rằng
“ Chính bởi thế, chúng ta là số đông, gần cả trăm triệu người, nhưng lại bị gọi
là một đám đông hèn yếu, thậm chí còn không dám mở miệng cất lời bảo vệ chính
mình, cam tâm nô lệ, còn nói gì đến việc bảo vệ người khác! Đó là sự suy đồi
của dân khí”. Cho nên, nhà văn Võ Thị Hảo lưu ý, “mỗi công dân không thể không
nhìn lại trách nhiệm của mình trong việc đã để cho dân khí suy đồi”, và “ bất
kỳ công dân nào cũng có trách nhiệm đương nhiên phải đấu tranh cho tự do, nhân
quyền và công lý cho mình và cho mọi người. Đó là khí chất làm người, là dân
khí, là nhân tố cốt lõi tạo nên nền công bằng và vững mạnh cho một đất nước”.
Nhà văn khẳng định:
" Vấn
đề thịnh suy của một đất nước, đương nhiên ở trách nhiệm nhà cầm quyền, nhưng
không thể không tính đến nguyên nhân dân khí. Khí chất và khí phách của người
dân thể hiện trong tính cộng đồng, trách nhiệm xã hội, trong sự lựa chọn, dám
tôn vinh sự thật, biết tri ân những người vì cộng đồng và công lý, dám chống
lại bất công, bạo ngược. Dân khí mạnh buộc kẻ ác phải chùn tay và phải cư xử
đúng mực. Dân khí cũng khiến mỗi người có được sức mạnh tinh thần để thoát vòng
nô lệ luôn chờ chực bủa vây."
Sau
khi quả quyết rằng những tù nhân lương tâm ở VN là những “tráng sĩ” vì đấu
tranh cho quyền lợi chung mà phải bị giam cầm sau song sắt thì “ lẽ nào ta
không nợ họ?!”, nhà văn Võ Thị Hảo lưu ý rằng chỉ trong vòng nửa năm nay, danh
sách tù nhân VN “tăng theo mức độ đàn áp” khiến khoảng 50 nhà bất đồng chính
kiến, nhất là các bloggers, bị tù tội oan sai, từ tội “trốn thuế” cho tới “lợi dụng tự do, dân chủ âm mưu lật
độ chính quyền”…; Rồi cảnh tù đày đã khiến những tù nhân lương tâm như Cù Huy
Hà Vũ, Điếu Cày, Lê Quốc Quân…liên tiếp tuyệt thực để phản đối hành động sai
trái vô nhân của các cấp quản lý trại giam, tạo nên cuộc “nổi dậy bất đắc dĩ”
của tù nhân ở trại tù Z30A Xuân Lộc…Thực trạng đó, theo nhà văn Võ Thị Hảo,
khiến công luận nêu lên câu hỏi rằng giới cầm quyền có khôn ngoan không khi
“chọn cách giải quyết những vấn nạn chính trị - kinh tế - xã hội bằng súng và
xiềng xích, đe nẹt tự do ngôn luận thay vì cải cách thể chế và cải cách kinh tế
?”, và họ “ Chỉ tìm cách đổ lỗi cho các ‘thế lực thù địch diễn biến hòa bình’
bên ngoài chứ không cắt bỏ khối ung bướu ngay trong thể chế…”.
Trong
khi nhà văn Võ Thị Hảo cảnh báo giới cầm quyền “không cắt bỏ khối ung bướu ngay
trong thể chế” này, thì nhà văn Thuỳ
Linh báo động về nạn “dư luận viên”, hay nói cách khác là “tuyên truyền viên”,
được giới cầm quyền sử dụng để ra sức “định hướng dư luận đi theo chủ trương
của đảng và nhà nước”. Theo nhà văn Thuỳ
Linh, trong khi các “dư luận viên cấp thấp” chỉ biết “văn tục, chửi bới”, nói
những câu thuộc lòng như “thế lực thù
địch”, “ bọn phản động, bán nước”, “kích động chống phá nhà nước”, “diễn biến
hoà bình”, “ăn bơ thừa sữa cặn”, “đảng quang vinh”, “bác Hồ vĩ đại”.v.v…, thì
những “dư luận viên cao cấp mới “thực sự đáng sợ” khi họ có đủ khả năng sử dụng
rất tốt những phương pháp tuyên truyền, nhồi sọ và tẩy não được đúc kết từ các
bậc “vĩ nhân” (của họ) như Stalin, Mao Trạch Đông…; chẳng hạn những luận điểm
thường thấy như “yêu tổ quốc là yêu đảng, yêu CNXH”, “kiên định mục tiêu CNXH”,
“nếu không có đảng CS và bác Hồ thì không có đất nước ngày hôm nay”, “ Bỏ điều
4 là tự sát”, “đa nguyên đa đảng thì đất nước sẽ loạn lạc”, “đất nước ta dân
chủ gấp vạn lần các nước tư bản”,“đất nước còn nghèo là do chiến tranh, bị cấm
vận, do thiên tai…” và nhất là “ do các thế lực thù địch”…, hoặc “đất nước ta
đã thoát nghèo”, đang “ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”, “nhờ
công ơn của đảng quang vinh và bác Hồ vĩ đại”.
Có
lẽ “Đảng quang vinh” như vậy nên blogger Huỳnh Ngọc Chênh tâm sự rằng “Tôi khát
khao vào đảng”. Mở đầu tâm trạng “khát khao vào đảng” ấy, nhà báo Huỳnh Ngọc
Chênh cho biết:
" Tôi
vẫn hay nói đùa với bạn bè, 61 năm qua đời tôi không có đảng. Nói đùa cho vui
vậy nhưng trong lòng tôi chua xót lắm. Khi tôi bước vào lứa tuổi hai mươi thì
đất nước cũng vừa thống nhất, cả nước đặt dưới quyền lãnh đạo của một đảng duy
nhất đó là đảng CSVN. Tôi có điều kiện và rất hăm hở tìm hiểu, nghiên cứu lý
tưởng, chủ thuyết và đường lối của đảng nầy. Sau một thời gian nghiên cứu chủ
nghĩa Mác Lê Nin cũng như tiếp xúc với thực tế qua các đảng viên, tôi thấy rằng
với quan điểm sống và phương pháp tư duy của tôi, tôi không thích hợp với đảng
nầy, từ đó tôi từ bỏ ý định phấn đấu vào đảng…"
Như
vậy là, theo nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, ông “phải cắn răng chấp nhận cuộc sống
không có đảng”, nghĩa là ông phải “lầm lũi cô độc sống giữa cuộc đời. Và phải
sống như thế qua gần 40 năm!”, luôn khát khao có một tổ chức chính trị hợp pháp
nào đó phù hợp với lý tưởng sống, với phương pháp tư duy của ông để ông có thể
gia nhập, để “có những người đồng chí bên cạnh cùng nhau bàn bạc về lý tưởng,
hỗ trợ nhau trong cuộc sống, kề vai sát cánh với nhau trong hoạt động cộng
đồng, giúp ích đất nước…”. Nhưng rồi tác giả “đau xót lắm chứ, thiệt thòi lắm
chứ”. Tại sao ? Tại vì, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh giải thích, “Làm sao mình bàn
bạc lý tưởng sống, chính kiến của mình với những người bạn ‘thời vụ’ như bạn
đồng nghiệp, bạn láng giềng, bạn nhậu, bạn bóng đá, bạn ăn chơi...?”. Sau khi “than
thân trách phận” như vậy, blogger Huỳnh Ngọc Chênh bày tỏ âu lo rằng “những thế
hệ tiếp sau, những bạn trẻ, những thế hệ tương lai của đất nước thì sao? Chẳng
lẽ vẫn cứ để họ tiếp tục sống đơn độc lầm lũi cho đến hết cuộc đời khi họ không
muốn vào tổ chức của đảng CSVN như thế hệ chúng tôi hay sao?”. Tác giả tâm sự
tiếp:
"Chúng
ta đang đối mặt với nguy cơ xã hội càng lúc càng suy đồi, càng bất an; chúng ta
đang phiền trách giới trẻ càng ngày càng sống xa rời lý tưởng. Nhưng thử hỏi
đảng CSVN có lo được lý tưởng cho toàn bộ giới trẻ? Thử hỏi chúng ta có chính
đảng nào khác để góp phần lo cho giới trẻ chưa có đảng? Làm sao trách họ sống
sao lầm lạc, vô nghĩa...?"
Nhưng trong bối cảnh hiện nay, xem chừng như ngày càng có nhiều người trong giới trẻ không sống “lầm lạc, vô nghĩa” khi họ ngày càng quan tâm nhiều hơn cho quê hương, dân tộc, ý thức rõ hiểm hoạ phương Bắc, mà điển hình là Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, các thanh niên Công Giáo, Tin Lành…đang trong vòng lao lý. Thế hệ trẻ trong nước ngày nay cũng ý thức được sức mạnh của Internet, mạng xã hội cùng sự nguy hiểm của “kẻ thù của Internet” như nghị định 285, nghị định 72 mà giới cầm quyền đã áp dụng hay sắp sữa áp dụng để bỏ tù những người yêu nước, ngăn chận thông tin trên mạng. Do đó:
Nhưng trong bối cảnh hiện nay, xem chừng như ngày càng có nhiều người trong giới trẻ không sống “lầm lạc, vô nghĩa” khi họ ngày càng quan tâm nhiều hơn cho quê hương, dân tộc, ý thức rõ hiểm hoạ phương Bắc, mà điển hình là Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, các thanh niên Công Giáo, Tin Lành…đang trong vòng lao lý. Thế hệ trẻ trong nước ngày nay cũng ý thức được sức mạnh của Internet, mạng xã hội cùng sự nguy hiểm của “kẻ thù của Internet” như nghị định 285, nghị định 72 mà giới cầm quyền đã áp dụng hay sắp sữa áp dụng để bỏ tù những người yêu nước, ngăn chận thông tin trên mạng. Do đó:
" Ngày
31 tháng 7 một nhóm nam nữ thanh niên rất trẻ gồm Nguyễn Thảo Chi, Phạm Đoan
Trang (Hà Nội), Nguyễn Nữ Phương Dung (Sài Gòn), Nguyễn Anh Tuấn (Đà Nẵng),
Nguyễn Lân Thắng (Hà Nội) đã sang Bangkok gặp gỡ với cơ quan nhân quyền Liên
Hiệp quốc và Human Rights Watch để trao cho họ thông báo chống lại điều 258.
Một
tuần lễ sau sự việc Bangkok, sáng ngày 7 tháng 8, năm blogger khác đã có mặt
trong Đại sứ quán Thụy Điển tại Hà Nội để trao cho Bà Phó Đại sứ Elenore Kanter
bản tuyên bố 258 và đồng thời chia sẻ với bà tất cả những thông tin mà chính
phủ đang cố thực hiện nhằm chống lại tự do ngôn luận cũng như đàn áp nhân quyền
tại Việt Nam. Năm bạn trẻ Nguyễn Thu Trang,
Nguyễn Đình Hà, Lê Hồng Phong, Nghiêm Ngọc Trai và Nguyễn Văn Viên như những
chú chim câu đã thành công trong việc mang những thông tin cần thiết ra thế
giới bên ngoài một cách thông minh và khôn khéo."
