ƯU
QUYỀN VÀ ĐỘC QUYỀN !!!!
Sau màn huy động toàn thể bộ máy truyền thông công cụ (gồm đám lãnh đạo vô liêm sỉ, trí thức gia nô, nhà báo bồi bút và dư luận viên đầy tớ) tạo ra một cuộc lên đồng tập thể quanh ông Võ Nguyên Giáp với những ngôn ngữ tâng bốc tận trời (tôn lên thành thánh thành phật), những so sánh nực cười lố bịch (đặt ngang hàng với Đại đế Alexandre, Hoàng đế Napoléon), những lời thơ ca tụng nịnh hót (đến độ Tố Hữu cũng chào thua), những mô tả về phản ứng của quần chúng theo kiểu bị tẩy não (“ôm thật chặt cột nhà mà khóc cho thỏa nỗi xót thương”…), nay Bộ Chính trị quyết tạo ra một cuộc lên đồng tập thể mới xung quanh Tân Hiến pháp tại cái gọi là “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” để bù lại sự thất bại chua cay giữa toàn dân trong hơn 9 tháng trời (ngoại trừ nơi các tổ dân phố bị cưỡng ép hay lừa gạt).
Thấy trước nguy cơ bị đồng bào loại trừ và lịch sử đào thải, Đảng nhất định phải chính danh hóa và hợp hiến hóa lần nữa ách cai trị vốn đã chỉ có sai lầm và tội ác, thất bại và tai họa của mình. Chẳng lẽ đổ biết bao xương máu của đảng viên (nhất là xương máu của quần chúng bị mê hoặc) để độc chiếm quyền hành chính trị rồi nhờ đó đã thu tóm quyền lợi kinh tế, nay lại bỏ đi để rồi phải bỏ trốn sao? Chính vì thế, trong tinh thần chỉ đạo chặt chẽ (nghĩa là theo dõi sát sao, khống chế toàn diện), Đảng đã “hoàn thiện bản Dự thảo Hiến pháp cuối cùng” nhờ đám gia nô trong Quốc hội. Nay cái cơ quan này có hơn một tháng trời không phải để thảo luận về nó trong ý thức dân chủ, theo khát vọng nhân dân, với mục tiêu kiến quốc, mà có lẽ để uốn éo câu chữ, mài dũa ngụy lý và chuẩn bị mưu lược để cho ra đời một bản Hiến pháp lấy cương lĩnh Đảng làm linh hồn mà áp đặt lên toàn thể Dân tộc, bất chấp hiện tại điêu tàn của xã hội và tương lai vô vọng của Quốc gia.
Quả vậy, tuy có 120 điều, trong đó có cả 36 điều về quyền con người và quyền công dân (chương II), nhưng thật sự Tân Hiến pháp này chỉ có 5 nội dung chính, khẳng định 2 ưu quyền và 3 độc quyền của Đảng, với hậu quả là những tác hại khôn lường khác nhau lên Dân tộc.
1- Ưu quyền tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lê và tác hại tinh thần.
Như HP 1992, Lời nói đầu và Điều 4 tiếp tục khẳng quyết chủ nghĩa Mác-Lê là ánh sáng chỉ đường lẫn nền tảng tư tưởng cho đảng CS. Khác chủ nghĩa duy vật vô thần hưởng thụ của Tây phương, cái chủ nghĩa duy vật vô thần đấu tranh này (mà nhân loại đã từ lâu ném vào sọt rác lịch sử) là một ý thức hệ chính trị mang tính trói buộc tinh thần và tư tưởng, làm băng hoại lương tâm con người, kìm hãm tư duy sáng tạo và cản trở sự phát triển xã hội. Chính nó, qua hơn nửa thế kỷ, đã gây nên tình trạng xuống dốc thê thảm của đất nước, vì tiêu diệt quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận, quyền sáng tạo văn học nghệ thuật… Nó khiến cho nền giáo dục (vốn phải lấy nó làm nền tảng trong Luật giáo dục điều 3), ngày càng suy thoái về mặt đức (gian dối và bạo hành trong học đường), lẫn mặt trí (thiếu kiến thức thật, đầy bằng cấp giả và ít ỏi phát minh). Nhất là nó khiến con người sống trong xã hội ngày càng dửng dưng vô cảm (đặc biệt y đức biến mất), quen thói lọc lừa và hành xử man rợ (đặc biệt nơi kẻ có chức quyền).
2- Độc quyền cai trị của đảng Cộng sản và tác hại chính trị.