Trong
hoàn cảnh đất nước hiện nay, khi nhà cầm quyền siết chặt quyền kiểm soát mọi
mặt xã hội, kể cả phương tiện Internet, đàn áp người yêu nước chống phương Bắc
xâm lược…, nhưng liệu họ có hoàn toàn làm im hơi bặt tiếng được người dân, nhất
là giới trẻ đang chiếm đa số ở VN, trong thời đại bùng nổ thông tin này hay
không ?
Tin, bài liên quan
- Còn đâu nguyên khí quốc gia!
- Còn đâu nguyên khí quốc gia!
- Gia đình các tù nhân lương
tâm gửi thư cho TT Hoa Kỳ
- Thư của nhân sĩ, trí thức,
cựu chiến binh gửi CT Trương Tấn Sang
| ||||||||||||||||||||||||||||||||
Gửi những người bạn Việt Nam,
Chúng tôi, Liên minh biển Tây
Philippines, những người kêu gọi và tổ chức các cuộc biểu tình của người Philippines
trên toàn thế giới nhằm phản đối chính sách bành trướng của Trung Quốc trên
vùng đặc quyền kinh tế của chúng tôi, xin gửi lời chào trân trọng nhất tới
những người bạn Việt Nam của chúng tôi, những người có cùng mối quan ngại về
cách hành xử của Trung Quốc trên các vùng biển ở Đông Nam Á.
Như các bạn đã biết, chính
sách ngoại giao và hành động thực tế của Trung Quốc trên các vùng biển ở Đông
Nam Á chứa đựng nhiều sự bất hợp lý và xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi hợp
pháp của Philippines cũng như nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á, trong đó có đất
nước Việt Nam của các bạn. Chính sách này vi phạm nghiêm trọng Công ước Liên
hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) mà Trung Quốc, cùng với Việt Nam và
Philippines, là những bên đã ký kết.
Người dân Philippines chúng
tôi luôn bày tỏ quan điểm và thái độ nhất quán của mình là phản đối chính sách
ngoại giao này của Trung Quốc, đồng thời bảo vệ đến cùng chủ quyền của chúng
tôi đối với các vùng biển, đảo thuộc
về chúng tôi theo luật pháp quốc tế.
Chúng tôi kêu gọi những người
bạn Việt Nam, với truyền thống bảo vệ chủ quyền từ ngàn xưa của mình và dựa
trên các chuẩn mực pháp lý quốc tế, đoàn kết với người dân Philippines chúng
tôi trong một nỗ lực bảo vệ các lợi ích chung của nhân dân hai nước trước sự đe
doạ của chính phủ Trung Quốc.
Chúng tôi hiểu rằng, nhân dân
Việt Nam cũng như nhân dân Philippines, đều có mối quan hệ hợp tác từ lâu đời
với nhân dân Trung Quốc và chúng ta không chống nhân dân Trung Quốc, chúng ta
chống lại chính sách ngoại giao phi pháp của chính phủ Trung Quốc ở các vùng
biển Đông Nam Á.
Cùng đoàn kết, chúng ta sẽ
bảo vệ chủ quyền quốc gia của mỗi nước một cách hiệu quả hơn.
Trân trọng,
Liên minh Biển Tây
Philippines
SÓNG
HẬN SÔNG LÔ DỘI ĐẾN TRƯỜNG SA
(Nhân đọc
cuốn “Sóng hận sông Lô” của Vũ Ngọc Tiến – NXB
Hội nhà văn 7/2013)
Lê Mai
Hội Nhà văn
Hà Nội
Vào hồi
15h00 ngày 10/8/2013 tại Thư viện
café sách Đông Tây, đường Trần Quý Kiên Hà Nội, tuy vẫn còn lất phất những đợt
mưa phùn nhẹ do ảnh hưởng cơn bão số 5 rớt lại, đông đảo các nhà văn, nhà
nghiên cứu phê bình văn học, các PV báo in và báo hình vẫn tề tựu đông đúc để
tham dự buổi tọa đàm ra mắt cuốn tiểu thuyết lịch sử Sóng hận sông Lô của
nhà văn Vũ Ngọc Tiến. Sách dày 352 trang, do NXB Hội nhà văn & TTVH Đông
Tây liên kết ấn hành tháng 7/2013.
Sau lời đề
dẫn của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, 8 nhà văn, nhà phê bình, các PGS.TS. ở
hai trường ĐH Sư Phạm, ĐH Khoa học xã hội & Nhân văn quốc gia đã lần lượt
đọc tham luận. Và khoảng 40’ cuối cùng, nhiều bạn viết, bạn đọc chủ động lên
diễn đàn trao đổi về những vấn đề mà các diễn giả đặt ra.
Nhìn chung,
nhiều người đánh giá cao tâm huyết của tác giả đối với việc dạy và học môn Sử
hiện nay, thông qua những ý ngầm trong cuốn sách mà ông tự xếp vào thể tài “tiểu
thuyết lịch sử giáo trình”. Nhiều người khác quan tâm đến những thông điệp tư
tưởng-nghệ thuật tác giả gửi vào tác
phẩm nhìn trên bình diện một cuốn tiểu thuyết. Nếu nhà văn Hoàng
Quốc Hải đi sâu phân tích cách đặt vấn đề trực diện của người viết về bài học
cảnh giác trước họa xâm lăng của kẻ thù truyền kiếp là thế lực bành trướng
phương Bắc như một nguồn sáng soi chiếu đến tận những sự kiện lịch sử nóng hổi
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ xảy ra dồn dập khoảng 20 năm lại đây, thì PGS.TS La
Khắc Hòa lại bàn đến một khía cạnh về sự ngụ ý nghệ thuật mà theo ông là chỗ mới trong tư duy
nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết lịch
sử này: nhà văn đã nhìn ra cái suy nằm sẵn trong cái
cực thịnh của thời đại thời Lê sơ, nó là khung quy chiếu để soi thấu
bản chất các tiến trình vận động lịch sử của đất nước. Ở một góc nhìn khác, nhà
nghiên cứu Hán Nôm, TS Đinh Công Vỹ lại thích thú biểu dương tác phẩm khi đề
cập đến những sai lầm của vị chủ soái Lam Sơn: bỏ tam giáo đồng nguyên, chèn ép
Phật giáo, đưa Nho giáo đời Tống lên vị trí độc tôn, là những chủ trương
đã làm suy thoái nền học vấn của nước nhà, di họa đến nhiều đời
sau. PGS.TS. Phạm Xuân Thạch cũng trình bày mấy điều tâm đắc về cách hình dung
lịch sử của nhà văn theo hướng phức tạp hóa – đúng như nó đã từng là –
xuyên qua hình tượng hai mặt của nhân vật Lê Lợi: vừa là thủ lĩnh tài
ba, anh hùng dân tộc, vừa là ông vua đầy mưu mẹo, thâm hiểm, ý
thức về quyền uy tối thượng ngay trong buổi đầu khởi nghĩa nhằm giữ ngai vàng
cho dòng họ… Và đó chính là nguyên nhân sâu xa của những bi kịch lịch sử không
phải chỉ riêng ở triều đại Lê sơ…
Dưới
đây, BVN xin trân trọng giới thiệu bản tham luận của nhà văn
Lê Mai đọc trong buổi giao lưu sôi nổi của một diễn đàn văn hóa văn học có
tiếng thông thoáng từ khi thành lập đến nay.
Bauxite Việt
Nam
Quang cảnh
cuộc tọa đàm Sóng hận sông Lô. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên
nói lời đề dẫn
Vũ Ngọc Tiến
sinh năm Bính Tuất (1946) ở làng Bưởi, nay là phường Bưởi, quận Tây Hồ – Hà
Nội. Ờ mà đất Hà Thành cũng lạ, năm 1946 giữa khói lửa ngút trời của chiến
tranh chống Pháp bỗng dưng đẻ ra một đám linh cẩu sau này cùng theo đuổi nghiệp
văn: Nguyễn Mạnh Tuấn, Chu Lai, Hòa Vang, Nguyễn Đình Chính, Vũ Ngọc Tiến… Họ
mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một hoàn cảnh xuất thân, một cá tính thẩm mỹ; kẻ
sớm người muộn bước vào văn đàn, đều để lại những tác phẩm đáng mặt là những
chàng trai sinh trưởng nơi mảnh đất ngàn năm văn vật…
Chúng ta đã
quen với lối viết bảng lảng sương khói, thâm trầm, giàu trí tuệ, có lúc quyết
liệt của chú linh cẩu Vũ Ngọc Tiến với những Khói mây Yên Tử, Rồng đá,
Gà ô tử mỵ, Vị phồn thực… đặc biệt là Chù Mìn Phủ và tôi –
một truyện ngắn đặc sắc về cuộc chiến Việt – Trung tháng 2/1979. Nếu đem so
sánh nó với Ma chiến hữu của Mạc Ngôn thì chẳng biết mèo nào
cắn mỉu nào, nhưng số phận hai tác phẩm lại trái ngược đến phi lý mà năm 2008
ai ai cũng rõ!? Ngay cả khi anh viết sex thì cái sex ấy luôn được tiết chế và
chứa đựng một tư tưởng. Ai không tin hãy đọc lại truyện ngắn Rồng đá thì
khắc biết. Rồng đá là biểu tượng của quyền uy, thế mà trên cơ thể nó, chỗ nào,
kể cả cái mặt rồng nếu được lũ trẻ con trong làng cởi truồng trèo lên, tụt
xuống, gí chim chịn bướm vào là chỗ đó sáng lên, còn không thì mốc thếch, nhện
chăng rêu bám… Hay như trong truyện ngắn Vị phồn thực, chị vợ
viên Trung tá VNCH vạch vú đang cương sữa nhét vào miệng anh lính VC đang bị thương
sắp chết và kêu khát. Anh vừa sợ vừa ngượng, nhả vú ra, lắc đầu quầy quậy làm
chị nổi cáu tát cho một cái và quát: “Đang đêm giữa rừng, tìm đâu ra nước, muốn
chết hay muốn sống, hử?!…” Đọc Sóng hận sông Lô tôi hơi tiếc
vì cái phong vị quen thuộc ấy của tác
giả dường như bị cất giấu đi nhiều để anh thử nghiệm cái gọi là “Tiểu thuyết
giáo trình”. Duy chỉ có cái “vị tham” – tham kiến thức, vốn vừa là ưu
điểm vừa là nhược điểm của Vũ Ngọc Tiến là còn hiện rõ. Cái đó phù hợp với loại
“Tiểu thuyết giáo trình“ chăng? Tôi không biết nữa! Thôi thì cái phần lý luận
văn học về chủ nghĩa này, trường phái nọ trong tiểu thuyết hãy nhường lời cho
các nhà phê bình, tôi chỉ muốn bàn sâu về một vài mạch truyện làm nên tư tưởng
tác giả xuyên suốt trong cuốn sách này mà thôi.
Trong Sóng
hận sông Lô, tác giả muốn kể ta nghe về cái chết tức tưởi oan khuất của đại
công thần Trần Nguyên Hãn. Nhưng sao anh lại kể rộng thế? Nhiều sự kiện thế?
Nhiều nhân vật chính thế? Nhiều kiến thức về địa lý, sử học, triết học, tôn
giáo thế?… Phải chăng tác giả muốn chứng minh và giảng bài cho ngài Bộ trưởng
Bộ GD&ĐT thấy anh thực sự lo lắng cho thực trạng:
Dân
ta chẳng biết sử ta
Lại cứ vanh
vách nói ra sử Tàu!
Thực trạng
dạy và học lớt phớt bộ môn lịch sử trong các trường Phổ thông và Đại học đã
khiến Vũ Ngọc Tiến âm thầm suy ngẫm, luận giải về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, chia
nó thành 3 giai đoạn Phòng ngự (1418 – 1423), Cầm cự (1423 – 1426) và Tổng tiến
công (1426 – 1428) để tôn vinh vai trò của đội ngũ trí thức – là một phát hiện
độc đáo chưa có trong các giáo trình và sách giáo khoa.
Phải chăng
khi viết Sóng hận sông Lô, trong tâm thế tác giả sôi lên niềm tự
hào về nhà Trần 3 lần thắng giặc Nguyên – Mông, giữ vững nền độc lập chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ suốt 175 năm. Còn chiến thắng quân sự lẫy lừng đời Lê
kết hợp với chiến thắng của lòng nhân ái (Hội thề Đông Quan) đã dập tắt nguy cơ
Bắc thuộc lần thứ hai: “Trẫm lâu nay
vẫn giữ kín với cháu một điều, trong câu chuyện về giấc mộng lạ kỳ trên núi Sóc
ở huyện Vĩnh Lộc, quê của Trịnh Khả. Hôm đó vua Lê Đại Hành đã báo mộng rằng,
100 năm sau cơ nghiệp họ Lê tưởng chừng bị mất, may nhờ ở chân núi Sóc xuất
hiện nhân tài họ Trịnh đứng ra phò giúp vua Lê lấy lại kinh đô, kiến tạo nên
triều Lê Trung hưng kéo dài thêm 250 năm nữa” (trang 326). Vậy nếu cộng thêm 66
năm nội chiến Lê – Mạc thì triều Lê tổng cộng kéo dài hơn 400 năm. Thật là bài
học sâu sắc, đáng giá.
Phải chăng
qua Sóng hận sông Lô, tác giả cũng ngầm trao đổi với ta một cách
nhìn mới về tài – đức của bậc lãnh tụ. Người bình thường như chúng ta tài – đức
được phân biệt rạch ròi, có hồng và có chuyên. Nhưng đối với một bậc quân
vương thì tài và đức cũng như anh hùng và gian hùng hòa lẫn với nhau khó tách
biệt. Phải chăng thế mà một Lê Lợi thô tục, đầy dẫy thói hư tật xấu, thậm chí
đa nghi, nham hiểm, nhưng ông quá tài, quá giỏi trong tầm nhìn chiến
lược, thuật dùng người, tự tin và
quyết đoán nên ông làm xong đại nghiệp, xứng đáng là bậc quân vương, một anh
hùng dân tộc. Hiểu được Lê Lợi như thế sẽ biết cái chết của Trần Nguyên Hãn và
nhiều công thần trong giới trí thức là không tránh khỏi khi đất nước đã thanh
bình, “giảo thỏ hết thì cung tên xếp xó”. Có lẽ vì vậy nên tác giả không dựng
truyện xoay quanh nhân vật chính Trần Nguyên Hãn theo lối dựng truyện thông
thường, khai thác sâu giai đoạn thơ ấu ở chùa Thiên Ân hay 12 năm đi bán dầu,
vướng phải mối tình éo le với cô chủ Hồng… Giá được như thế, tiểu thuyết sẽ
lung linh, hấp dẫn hơn chăng? Tác giả chỉ muốn tập trung lý giải nguyên nhân vụ
án Trần Nguyên Hãn bằng việc viết lại “giáo trình” về một phân kỳ lịch sử thời
Lê sơ. Do vậy tiểu thuyết có lúc hơi khô chăng?…
Tôi đặc biệt
xúc động và đồng cảm với Vũ Ngọc Tiến khi anh dành nhiều trang trong tiểu
thuyết mô tả khá cụ thể, chân thực về âm mưu phá nát nội bộ triều Lê, làm suy
yếu nước Đại Việt bằng cả một mạng lưới gián điệp quy mô phủ khắp từ triều đình
ra xã hội, từ miền xuôi lên miền ngược. Và tôi có cảm giác Sóng hận
sông Lô đang dội đến Trường Sa. Tôi đọc và liên tưởng đến hình ảnh tác
giả cùng các nhà văn, nhà trí thức Nguyễn Huệ Chi, Nguyên Ngọc, Nguyễn
Quang A, Phạm Duy Hiển, Hoàng Xuân Phú, Nguyễn Đông Yên, Phạm Xuân Nguyên… hay
cùng các nhân sĩ Nguyễn Đăng Quang, Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Xuân Diện, Ngô Đức
Thọ,… năm 2011 đã xuống đường phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo
nước ta. Tôi chợt nhớ tới hình ảnh Vũ Ngọc Tiến một mình cô độc đi bụi giữa Tây
Nguyên, lang thang đến từng buôn làng, mỏ quặng Bauxite để viết bài tâm
huyết Tây Nguyên du ký, làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước.
Anh thường tâm sự với bạn bè rằng, dân tộc Hán là một dân tộc ghê gớm lắm. Sức
sống và sức đồng hóa của nó đạt tới mức ma quái. Lô gic thông thường: Người
chiến thắng sẽ đồng hóa kẻ chiến bại. Hơn 200 năm phát triển của Hợp chúng quốc
Hoa Kỳ, người da đỏ bản xứ ngày nay trở thành thiểu số yếu hèn, ăn nhờ ở đậu
ngay trên mảnh đất thiêng của mình. Nhưng đối với dân tộc Hán thì khác đấy. Vào
thế kỷ XIII, vó ngựa quân Mông Cổ tung hoành khắp lục địa Á – Âu, chiếm đất và
nhanh chóng thống trị Trung Hoa, nhưng rồi chính họ lại bị người Hán đồng hóa
thành triều đại nhà Nguyên. Có phải vì nỗi lo này không mà ta thấy trongSóng
hận sông Lô, tác giả dụng công mô tả rất nhiều thủ đoạn thâm hiểm của giặc
Minh thời hậu chiến để cảnh báo cho hôm nay và mai sau? Đọc đến đâu, nghĩ tới
vụ việc xảy ra hôm nay, tôi cứ giật mình thon thót:
“Ta sẽ
xin với Tuyên Tông Hoàng đế lập một vài phân đội thủy binh, cải trang thành hải
tặc chuyên săn lùng thuyền của ngư dân và khách buôn nước Nam Man đáng ghét này
mà cướp giết thật tàn bạo, khiến chúng khiếp vía không dám ra khơi. Ta tin chỉ
trong vài năm, cả một vùng biển bao la, giàu có của Nam Man sẽ thành lãnh hải
của Đại Minh” (trang 109). Hôm nay, một vài phân đội thủy binh của Trịnh
Hòa năm xưa đã biến thành hạm đội Nam Hải có đủ phi cơ, tàu ngầm, hàng không
mẫu hạm… trang bị hiện đại đang làm mưa làm gió ở biển Đông đấy thôi! Chúng tôi
đọc anh mà nhói lòng nghĩ tới thân phận các ngư dân ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi)
bị giặc Tàu xả súng giết hoặc bắt người, cướp thuyền và ngư cụ. Lại nữa: “Thoạt
đầu hắn sẽ làm cỏ nước Nam Man cho bõ tức, sau đó lần lượt nuốt chửng hai nước
Chiêm Thành, Chân Lạp. Đến lúc đó toàn bộ biển Đông sẽ thành biển Nam Trung
Hoa”… “Ta sẽ dùng thủy binh của Trịnh Hòa chiếm nốt Xiêm La, rồi từ Xiêm La
nuốt chửng luôn Ai Lao, Man Miến…” (trang 131). Khiếp quá! Đây chính
là ý đồ bành trướng của bọn theo chủ nghĩa sô vanh Đại Hán thời nay rồi còn gì!
Nó chỉ mới thè cái lưỡi bò ra đã chiếm tới 80% diện tích biển Đông.
Thế còn trên
đất liền thì sao? “Chu Đại đang neo thuyền buôn ở bến sông làng Hiến, được
cấp rất nhiều ngân lượng, lên bờ cắm chốt, lấy vợ bản địa, mua đất mở cửa hàng…”
Đến hôm nay ông bạn láng giềng phương Bắc đã lập được bao nhiêu phố Tàu sau khi
trúng thầu giá rẻ ở các công trình thế kỷ của nước Việt ta nhỉ? Chúng thuê được bao nhiêu héc ta rừng? Ngày xưa chúng
chỉ cho người tràn sang thu mua
vàng bạc, quế, hồi, sa nhân chứ bây giờ thu mua
cả đỉa, lá điều khô, móng ngựa, chân trâu… thì thật đểu cáng, thâm hiểm gấp mấy
các Hoàng đế nhà Minh!… Rồi nữa: “Lang Mỵ, Hưng Khánh có mỏ sắt lớn ta đã
cho đào bới, thăm dò”… “ Sát vùng biên giới có rất nhiều mỏ đồng,
chì, vàng, bạc, thiếc…” (trang 194). Tôi chợt giật mình tự hỏi, ở đấy có mỏ
bauxite không nhỉ? Giờ mỏ nào đã được liên doanh ngầm để móc khoáng sản thô chở
lậu qua biên giới? Lại nữa: “Mụ chủ lầu xanh Lệ Hoa cũng đã được cấp
ngân lượng mua đất, mở vài cao lâu, tửu quán… tuyển thêm gái đẹp, thạo ngón
nghề quyến rũ đàn ông…”, hay “Nay ta đã mở rộng thành mạng lưới giăng
kín xứ này gồm các thương nhân, đạo sĩ, thầy lang, thầy bói…” (trang 111).