Cương quyết bảo vệ “chân lý thời đại” (đảng CS là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội), điều 4 quả là lộng hành và mâu thuẫn. Lộng hành vì mặc nhiên khẳng định Đảng ở trên lẫn ở ngoài luật pháp, tiên thiên khẳng định ngay bộ luật gốc sự lãnh đạo của Đảng. Và như thế là dẹp bỏ quyền bính chính trị vốn thuộc về nhân dân theo lý (và theo cả tuyên truyền mỵ dân của Đảng), một quyền bính mà toàn dân sẽ giao cho một chính đảng hay nhữ
ng chính khách được tín nhiệm qua một cuộc tranh cử và bầu cử công bằng lẫn minh bạch, đa đảng lẫn dân chủ. Mâu thuẫn với Điều 69: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”. Và như thế là biến Quốc hội thành công cụ của đảng cầm quyền, biến việc người dân bầu đại biểu Quốc hội thành trò dân chủ giả tạo, chưa kể cưỡng bức, tốn kém và lố bịch. Điều 4 đó đặc biệt gây tác hại về mặt chính trị. Nó đã tạo điều kiện cho Đảng CS mắc phải vô số sai lầm lẫn tội ác đối với Dân tộc trong quá khứ và đẩy đất nước vào vô số nguy cơ lẫn thảm họa hiện thời và tương lai mà vẫn không bị trừng phạt.
3- Độc quyền tài nguyên của Nhà nước và tác hại xã hội.
“Vũ như cẩn”, “nguyễn y vân”, Điều 53 tiếp tục tuyên bố mọi tài nguyên đất nước “là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý và đại diện chủ sở hữu”. Nó ném vào mặt “thằng dân” lần nữa câu nói: đối với đất đai, mày không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng! Nó cũng thỏ thẻ với quan chức cầm quyền mọi cấp hai điều. Một là cứ đánh đồng “sở hữu nhà nước” với “sở hữu toàn dân” đi để tha hồ tham nhũng, bắt tay tư nhân, doanh nghiệp cùng trục lợi. Xã hội đầy bất công, nhân dân lãnh thiệt hại và đất nước rơi vào hỗn loạn mặc kệ. Cũng mặc kệ nốt cảnh hàng ngàn cuộc cưỡng chế đất đai nhà cửa đầy máu và nước mắt, hàng vạn thị dân bị đẩy ra đường vô nghề thất nghiệp, hàng triệu nông dân khiếu nại trong tuyệt vọng khôn cùng, hàng bao thảo dân đã thực hiện hay toan tính phản kháng bằng bạo lực! Hai là nay việc thu hồi đất được “hợp hiến hóa”, lại mở rộng phạm vi áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế–xã hội (điều 54), các “đồng chí” cứ thoải mái cấu kết với các “đại gia” để tha hồ làm giàu, ngõ hầu trung với đảng.
4- Độc quyền công lực của đảng CS và tác hại an sinh.
“Lực lượng vũ trang nhân dân
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước”, Điều
65 với khẳng định mới mẻ này cho thấy Đảng đã cùng cực lo sợ bị sụp đổ cũng như
sẽ không ngần ngại tiến hành một “Thiên An Môn” kiểu VN. Dẫu biết rằng các lực
lượng vũ trang (công an, quân đội) đều từ nhân dân phát xuất, được nhân dân
nuôi dưỡng, do nhân dân trang bị, dĩ nhiên chỉ phải “trung với nước, hiếu với
dân” thôi, thế nhưng Đảng đã tẩy não nhồi sọ, áp bức cưỡng buộc, ru ngủ mua
chuộc để họ “chỉ biết còn đảng còn mình”! Bao năm qua, Đảng đã chẳng o bế hai
lực lượng này đó sao bằng cách để họ được tha hồ làm giàu (nhất là hàng sĩ quan
bậc cao), được nhiều điều kiện ưu đãi (lương bổng
lớn, thăng cấp nhanh), nhất là được dung túng, khuyến khích những hành động cướp bóc, tàn ác và đồi bại đối với dân lành. Hàng ngàn người dân vô tội đã chết sau khi rơi vào tay công an. Lực lượng này lại còn sử dụng côn đồ làm trợ thủ trong các cuộc đàn áp công dân biểu tình hay oan dân khiếu kiện. Thời gian gần đây, nhiều cuộc gọi là “diễn tập chống khủng bố bạo loạn” được tổ chức ở nhiều nơi, song thực chất là chuẩn bị chống nhân dân xuống đường đòi nhân quyền hay công lý. Đúng là an sinh xã hội nay đã tiêu tùng.
5- Ưu quyền kinh doanh của Nhà nước và tác hại kinh tế quốc dân.