Tất cả đều là điệp viên cả đấy – toàn cỡ điệp viên 007, khiếp! Kinh khủng nhất
là bàn tay phá hoại của giặc Minh thọc sâu vào tận cung đình, can dự vào công
việc của Khu mật viện– một cơ quan có vai trò gần giống như Ban Tổ chức Cán bộ
bây giờ. Bọn gián điệp đã gian manh tạo ra sự kiện lễ tế thần sông Cả, ở bến
Triều Khẩu (ngày rằm tháng 6 năm Ất Tỵ – 1425) nhằm can thiệp sắp xếp
nhân sự cao cấp nhất của triều đại nhà Lê sau này. (Loại bỏ bằng được nhóm
trí thức tài năng Trãi – Hãn – Xảo – Chú – Tư Tề và ngầm ủng hộ nhóm vô học,
tham lam, ngu ngốc Sát – Ngân – Vấn – Hoành – Nguyên Long). Tổng lực
đến thế! Táo tợn và nham hiểm đến thế! Sóng hận sông Lô năm
xưa đã dội đến Trường Sa hôm nay…
Sóng hận
sông Lô là
cuốn sách có hồn. Cái hồn đó nhắc bảo chúng ta: Không có một dân tộc nào trên
trái đất này được phép tự coi mình là siêu đẳng, là duy nhất, còn xung quanh
chỉ là Man – Di – Mọi – Rợ. Tất cả các dân tộc sinh ra đều bình đẳng. Chỉ một
phút lãng quên điều đó, Hít-le và dân tộc Giéc-manh đã phải nhận hậu quả bi
thảm. Cái hồn đó nhắc bảo chúng ta: Sức sống, sức đồng hóa của dân tộc Hán thật
ma quái, nhưng sức chống đồng hóa của dân tộc Việt cũng thật phi phàm. Trải qua
1000 năm Bắc thuộc mà người Việt vẫn
mãi là người Việt. Nó trở thành liều vắc-xin phòng chống Hán hóa hiệu quả mà
không thế lực nào có thể phủ nhận hoặc hèn hạ từ bỏ. Có phải thế chăng mà khi
đọc xong cuốn Sóng hận sông Lô, tận thẳm sâu trong tôi bỗng ngân
lên những câu thơ hào sảng của đại thi hào Nguyễn Trãi:
“Như nước
Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền
văn hiến đã lâu
Núi sông bờ
cõi đã chia
Phong tục Bắc – Nam cũng khác…”
Hà Nội 4/8/2013
L.M.
Tác giả gửi
trực tiếp cho BVN
Lê Hiếu Đằng : Cần cho lập thêm các đảng đối lập với đảng Cộng
sản Việt Nam
Luật gia Lê Hiếu
Đằng
RFI/Capdevielle
Thụy My
Trong bài viết mang tựa đề đơn sơ là « Suy nghĩ trong
những ngày nằm bịnh » đăng trên mạng Bauxite ngày hôm nay 12/08/2013,
luật gia Lê Hiếu Đằng đã nói lên những trăn trở của mình về vấn đề đa nguyên đa
đảng, về vấn đề độc lập, tự do dân chủ và hạnh phúc …
Bài viết trong
những ngày thập tử nhất sinh tại bệnh viện của vị luật gia nguyên là Phó chủ
tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, lại mang đầy
chất lửa, đầy tính chiến đấu. Đặc biệt ông đã mạnh dạn đặt vấn đề thành lập các
đảng đối lập, chẳng hạn một đảng dân chủ xã hội, thay vì đảng Cộng sản độc
quyền như hiện nay. Ông thách thức bất kỳ lãnh đạo nào trong bộ máy của đảng
Cộng sản trả lời ông một cách công khai về vấn đề trên.
RFI Việt ngữ đã
trao đổi với luật gia Lê Hiếu Đằng hôm nay.
|
RFI : Kính chào
luật gia Lê Hiếu Đằng, chúc mừng ông đã phục hồi được phần nào sức khỏe. Thưa
ông, vì sao ông đã mạnh mẽ đặt lại vấn đề đa đảng tại Việt Nam ?
Luật gia Lê Hiếu
Đằng : Trong đề nghị của 72 nhân sĩ trí thức đã nói về vấn đề
này một cách tế nhị. Nhưng sau khi bản dự thảo được trình Quốc hội lần thứ tư –
do quá tệ nên mới có phản ứng – cũng trong số 72 người thì có 40 người ký phản
đối lại bản dự thảo đó, thì nói rõ về đa nguyên đa đảng.
Còn bài của tôi,
tôi phân tích theo quan điểm Mác-Lênin thôi. Mình học abc chủ nghĩa Mác-Lênin
thì cũng biết rồi : cơ sở hạ tầng quyết định thượng tầng kiến trúc. Cơ sở hạ
tầng gồm năm thành phần kinh tế, nhiều giai cấp, nhưng thượng tầng kiến trúc
chỉ có một thì sao ? Vô lý, cái này nó phản lại, dù cho chủ nghĩa Mác-Lênin bây
giờ cũng đã lạc hậu về nhiều vấn đề rồi, người ta cũng từ bỏ rồi.
Nhưng nếu mà dựa
vào thì rõ ràng mấy ổng nói lấy được, nói một cách không có lý luận gì. Thành
ra tôi mới thách. Thách mấy vị, nhất là ông trưởng ban Tuyên huấn vừa là chủ
tịch Hội đồng Lý luận Trung ương tranh luận công khai, một cách minh bạch. Đừng
có chơi kiểu « bỏ bóng đá người ».
Thật ra đa nguyên
đa đảng tất yếu phải đến thôi. Ngay tình hình Campuchia hay là Nga cũng vậy.
Tất nhiên có một thời gian sẽ hơi lộn xộn, đó là cái giá phải trả. Nhưng mà sau
đó sẽ ổn định, thành một nước dân chủ, thì như vậy sẽ tốt đẹp cho cả dân tộc.
Đó là cái lối ra tôi cho là duy nhất của dân tộc, chứ không thể nào khác hết.
Vì nếu mà không dân chủ, không thực hiện được chế độ dân chủ cộng hòa với tam
quyền phân lập thì làm sao chống tham nhũng. Làm sao có được một Hiến pháp mới
phù hợp với người dân, do dân quyết định.
Nói chung tất cả
những vấn đề này là abc của thế giới rồi. Bởi vì thế giới người ta phải đấu
tranh bằng máu và nước mắt thì mới làm nên bản Tuyên ngôn Nhân quyền, và nhiều
vấn đề khác. Thành ra tôi thấy đây là tất yếu thôi.
Tôi nói công khai
minh bạch, và hơn nữa vấn đề đa đảng đó là chủ trương của đảng Cộng sản thôi.
Cho đến bây giờ tôi hỏi các luật sư và luật gia – bản thân tôi cũng là luật gia
– thì tôi thấy là chưa có văn bản pháp lý nào cấm việc đa nguyên đa đảng cả. Mà
theo nguyên tắc luật pháp, không cấm là người dân có quyền thực hiện.
Vì vậy tôi nghĩ cái
việc, ví dụ thành lập một đảng dân chủ xã hội – sở dĩ tôi nêu vấn đề này, vì
dân chủ xã hội bây giờ là khuynh hướng chung của các nước tiến bộ. Nó hạn chế
những mặt tiêu cực của chủ nghĩa tư bản. Đây là khuynh hướng tiến bộ, do vậy nó
có một hệ thống thế giới để hỗ trợ cho mình. Như vậy mình nên theo cái giòng
đó.
Trong cuốn « Mao
Trạch Đông ngàn năm công tội » ông đại tá nói thời kỳ Mao già rồi cũng nghiêng
về khuynh hướng dân chủ xã hội của Đệ nhị Quốc tế, rồi bản thân ông cũng đề
nghị như vậy.
Bây giờ nhiều nhân
sĩ trí thức ở trong nước, cũng như ở nước Pháp nơi cô đang định cư, là cái nôi
của yếu tố xã hội. Nhiều trí thức trước đây cũng có thời say mê chủ nghĩa cộng
sản thì bây giờ người ta từ bỏ hết. Bây giờ người ta đấu tranh cho nhân quyền,
dân quyền và vấn đề môi trường, đó mới thực sự là cuộc đấu tranh vì con người
và cho con người.
Do đó tôi nghĩ nên
thành lập một cái đảng như vậy. Mà nó có điểm tích cực là trở thành một đảng
đối lập, thành một kháng thể trong một cơ thể lành mạnh. Chứ nếu trong cơ thể
mà không có kháng thể thì nó trở thành một con bệnh SIDA, khó mà giải quyết
được, ngồi chờ chết thôi.
RFI : Dạ như
vậy đảng Cộng sản sẽ phải chấp nhận cái thách thức là sẽ phải cạnh tranh với
các đảng đối lập khác ?
Đúng. Tức là đảng
Cộng sản phải tự mình thấy rằng, nói thật, chưa có một thế lực chính trị nào
lớn hơn đảng Cộng sản cả. Thành ra nếu anh tranh cử một cách bình đẳng, thì vẫn
có thể thắng lớn trong các cuộc bầu cử. Bởi vì ở Campuchia, tuy bây giờ Sam
Rainsy có nhích lên, nhưng mà không phải là đa số. Hay là ở (Việt Nam) mình
chẳng hạn, tôi cho rằng vài ba chục năm nữa đảng Cộng sản vẫn là một thế lực
chính trị lớn, không một lực lượng nào có thể tranh chấp được.
Nhưng mà những đảng
nhỏ ra đời sau sẽ trở thành lực lượng đối lập. Đó là một sự kềm hãm, một cái
thắng đối với đảng cầm quyền. Như vậy qua cuộc bầu cử bình đẳng mà nếu đảng
Cộng sản thắng thì càng có uy tín – dân người ta ủy nhiệm cho anh như vậy. Chứ
bây giờ nói là lịch sử thế này thế kia nên bây giờ dân ủy nhiệm, thì tôi cho là
không đúng, mà phải nhìn thông qua một cuộc bầu cử bình đẳng, được quốc tế giám
sát như đang rất phổ thông hiện nay.
Tôi nghĩ đó là xu
thế phát triển tất yếu của loài người, và không thể đảo ngược được. Tôi chịu
trách nhiệm khi phát biểu về những điều đó. Còn ai muốn làm gì tôi thì làm thôi
! Tôi sẵn sàng, không có vấn đề gì cả. Bởi vì mình ở tuổi này rồi, thì cái chết
thật là hy sinh, phải có ý nghĩa ! Tôi nghĩ như vậy.
RFI : Ông có
viết là nhiều đảng viên đang muốn ra khỏi đảng, và đặt vấn đề tại sao không
tuyên bố tập thể như vậy và thành lập một đảng mới. Điều này có vẻ là ảo tưởng
trong xã hội Việt Nam hiện nay ?
Không, qua tiếp xúc
nhiều thì đây là ý tưởng của nhiều người. Có nhiều người cũng đến gặp tôi và
chán nản đòi ra khỏi đảng. Hoặc là (giấy chuyển) sinh hoạt đảng thì đem về
không đưa cho địa phương mà bỏ vào ngăn kéo, coi như không sinh hoạt đảng nữa.
Như vậy tại sao khi vào đảng thì (công khai), bây giờ anh nên công khai, tuyên
bố đàng hoàng vì sao tôi ra khỏi đảng.
Vì đảng này bây giờ
họ đã phản bội lại những mục đích ban đầu về việc xây dựng một xã hội tốt đẹp,
thực hiện lý tưởng mà một thời trai trẻ mình đã đổ biết bao xương máu mới giành
được. Bây giờ như vậy thì mình tuyên bố công khai ra khỏi đảng, chuyện đó cũng
bình thường.
Mà không phải ảo
tưởng đâu. Nếu cần thiết thì sẽ có nhiều đảng viên đồng tình với việc làm đó,
nên tôi mới đề nghị như vậy. Và đã ra khỏi đảng thì phải thành lập một đảng
mới. Tôi nghĩ đó là điều tất yếu.
RFI : Nhưng
sau nhiều thập kỷ đã quen chấp hành lệnh trên, Việt Nam dường như đang thiếu
vắng những khuôn mặt lãnh tụ xứng tầm ?
Đúng. Nói chung là
bây giờ đảng Cộng sản Việt Nam thiếu hẳn một lãnh tụ, hoặc là một vài người
lãnh tụ có uy tín. Lãnh tụ là gì ? Thật ra đâu phải mình đòi hỏi gì cao. Vấn đề
ở chỗ là phải đặt lợi ích đất nước, lợi ích Tổ quốc lên trên. Và nếu anh thể
hiện được ý chí, nguyện vọng của quần chúng, thì lúc đó anh trở thành người
lãnh đạo của dân, lãnh tụ của quần chúng.
Chứ bây giờ anh vì
lợi ích gọi là « đảng còn thì ta còn », hay « chế độ còn thì ta còn », mà chẳng
nghĩ gì tới tình hình đất nước…Thực tế bây giờ đảng và chủ nghĩa Mác-Lênin đang
trở thành một sự ngăn trở.
Ví dụ ở Việt Nam đã
gần bốn mươi năm thống nhất rồi. Lẽ ra với thời gian đó, nước người ta đã cất
cánh từ lâu, công nghiệp phát triển rồi thế này thế kia…Nhưng bây giờ tình hình
lại rất là bê bối.
Đường sá tai nạn
giao thông liên tục, rồi đạo đức xuống cấp. Tôi thấy trong y tế, cái vụ xét
nghiệm ở Hà Nội ghê gớm thật ! Nó xuống cấp đến độ như vậy. Rồi giáo dục cũng
vậy, cứ lò mò mãi không thấy lổi ra. Có thể nói là xuống cấp một cách toàn
diện, khủng hoảng toàn diện !
Còn tất nhiên khi
chấp nhận kinh tế thị trường thì nó tự điều chỉnh và có phát triển một hướng
nhất định. Nhất là khi phát triển nóng do đất đai, do nạn tham ô…đủ thứ chuyện,
rồi chia phần lại cho những người khác, thì có một bộ phận dân cư khá lên.
Nhưng đại bộ phận dân chúng nhất là công nhân và nông dân thì bây giờ vẫn sống
rất là khổ sở.
Tất cả những cái đó
tôi cho là trách nhiệm của chính quyền rất lớn. Anh gần như buông thả tất cả.
Buông thả từ chỗ để cho Trung Quốc hoành hành ở Biển Đông như vậy, rồi vào Việt
Nam, các miền rừng núi, và ngay cả đồng bằng sông Cửu Long cũng là Trung Quốc.
Tôi nghĩ là hiểm
họa bị xâm lược, tức là độc lập dân tộc bị đe dọa rất lớn. Những mục tiêu thời
trai trẻ chúng tôi đấu tranh hiện nay đang bị phản bội lại. Do đó chúng tôi
không thể nào ngồi yên để mà nhìn những gì mình đã đổ xương máu, đồng bào chiến
sĩ mình đã đổ xương đổ máu… mà phải đứng lên đấu tranh để bảo vệ, bất chấp mọi
hy sinh gian khổ.
RFI : Theo
ông thì vì sao Việt Nam không có được bao nhiêu chính khách vừa có bản lĩnh vừa
có tư cách ?
Vì sao mà không có
những chính khách, chính trị gia kiểu như (bà Aung San Suu Kyi) ở Miến Điện,
hay là ông Mandela chẳng hạn ? Một lãnh tụ của quần chúng, mấy chục năm tù tội,
nhưng người ta chỉ làm một nhiệm kỳ, xong rồi giao cho người khác. Tôi nghĩ là
do nền độc tài toàn trị nó ngăn cấm tất cả mọi cái, nhất là các quyền tự do. Vì
vậy mà ai cũng sợ hãi cả.
Do đó bây giờ nếu
có những chính sách thì tôi biết rằng ở miền Bắc cũng như miền Nam có những con
người rất tâm huyết, có kiến thức. Họ thật sự là những chính khách, nhưng họ
vẫn còn rụt rè thôi. Thành ra trong những bài nói, tôi bảo là không có gì mà
rụt rè. Hãy dấn thân đi!
Trước đây có những
vấn đề sống còn của đất nước, do tình hình thế giới và trong nước cũng vậy,
mình nhận thức không đúng và mình ảo tưởng chạy theo chủ nghĩa cộng sản, chủ
nghĩa xã hội. Thế thì bây giờ tình hình thế giới và trong nước đã thay đổi. Bây
giờ mình tự nhận thức lại hành động – hành động một cách cương quyết, chứ không
thể cứ chần chừ.
Từ cái hành động đó
thì sẽ xuất hiện những chính khách, những thủ lãnh chính trị. Tôi nghĩ là hoàn
toàn có khả năng đó. Và những người này trong các cuộc bầu cử tự do họ sẽ được
dân tín nhiệm. Đó là con đường phát triển của một xã hội dân chủ và tiến bộ.
RFI : Vừa
ra khỏi một cơn bệnh nặng, nhưng những khát vọng của ông đối với đất nước không
bị nguội lạnh mà chừng như lại cháy bỏng hơn. Ông có buồn lòng khi sau mỗi lần
trả lời phỏng vấn, thỉnh thoảng lại có những lời bình chỉ trích khoảng thời
gian hoạt động trước 1975 của ông cũng như bạn bè ông trong phong trào sinh
viên thời đó ?
Nằm trong bệnh
viện, như đã trình bày trong bài, tôi đã suy nghĩ, đọc một số bài báo rồi các
nhà văn, nhất là những nhà văn quân đội như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu. Rồi
qua chuyến đi của ông Chủ tịch nước Tư Sang, ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh
Hùng, tôi thấy có nhiều cái mình phải nói, và nói thẳng.
Để cho các vị - nếu
dùng chữ mở mắt thì hơi quá - nhưng mà để cho các vị ý thức được nên chọn lựa
con đường nào cho dân tộc, để làm cho đất nước phát triển chứ không thể cứ trì
trệ mãi như thế này. Không thể vì đảng, vì chế độ mà để đất nước như thế. Thành
ra cuối cùng tôi nói một số trải nghiệm của tôi, là để chứng tỏ rằng chế độ
toàn trị người ta chỉ đặt đảng lên trên Tổ quốc và đất nước. Cách đặt vấn đề
như vậy hoàn toàn không được.
Còn bây giờ có
nhiều người cứ nói đúng sai trong quá khứ. Bây giờ tranh luận cái đó để làm gì
? Trong khi phải đoàn kết lại với nhau, vì mục tiêu chung là xây dựng nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh – trong đó có vấn đề tự do. Các
quyền tự do của công dân phải được khôi phục lại, chứ không thể nào bị tước
đoạt.
Cần phải đoàn kết
nhau lại, để từ chỗ nhận thức lại phải cùng nhau hành động, đấu tranh cho một
đất nước Việt Nam như vậy mới là đúng. Chứ còn anh nói trước kia bên này đúng,
bên kia là sai…có thể nói lúc đó một bộ phận loài người cũng đương có những cái
ảo tưởng như vậy. Thành ra việc đó hãy để cho lịch sử phán xét, con cháu ngày
sau sẽ phán xét. Cái gì đúng, sai thì những thế hệ sau sẽ nhận định. Còn bây
giờ trước mắt phải cùng nhau đấu tranh để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
RFI : Xin
chân thành cảm ơn luật gia Lê Hiếu Đằng, Phó chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Dân
chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
From: Dzung T <dzungthedinh@yahoo.com>
Giết mọi người ái quốc khác quan niệm của mình
để trừ hậu hoạn, và mượn sức mạnh của khối CSQT về chiếm quền, dưới danh nghĩa
chống thực dân Pháp và sau đó xâm lược Mỹ, đó là cái gian giảo của Nguyễn Tất
Thành, một người đầy tham vọng mà con đường tiến thân bằng đường quan lại An
Nam (triều đình Huế) bị khép kín, cũng như việc thành công bộc cho Tây cũng bị
xù.
Đừng quên Nguyễn Tất Thành, Phạm Văn Đồng và
Võ Nguyên Giáp đều theo học tại trường chuyên đào tạo quan lại cho triều đình
Huế, do thân phụ ông Ngô Đình Diệm lập ra.
Lịch sử dần sẽ mở ra những bằng chứng để giải thiêng những quái
thần, huyễn tượng. Đằng sau sự "dấn thân" của Nguyễn Tất Thành và Võ
Nguyên Giáp..., có nhiều mảng tối, khác với những anh hùng liệt nữ VNQDĐ trong
vụ khởi nghĩa Yên Bái.
0o0
Mọi toan tính mạo nhận lịch sử, dù cho một thứ gọi là "cứu
cánh tốt" cũng sẽ gặt những hậu quả tai hại về sau.
Đúng là lịch sử không phải là một thực thể hành động (như một
đảng phái) nhưng "lưới tương quan nhân quả lịch sử" hình như gần như
là tuyệt đối.
Người ta có thể bàn luận về công&tội của Hồ Quí Ly, Mạc Đăng
Dung, Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống, Gia Long, anh em nhà Tây Sơn..., và dĩ
nhiên sau này phải kể Nguyễn Tất Thành, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Ngô Đình
Diệm..., nhưng bản "án" nhân quả đều đã được tuyên và thi hành bằng
nhiều cách, và không thể tránh khỏi.
Chứng tỏ có đôi đường nhân quả
"Giải oan chi mượn đến đàn tràng"
0o0
Cái nghiệp chướng lớn nhất và bi thảm, đáng chau mày như một vở
kịch theo trờng phái tréo cẳng ngỗng kiểu W. Shakespeare là ông nhạc sỹ làm bài
nhạc đầy tính bợ lãnh tụ lại chính là Phạm Tuyên, con của Phạm Quỳnh.
Việc cộng tác với triều đình Huế, cộng tác văn hóa với thực dân
Pháp còn trong vòng nghị luận lịch sử, nhưng con đẻ lại làm nhạc ca tụng kẻ sát
nhân bố mình, thì còn gì phải nói nữa, trong cõi đời vào cuối thế kỷ 20 sang
qua đầu thế kỷ 21.
Đấu tố cha mẹ vì theo cách mạng đỏ.
Làm nhạc vinh thăng lãnh tụ vì con đường lý tưởng cộng sản
Riêng về tài năng thì Phạm Quỳnh không cần phải ca tụng ai để
được đời ghi danh. Con của ông ta, Phạm Tuyên thì phải nhờ qua Hồ Chí Minh
(Nguyễn Tất Thành). Do đó hàng ngũ văn thi nô CSVN thờng ca tụng Phạm Tuyên là
"can đảm và có tư cách"!
D~
TẠI SAO CỘNG SẢN GIẾT PHẠM QUỲNH?