Bất chấp thất bại thực tế, Điều 51 tiếp tục tuyên bố như tín điều: “Nền kinh tế VN là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Thật ra, đây là kinh tế thị trường hoang dã, chủ nghĩa tư bản Nhà nước, phục vụ các nhóm lợi ích trong đảng cầm quyền. Nó đẻ ra các tổng công ty, đại tập toàn quốc doanh và cưng chiều chúng đến độ chúng trở thành bọn cướp của và phá của. Hàng chục năm qua, dẫu hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi để cạnh tranh bất chính với các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nước ngòai, các “quả đấm thép”, “đầu tàu hỏa” của kinh tế nhà nước đều làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất, kìm hãm sự phát triển của đất nước. (Điển hình như hai tổng công ty Vinashin và Vinalines đã làm thiệt hại hàng trăm ngàn tỷ đồng công khố đến nay vẫn chưa trả hết nợ. Còn hai tập đoàn Điện lực và Xăng dầu VN thì bắt dân bù lỗ cũng từng ấy cho các hoạt động đầu tư trái ngành của mình bằng cách liên tục tăng giá xăng và điện). Từ đó kéo theo sự phá sản của hàng ức xí nghiệp tư nhân, sự thất nghiệp của hàng triệu công nhân lao động và sự khốn khổ điêu linh của toàn xã hội. Nay tiếp tục khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Đảng rõ ràng muốn tiếp tục làm giàu trên xương máu của nhân dân và sự tan hoang của đất nước.
Các ưu quyền và độc quyền của đảng CS trên đây liên kết hữu cơ với nhau. Nghĩa là sau khi nắm được độc quyền chính trị bằng bạo lực vũ khí, bằng đấu tranh cách mạng tốn máu xương của hàng triệu đồng bào, đảng CS luôn sợ hãi chuyện mất quyền lực và luôn lo lắng chuyện giữ quyền lực. Thành ra qua các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013 (có lẽ), Đảng càng lúc càng cố tạo thêm các ưu uyền và độc quyền còn lại cho mình bằng bạo lực hành chánh (qua Hiến pháp, và có lúc cũng dùng bạo lực vũ khí nữa) để bảo vệ sự cai trị độc tài của mình! Lúc này đây, thấy tội ác của mình ngày càng chồng chất, sai lầm của mình ngày càng dày đặc, thất bại của mình ngày càng ngổn ngang, thấy nhận thức của dân ngày càng rõ rệt, phản ứng của dân ngày càng quyết liệt, hành động của dân ngày càng mạnh mẽ, đảng CS (cụ thể là Bộ Chính trị) trở thành mù quáng, cuồng tín vào dối trá (ngay trong thời đại thông tin nhanh rộng này), cuồng tín vào bạo lực (ngay trong thời đại liên đới dễ dàng này), để quyết tâm ra cho được cái bản Hiến pháp với những đảng quyền phi lý và khốn nạn nói trên, bất chấp tương lai mịt mờ của Đất nước và hiện tại điêu linh của Dân tộc.
Lý trí bị đóng khung bởi CNXH sai lầm và lương tâm bị mù quáng bởi học thuyết đấu tranh phi nhân, đảng CS quên rằng HP chính là bộ luật gốc của đất nước, phát xuất từ toàn dân nhằm liên kết mọi người để cùng nhau thực hiện dự án tương lai chung của Dân tộc. Nó trước hết phải xác định rõ ràng và đầy đủ các nhân quyền dựa trên hiểu biết đúng đắn về bản tính con người cũng như các dân quyền dựa trên quan niệm văn minh của nhân loại về quốc gia. Tiếp đó nó phải xác định rõ ràng và đầy đủ các nghĩa vụ của nhóm công dân (mang tên NN) vốn được giao cho vinh dự cổ vũ và thăng tiến các nhân quyền lẫn dân quyền nói trên bằng nhiều định chế văn minh và thích hợp, ngõ hầu đất nước phát triển trong hòa bình và thịnh vượng. Đảng và Quốc hội của Đảng đang có cơ hội để làm điều này. Nhưng xem ra họ chỉ muốn bị lịch sử đào thải và Dân tộc phỉ nhổ.
BAN BIÊN TẬP
KÍNH MỜI QUÝ VỊ BẤM VÀO HÀNG CHỮ NÀY ĐỂ ĐỌC TRỌN BỘ BNS TƯ DO NGÔN LUẬN SỐ 182 (1.11.2013)
- Bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 182
phát hành ngày 01-11-2013, - Bài xã luận của bán nguyệt san. Xin cảm ơn
Quý vị đã đón nhận và tiếp tay phổ biến, nhất là phổ biến ngược về trong nước
cho Đồng bào thân yêu. Ban biên tập báo TDNL Ưu quyền và độc quyền !!! Xã
luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 182 (01-11-2013)
Sau màn huy động toàn
thể bộ máy truyền thông công cụ (gồm đám lãnh đạo vô liêm sỉ, trí thức gia nô,
nhà báo bồi bút và dư luận viên đầy tớ) tạo ra một cuộc lên đồng tập thể quanh
ông Võ Nguyên Giáp với những ngôn ngữ tâng bốc tận trời (