Trần Gia Phụng
Việt Minh cộng sản đã giết Phạm Quỳnh (1892-1945)
hai lần: Lần thứ nhất hạ sát, che giấu và phi tang thân xác ông tại Huế năm
1945. Lần thứ hai, bóp méo lịch sử, viết sai lạc về Phạm Quỳnh, nhằm hủy diệt
luôn sự nghiệp và thanh danh của ông. Một câu hỏi cần được đặt ra là lúc đó
Phạm Quỳnh đã rút lui khỏi chính trường, tại sao cộng sản lại giết Phạm Quỳnh,
trong khi cộng sản không giết Trần Trọng Kim và toàn bộ nhân viên nội các Trần
Trọng Kim, là những người đang còn hoạt động? Câu hỏi nầy cần tách ra làm hai
phần để dễ tìm hiểu:
Thứ nhất: Từ khi đến Trung Hoa hoạt động năm
1924, Hồ Chí Minh, điệp viên của Đê Tam Quốc tế Cộng sản, lúc đó có tên Nguyễn
Ái Quốc, Lý Thụy, đã chủ trương “giết tiềm lực”. Giết tiềm lực là tiêu diệt tất
cả những cá nhân có khả năng tiềm tàng mà không chịu theo chủ nghĩa cộng sản
hay đảng Cộng Sản, có thể sẽ có hại cho đảng Cộng sản trong tương lai. Những
người nầy về sau có thể sẽ hoạt động chính trị và có thể sẽ gây trở ngại, gây
nguy hiểm cho sự phát triển của cộng sản. Nạn nhân danh tiếng đầu tiên của chủ
trương giết tiềm lực của Hồ Chí Minh là Phan Bội Châu (1867-1940). Phan Bội
Châu bị Lý Thụy bán tin cho Pháp, để Pháp bắt Phan Bội Châu năm 1925 tại nhà ga
Thượng Hải, nhằm đoạt lấy tổ chức của Phan Bội Châu. (Tưởng Vĩnh Kính, Nhất cá
Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả, bản dịch của Nguyễn Thượng
Huyền, Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, California: Nxb. Văn Nghệ, 1999, tt. 84-85.)
Từ đó, Hồ Chí Minh và phe đảng thi hành chủ
trương giết tiềm lực, ngầm thủ tiêu rất nhiều thanh niên sinh viên hoạt động
chính trị, và nhất là năm 1945, khi nắm được quyền lực, Việt Minh (VM), mặt
trận ngoại vi của đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD), đã giết hầu hết những nhân
tài không theo VM.
Tại Huế, VM tìm tất cả các cách nhắm cô lập vua
Bảo Đại. Cách tốt nhất là cách ly nhà vua với những người có khả năng và
uy tín thân cận bên cạnh nhà vua, trong đó quan trọng hơn cả là Phạm Quỳnh và
Ngô Đình Khôi. Do đó, VM ra lệnh bắt Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi cùng con
của ông Khôi là Ngô Đình Huân ngày 23-8-1945. Đồng thời VM sắp đặt những
người của VM như Tạ Quang Bửu, Phạm Khắc Hòe vây quanh rỉ tai nhà vua, phóng
đại về kháng chiến, về Việt Minh.(Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, tr. 184.)
Theo David G. Marr trong Vietnam 1945, The Quest
for Power, sau khi Phạm Quỳnh và hai cha con Ngô Đình Khôi bị bắt, người Nhật
can thiệp một cách yếu ớt không hiệu quả. Ngày 28-8, sáu người Pháp nhảy dù
xuống một địa điểm cách kinh thành Huế khoảng 20 cây số nhắm mục đích bắt liên
lạc với vua Bảo Đại và các cựu quan Nam triều. Lúc đầu, VM địa phương tưởng
những người Pháp nầy là người của phe Đồng Minh, cho họ trú tạm tại một ngôi
nhà thờ, nhưng khi biết rằng đây là những người Pháp có ý định tìm cách liên
lạc với các quan chức Nam triều cũ, VM liền giết bốn người, và cầm tù hai người
đến tháng 6-1946. (David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power [Việt
Nam 1945, đi tìm quyền lực] University of California Press, tt. 452-453.)
Trong khi cô đơn, lại bị Phạm Khắc Hòe xúi giục
và hù dọa, vua Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị ngày 25-8-1945, và làm lễ thoái vị
tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8-1945, với sự hiện diện của đại diện Việt Minh là Trần
Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, và Cù Huy Cận.
Theo hồi ký của Trần Huy Liệu, sau khi Nhật đầu
hàng, người Pháp nhảy dù xuống Huế, liền hỏi ngay đến Bảo Đại, Phạm Quỳnh và
những người cộng tác với Pháp trước đó. Việt Minh bắt được toán người Pháp
nầy và "xử lý thích đáng" Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh. (Nguyên văn
lời của Trần Huy Liệu.) Theo lối chơi chữ của Trần Huy Liệu, "xử lý
thích đáng" có nghĩa là thủ tiêu hai ông Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh.
Nhiều người cho rằng việc người Pháp muốn kiếm
cách liên lạc với cựu hoàng Bảo Đại và Phạm Quỳnh (vì lý do gì không được rõ)
vô tình đã làm cho VM lo ngại, sợ rằng một khi người Pháp trở lui, Pháp sẽ nhờ
Phạm Quỳnh và những người đã từng làm việc với Pháp như Ngô Đình Khôi giúp Pháp
lật ngược thế cờ, đưa cựu hoàng trở lại cầm quyền.
Do đó VM vội vàng "mời" cựu hoàng Bảo
Đại rời Huế ngày 4-9-1945, ra Hà Nội làm cố vấn chính phủ, để cách ly cựu hoàng
với cố đô, chiếc nôi của nhà Nguyễn, đồng thời cách ly cựu hoàng với những cận
thần cũ. Vì vậy VM giết ngay các ông Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi ngày 6-9 để trừ
hậu hoạn. Trong khi đó, nếu người Pháp trở lui Huế, người Pháp cũng không hợp
tác với Trần Trọng Kim, vì ông Kim và nội các của ông bị gán cho là thân Nhật.
Thứ hai: Khi cướp chính quyền, VM đã chủ ý
giết một số người trong đó có Phạm Quỳnh. Việt Minh chủ ý giết Phạm Quỳnh vì:
1) Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quân
chủ lập hiến tại nước ta, và cho rằng cộng sản là "nạn dịch" gây bất
ổn xã hội. (Phạm Quỳnh, “Ce que sera l’Annam dans cinquante ans?”[Nước Nam sẽ
ra sao năm mươi năm sau?], Essais franco-annamites (1929-1932), Huế: Nxb. Bùi
Huy Tín, 1937, tr. 500.) Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quốc học trong khi
Việt Minh muốn phổ biến chủ nghĩa cộng sản.
2) Ở trong nước, Phạm Quỳnh tiêu biểu
cho giới trí thức làm văn hóa, theo chủ nghĩa dân tộc, lập trường quốc gia, bất
bạo động, dấn thân hoạt động chính trị. Việt Minh giết Phạm Quỳnh để đe dọa, uy
hiếp và khủng bố tinh thần giới trí thức hoạt động văn hóa trên toàn
quốc. Đây là lối mà người xưa gọi là "sát nhất nhân, vạn nhân cụ
"(giết một người, mười ngàn người sợ).
3) Đối với nước ngoài, Phạm Quỳnh là
người được Pháp ủng hộ và rất có uy tín trên chính trường Pháp. Với đường lối
ôn hòa, ông còn có thể được cả Nhật, Trung Hoa (lúc bấy giờ do Tưởng Giới Thạch
và Quốc Dân Đảng cầm quyền), Anh, Hoa Kỳ chấp nhận hơn là đường lối cực đoan
theo Liên Xô của Hồ Chí Minh.
4) Hồ Chí Minh muốn chụp lấy ngay thời cơ
tạo ra do khoảng trống chính trị sau tối hậu thư Potsdam vào cuối tháng 7-1945,
nên chủ trương tiêu diệt tất cả những người nào có khả năng tranh quyền với Hồ
Chí Minh, để cho ở trong cũng như ngoài nước thấy rằng chỉ có một mình Hồ Chí
Minh mới xứng đáng lãnh đạo đất nước. Phạm Quỳnh đã từng là thượng thư bộ Lại,
đứng đầu triều đình Huế. Đặc biệt những điều ông viết về tương lai thế giới mà
ông đưa ra từ 1930 trong bài "Ce que sera l ' Annam dans cinquante
ans?" [Nước Nam sẽ ra sao năm mươi năm sau?] đều đã diễn ra đúng theo ông
tiên liệu, như mối đe dọa của Nhật Bản, nạn dịch cộng sản, xung đột Thái Bình
Dương, đại hỏa hoạn ở châu Âu [thế chiến 2]. Nhờ thế mà uy tín Phạm Quỳnh lên
rất cao.
Phạm Quỳnh có uy tín và tư thế lớn đối với dư
luận trong và ngoài nước, là một trong những người có thể trở thành đối thủ
đáng ngại của Hồ Chí Minh, nên Hồ Chí Minh quyết tiêu diệt Phạm Quỳnh để tránh
trở ngại về sau.
5) Khi mới nổi dậy năm 1945, để lôi cuốn
quần chúng, Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh là
nhà yêu nước, chứ không phải là đảng viên cộng sản, và Hồ Chí Minh ra đi để tìm
đường cứu nước, đồng thời Hồ Chí Minh tự giấu thật kín chuyện xin vào học
trường Thuộc Địa Paris mà bị loại. Một chuyện nữa cũng thuộc loại “thâm cung bí
sử” của Hồ Chí Minh là việc Nguyễn Ái Quốc gia nhập Hội Tam Điểm
(Franc-Maçonnerie) ở Paris vào đầu năm 1922. (Jacques Dalloz, “Les Vietnamiens
dans la franc-maçonnerie coloniale” [Người Việt trong hội Tam Điểm thuộc địa],
tạp chí Revue Française d'Histoire d'Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris:
Société Française d'Histoire d'Outre-mer, tr. 105.) Hội Tam Điểm là một
hội có chủ trương chính trị đối lập với đảng Cộng Sản và là kẻ thù của đảng
Cộng Sản.
Cũng trong năm 1922, theo lời mời của chính quyền
Pháp, Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale)
ngày 31-5-1922 về đề tài “Sự tiến hóa về đường tinh thần của dân Việt Nam từ
ngày đặt bảo hộ đến giờ”. Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết
vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp. Trong thời gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi nhật
ký là đã gặp gỡ những “chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi”, và không nêu tên những
người ông đã gặp trong nhật ký. Tuy nhiên, trên sổ lịch để bàn, Phạm Quỳnh
ghi rõ: [Thứ Năm, 13-17]: “Ăn cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở
nhà Trường (6 Villa des Gobelins)”. [Tờ lịch Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà,
Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” [Chủ nhật 16-7] [Chuyền có thể là Nguyễn
Thế Truyền.]
Như thế, Phạm Quỳnh là một trong những người biết
rõ tung tích Hồ Chí Minh ở Paris, biết rõ Hồ Chí Minh đã gia nhập hội Tam Điểm
Pháp, và đặc biệt Phạm Quỳnh còn sống cho đến 1945. (Những người khác như Phan
Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh đều đã từ trần.) Phạm Quỳnh là
một nho sĩ chính trực nên ông không tiết lộ cho vua Bảo Đại biết điều nầy, do
đó nhà vua mới bị Phạm Khắc Hòe dẫn dụ về nhân vật Hồ Chí Minh. (Bảo Đại, Con
rồng Việt Nam, tt. 184-185.) Phải chăng vì là người đã lỡ "biết quá nhiều"
về Hồ Chí Minh mà Phạm Quỳnh bị Hồ Chí Minh ám hại?
Do những lẽ trên, nếu không có những người Pháp
nhảy dù xuống Huế như tác giả David G. Marr viết hay Trần Huy Liệu kể, cộng sản
cũng vẫn giết Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim đều là hai nhà văn hóa,
và chính trị nổi tiếng trên toàn quốc. Trần Trọng Kim viết khảo cứu có
tính cách hoàn toàn chuyên môn, chứ không có chủ trương chính trị lâu dài; nội
các Trần Trọng Kim gồm những chuyên viên cần thiết cho việc xây dựng cơ sở căn
bản trong giai đoạn chuyển tiếp từ chính quyền Pháp qua chính quyền Việt. Trần
Trọng Kim ít biết về những hoạt động của Hồ Chí Minh lúc còn ở Paris.
Ngược lại, Phạm Quỳnh trước tác với một ý hướng
chính trị rõ ràng: xây dựng một nền văn hóa dân tộc, bảo tồn quốc tuý, nâng cao
trình độ văn hóa của dân chúng bằng cách phổ biến văn hóa Âu tây, dịch thuật
những tư tưởng dân quyền của Montesquieu, Voltaire, Rousseau. Phạm Quỳnh
tham gia triều đình Huế cũng nhắm đến một chủ đích rõ ràng: tranh đấu ôn hòa,
nhưng cương quyết yêu cầu Pháp trả lại chủ quyền cho triều đình, và xây dựng
một hiến pháp làm luật lệ căn bản của quốc gia.
Ảnh hưởng văn hóa và chính trị của Phạm Quỳnh khá
rộng rãi trên các tầng lớp quần chúng, nhất là giới trí thức trung lưu, từ lớp
trí thức Nho học đến cả lớp trí thức và thanh niên tân học. Tạp chí Nam Phong
được các lớp người ưu tú ở các địa phương lúc bấy giờ trên toàn quốc xem như
loại sách báo giáo khoa chỉ đường. Đó là điều mà cộng sản chẳng những không thể
chấp nhận và cũng không thể dung thứ, vì cộng sản muốn nắm độc quyền lãnh đạo
chính trị, độc quyền yêu nước, độc quyền chân lý.
Xin hãy chú ý thêm ngày Phạm Quỳnh bị sát
hại. Phạm Quỳnh bị bắt ngày 23-8-1945, và bị giết ngày 6-9, nghĩa là
ông không bị nhóm VM địa phương Huế giết liền khi họ nổi dậy. Vua Bảo Đại thoái
vị ngày 30-8-1945 với sự chứng kiến của đại diện chính phủ Việt Minh từ Hà Nội
đến là Trần Huy Liệu (bộ trưởng bộ Tuyên truyền), Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy
Cận (bộ trưởng không bộ nào tức quốc vụ khanh). Phạm Quỳnh bị giam giữ một thời
gian, rồi mới bị giết ngày 6-9-1945, nghĩa là lúc đó đã có mặt của đại diện
trung ương của VM và của đảng CSĐD.
Khi đã có sự hiện diện của đại diện trung ương,
các cán bộ VM địa phương chắc chắn không dám tự tiện ra tay, mà chắc chắn phải
có ý kiến của trung ương. Nhóm Trần Huy Liệu cũng không thể tự quyết định được
việc nầy. Như vậy phải chăng chính nhóm Trần Huy Liệu đã đem lệnh từ Hà Nội vào
Huế để giết Phạm Quỳnh? Và lệnh đó từ đâu, nếu không phải là từ Hồ Chí Minh?
Sau khi Phạm Quỳnh bị giết, hai người con gái đầu
của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh. Dưới đây là
lời kể của bà Thức:"... Tháng 8 năm 1945, Thầy tôi ra đi!... Sau đó, chị
tôi [tên Giá] và tôi nhờ một anh bạn là Vũ Đình Huỳnh ngày ấy là garde-corps
[cận vệ] cho cụ Hồ, giới thiệu đến thăm cụ và hỏi truyện [tức chuyện Phạm
Quỳnh]. Cụ bảo: "Hồi ấy tôi chưa về... Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội
và có thể có nhiều sai sót đáng tiếc..." (Hồi ký viết tại Paris ngày
28-10-1992 của bà Phạm Thị Thức, nhân kỷ niệm 100 năm sinh niên Phạm Quỳnh, tài
liệu gia đình.)
Phạm Quỳnh bị giết ngày 6-9-1945. Hồ Chí Minh
cướp chính quyền ngày 2-9-1945, ra lệnh “mời” Bảo Đại ra Hà Nội, và Bảo Đại rời
Huế ngày 4-9-1945. Như thế có nghĩa là Hồ Chí Minh đã về Việt Nam, đã cướp được
chính quyền, đã nghĩ đến cựu triều đình Huế, đến việc đưa Bảo Đại ra Hà Nội,
vậy chắc chắn Hồ Chí Minh không thể quên hay không biết chuyện Phạm Quỳnh. Lối
lý luận của Hồ Chí Minh là cách chối tội thông thường cổ điển của VM: "Mất
mùa là tại thiên tai,/ Được mùa là tại thiên tài đảng ta.)
Giết xong Phạm Quỳnh, cộng sản tính việc hủy diệt
luôn hình ảnh sáng chói nhà văn hóa Phạm Quỳnh, tức giết Phạm Quỳnh lần thứ
hai. Việc nầy thì không thể nói là Hồ Chí Minh không biết gì cả. Đảng Cộng Sản
quy chụp cho Phạm Quỳnh tội "phản quốc, làm tay sai cho Pháp". Gần 40
năm sau, trong Từ điển văn học, gồm 2 tập, mỗi tập trên 600 trang, gồm nhiều
người viết, do Uỷ ban Khoa học Xã hội xuất bản tại Hà Nội năm 1984, vẫn không
có mục "Phạm Quỳnh". Khi viết về các nhóm văn hóa, sách nầy không thể
loại nhóm Nam Phong vì nhóm Nam Phong có khá nhiều tác giả nổi tiếng.
Nói đến nhóm Nam Phong, trang 121-123, tập 2, tác
giả Nguyễn Phương Chi, trong ban biên tập từ điển, vẫn còn gọi Phạm Quỳnh là
"bồi bút, phản động". Hơn thế nữa, năm 1997, trong Từ điển nhân
vật lịch sử Việt Nam, do nhà xuất bản Văn Hóa, Hà Nội ấn hành, Nguyễn Q. Thắng
và Nguyễn Bá Thế biên tập, mục "Phạm Quỳnh", trang 758-759, hai tác
giả nầy viết: "Hoạn lộ của ông [chỉ Phạm Quỳnh] lên nhanh như diều gặp gió
vì gắn bó mật thiết với các quan thầy thực dân...Ngày 23-8-1945, Phạm bị các
lực lượng yêu nước bắt ở Huế, rồi sau đó bị xử bắn ở l.[làng] Hiền Sĩ, t.[tỉnh]
Thừa Thiên, hưởng dương 53 tuổi."
Các tác giả cộng sản thường đưa ra chiêu bài yêu
nước và dân tộc để quy chụp những người không theo khuynh hướng của cộng sản là
phản động, phản quốc, trong khi chính vì Hồ Chí Minh khăng khăng đi theo cộng
sản Liên Xô mà Việt Nam không được các nước Đồng Minh thừa nhận sau năm 1945.
Cũng chính vì đảng Cộng Sản chủ trương ý thức hệ cộng sản mà gây ra mâu thuẫn
quốc cộng, phá hoại tình đoàn kết dân tộc, là một trong những nguyên nhân chính
đưa đến chiến tranh Việt Nam từ 1946 đến 1975, và hậu quả còn kéo dài mãi cho
đến ngày nay.
Sau năm 1954, rồi 1975, chính đảng Cộng sản Việt
Nam đã nhập cảng và áp dụng một cách máy móc chính sách văn hóa Mác, Mao và
kinh tế chỉ huy rập theo khuôn Liên Xô và Trung Cộng, đã làm cho Bắc Việt rồi
cả Việt Nam suy kiệt về mọi mặt cho đến ngày nay mà chưa tìm ra lối thoát.
Nếu nói rằng: Phạm Quỳnh hợp tác với Pháp để mưu
cầu chủ quyền cho Việt Nam, bảo vệ quyền lợi của quốc gia là làm tay sai cho
ngoại bang, còn Hồ Chí Minh và đảng cộng sản theo Nga Hoa, bán đứng quyền lợi
đất nước, thì không phải là tay sai ngoại bang? Nếu nói rằng Phạm Quỳnh
hợp tác công khai với Pháp, viết bài trình thuật rõ ràng các hoạt động của ông
là phản quốc, trong khi Hồ Chí Minh làm gián điệp cho Đệ tam Quốc tế Cộng sản,
cầu viện Trung Quốc và Liên Xô là không phản quốc?
Nếu nói rằng Phạm Quỳnh viết bài quảng bá học
thuật Âu tây, đề cao tư tưởng dân quyền của Voltaire, Montesquieu, Rousseau là
không có tinh thần dân tộc, còn cộng sản phổ biến tư tưởng Marx, Lenin, và nhất
là chủ nghĩa Stalin thì gọi là gì? Phạm Quỳnh dịch thơ Corneille, Racine là bồi
bút, còn Tố Hữu làm thơ gọi Stalin là ông nội, "thương cha thương mẹ
thương chồng / thương mình thương một thương ông thương mười", thì không
bồi bút?
Nói cho cùng, nếu Phạm Quỳnh chỉ là người học trò
bình thường của Voltaire, Montesquieu hoặc Rousseau thì cũng đáng mừng cho dân
tộc Việt Nam, vì tư tưởng của các nhà học giả Pháp nầy là ánh sáng soi đường
cho nhân dân toàn thế giới xây dựng nền tự do dân chủ phân quyền pháp trị.
Trong khi đó Hồ Chí Minh là "một người học
trò trung thành của Các Mác và V. I. Lê-nin" (Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng
trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư, Nxb. Sự
Thật, Hà Nội, 1975, tr. 160.), và nhất là người học trò xuất sắc của Stalin,
thì thực tế lịch sử đã chứng minh rằng đó là hiểm họa độc tài đen tối khốc liệt
nhất từ trước đến nay trong lịch sử Việt Nam.
Dầu sao, việc tuyên truyền của cộng sản một thời
gây nhiễu xạ hình ảnh của Phạm Quỳnh và ảnh hưởng không ít đến dư luận dân
chúng, làm nhiều người, kể cả vài kẻ tự mệnh danh là trí thức tiến bộ, hiểu sai
về Phạm Quỳnh, và hiểu sai luôn về một số nhân vật chính trị theo khuynh hướng
quốc gia dân tộc. Phạm Quỳnh đã từng nói: "Về phần tôi, tôi đã chọn con
đường của tôi. Tôi là một người ở buổi giao thời và tôi sẽ chẳng bao giờ được
cảm thông...". (Thư ngày 30-12-1933 của Phạm Quỳnh gời Louis Marty, Hành
trình nhật ký, Paris: Nxb. Ý Việt, 1997, phần “Dẫn nhập”, không đề
trang.)
Ngày nay, sau những biến động đảo điên của thời
cuộc, mọi người nên công tâm tìm hiểu Phạm Quỳnh và nhìn lại sự nghiệp của
ông. Trước ngã ba đường vào đầu thế kỷ 20, giữa cựu học, Tây học, và tân
học, Phạm Quỳnh chọn con đường tân học, cải tiến và hoàn chỉnh văn học Quốc ngữ
để làm phương tiện xây dựng quốc học, vừa bảo vệ quốc hồn quốc túy, vừa bồi đắp
thêm bằng cách du nhập những tinh hoa văn hóa nước ngoài.
Chủ trương hòa nhập văn hóa (acculturation) của
Phạm Quỳnh xét cho cùng rất quý báu và cần thiết cho đất nước, vì nếu chỉ mãi
mê tranh đấu chính trị và quân sự, mà không xây dựng nền văn hóa dân tộc dựa
trên quốc hồn, quốc học và quốc văn, thì người Việt vẫn bị trì trệ trong sự nô
lệ tinh thần. Những đóng góp của ông trong việc phát triển nền văn chương Quốc
ngữ thật lớn lao. Những vấn đề văn chương, triết lý tổng hợp đông tây ông đã
viết, những ý kiến do ông đưa ra trong các bài báo, kể cả những ý kiến ông
tranh luận về truyện Kiều, về Nho giáo, vẫn còn có giá trị. Giấc mơ của Phạm
Quỳnh về quốc học, quốc hồn lại càng cần được cổ xúy làm nền tảng giáo dục tinh
thần cho mọi người Việt Nam ngày nay ở trong cũng như ở ngoài nước. Phạm Quỳnh
là nhà văn hóa lớn của Việt Nam thời hiện đại.
Về chính trị, Phạm Quỳnh viết nhiều tiểu luận
bằng tiếng Việt cũng như bằng tiếng Pháp để tranh đấu thực hiện lý tưởng chính
trị của ông. Nhiều người thường đồng nghĩa nền quân chủ với phong kiến hoặc
thực dân, nên cho rằng quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh là thủ cựu.
Cần phải chú ý là Phạm Quỳnh chủ trương bất bạo động. Ông chọn thể chế
quân chủ lập hiến với hy vọng thúc đẩy Việt Nam chuyển biến một cách ôn hòa
trong trật tự.
Nhìn ra nước ngoài, hiện nhiều nước trên thế giới
vẫn duy trì nền quân chủ lập hiến, nhưng vẫn là những nước hết sức dân chủ như
Anh Quốc, Nhật Bản, Thuỵ Điển, Bỉ... Ở trong nước, xét trên chiều dài của lịch
sử, từ ngày Pháp đặt nền đô hộ năm 1884 đến năm 1945, tuy các vua nhà Nguyễn bị
người Pháp khống chế, nhưng vua vẫn là biểu tượng cao cả của đất nước, nên các
cuộc nổi dậy kháng Pháp từ Bắc vào Nam đều quy hướng về một mối, đó là triều
đình ở kinh đô Huế. Trái lại từ năm 1945 trở đi, khi VM cộng sản cướp
chính quyền, người Việt Nam bị chia rẽ trầm trọng thành nhiều phe nhóm khác
nhau, theo những quan điểm khác nhau. Do đó, Phạm Quỳnh có phần hữu lý khi ông
chủ trương cải cách ôn hòa, và chọn quân chủ lập hiến theo đại nghị chế thay
thế cho nền quân chủ chuyên chế.
Ngày nay, cục diện chính trị Việt Nam đã thay đổi
hẳn, quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh không còn phù hợp, nhưng không
thể vì thế mà phủ nhận tinh thần ái quốc, lòng can đảm và sự tận tình của ông
trên con đường phụng sự quê hương. Phạm Quỳnh đã âm thầm tranh đấu bất bạo động
để đòi hỏi chủ quyền cho đất nước. Ông đã hết lòng hoạt động vì nước và
đã hy sinh vì lý tưởng của mình. Đó là điều thật đáng trân quý nơi Phạm Quỳnh,
nhà trí thức dấn thân hoạt động chính trị.
Một điều đáng ghi nhận cuối cùng trong cách thức
hành xử của Phạm Quỳnh. Ông theo đuổi một lý tưởng chính trị trường kỳ và
bất bạo động, nên ông luôn luôn cố gắng làm những gì có lợi cho đất nước và
đồng bào, đồng thời tránh không làm bất cứ việc gì có hại cho quốc gia dân tộc.
Phạm Quỳnh sống lương thiện, không tham ô nhũng lạm, và cũng không hề gây tội
ác giết hại đồng bào. Thái độ nầy là điều mà rất ít nhà hoạt động chính trị của
mọi khuynh hướng thực hiện được, và là một điểm son sáng chói phân biệt Phạm
Quỳnh với những người ra hợp tác với Pháp để trục lợi cầu vinh.
Đây là điều cần phải được tách bạch. Trong
việc hợp tác với Pháp, có hai hạng người: hạng thứ nhất là những kẻ hợp tác để
mưu cầu danh lợi riêng tư, lợi dụng quyền thế, hống hách bóc lột đồng bào; hạng
thứ hai ra tham chính, làm việc với Pháp, không dựa vào quyền thế để hiếp đáp
dân chúng, mà dùng quyền thế để cứu giúp đồng bào, và vẫn giữ được khí tiết
riêng của mình như Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Trương Vĩnh Ký, và biết bao nhiêu
người vô danh khác.
Phải tránh vơ đũa cả nắm, và phải rõ ràng như thế
mới hiểu được tâm trạng cùng sự can đảm của những nhà trí thức, trong hoàn cảnh
éo le của đất nước, dấn thân hoạt động chính trị, phụng sự dân tộc, nhất thời
đã bị hiểu lầm sau những cơn lốc tranh chấp chính trị kéo dài trên quê hương
yêu dấu, trong đó Phạm Quỳnh là trường hợp điển hình nhất.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, Canada)
Read The Latest News On NSVIETNAM Blog
Bu`i Ba?o So+n CVA65
"When you cannot defend
freedom through peaceful means, you have to use arms to fight..." Marek Edelman
Có 3 thứ không thể kết hợp v ới nhau.
Các
chất trong hóa học , dù vô cơ hay hữu cơ , mỗi loại đều có thể kết hợp khi tạo
thành một hợp chất ...
Về nhân chủng dân tộc , có 3 thu không thể kết hợp được :
Về nhân chủng dân tộc , có 3 thu không thể kết hợp được :
Có 3 thứ không thể kết hợp với nhau . Đó là:
@ Thông minh, lương thiện & cộng sản.
1 - Một người thông minh & lương thiện thì không thể cộng sản .
2 - Một người thông minh mà cộng sản thì không thể lương thiện .
3 - Một người lương thiện mà cộng sản thì chắc chắn không thông minh.
@ Thông minh, lương thiện & cộng sản.
1 - Một người thông minh & lương thiện thì không thể cộng sản .
2 - Một người thông minh mà cộng sản thì không thể lương thiện .
3 - Một người lương thiện mà cộng sản thì chắc chắn không thông minh.
Những Nhân Vật Nổi
Danh ThếGiới khẵng định Về Cộng Sản?
TT Nguyễn
Văn Thiệu tuyên bố:
"Đừng nghe
những gì cs nói
Hãy nhìn những gì cs
làm"
MỘT VÀI CÃM NGHĨ SAU KHI
NGHE TRƯƠNG TẤN SANG PHÁT BIỂU TAI TÒA BẠCH ỐC.
-Xin chân thành cảm
ơn tác giã đã trả lời thay cho chúng tôi. Khi nghe hắn ttsang nói đến điều này
thì chính bà xã của tôi phản ứng tức thời bằng câu Ai là đồng bào của ông ấy?,
Ai bầu ông ấy lên làm chủ tịch nước nếu có bầu ông ấy thì không hơn kém chỉ là
bọn đảng viên ăn cướp csVN mà thôi, ai cần ông ấy nhờ cậy chính phủ Mỹ giúp đở
Tại sao ông ấy lại phải trình cho TT Obama bức thư của hcminh viết cho TT
Truman? Quốc Thể của cái gọi là Nước chxhcnVN ở đâu hã ông tts.?
- Thật
là nực cười khi nghe Trương Tấn Sang nói cám ơn TT Obama và nước
Mỹ đã cưu mang và giúp đở những người Việt Nam tỵ nạn
nầy rồi họ trở thành công dân Mỹ.
Trước hết
chúng tôi xin được nói một điều rất ư quan trọng: chúng tôi
không phải người VN của cộng sãn, chúng tôi là người VN của VNCH,
chúng tôi lìa bỏ quê hương bởi vì không muốn mang quốc tịch của
một người VN trong nước cộng sãn. Ngày chúng tôi lìa bỏ quê hương
là ngày đau khổ nhất vànguyện với lòng rằng khi ta trở về thì không
còn cộng sãn nữa.
Xin các ông
cộng sãn cướp của giết người đừng bao giờ gán ghép chúng tôi cùng
thuyền với các ông và đừng bao giờ lên giọng đạo đức
giả như Trương Tấn Sang vừa nói ở tòa Bạch Ốc.
Chúng tôi chỉ chấp
nhận các ông ăn cướp quay về với dân tộc Việt Nam không cộng sãn
nơi đó có chúng tôi. Tình thương nhưbiễn cả, không có trại
cải tạo mà chỉ có một hướng đi chung cho cả nước tiến
lên với nhân loại văn minh.
Bất cứ lúc
nào và nơi nào chúng tôi là người VN không cộng sãn còn các ông
là cộng sãn, hai hạng người VN mà chúng tôi không phải là con dân của
các ông xin các ông nhớ cho. Người VN tự do ở bất
cứ nơi nào trên thế giới hay ở tại VN là những người
khác với các ông.
Ngày nào các
ông còn bán nước cho tàu cộng, cúi đầu làm tay sai cho tàu cộng
thì chúng tôi không nhìn nhận các ông làngười VN, ngày nào nhân quyền
chưa có ở VN thì các ông vẫn là cộng
sãn ác ôn như thuở nào.
Đã bao nhiêu
năm qua nông dân VN lao đao khốn khổ vì cái nhà nước khốn nạn của
các ông qui định gía thu mua, máu vànước mắt của nông dân VN đã chảy
tràn sông suối, đến khi nào thì các ông mới thôi hút máu nông
dân VN.
Đã bao nhiêu
năm dân đánh cá bị giặc tàu cướp bóc, giết hại các ông có bão vệ hay
bênh vực được không?
Làm chánh
quyền phải bão vệ dân, phải chăm lo đời sống dânấm no (như ông
Sang đã nhắc khéo TT Obama giúp đở người ty nạn cộng sãn).
Các ông chỉ đợi cho bão tố, ngập lụt thì người Việt hãi ngoại cứu
trợ các ông được giàu them, hay sau nầy cácông ra lệnh đến
từng nhà thu tiền cứu lụt rồi không biết tiền đi về đâu
và người bị lụt thì vẫn đói nhăn răng.
Một lần nữa
chúng tôi xin ông Sang đừng bao giờ nghỉ chúng tôi những người
tỵ nạn cộng sãn là người VN của các ông. Chúng tôi là người
Việt Nam Tự Do xin ông nhớ cho.
Muốn đánh tàu
cộng
Phải diệt Việt cộng
Muôn việc được
cả
Chỉ thiếu
gió tây
Phong Thai
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment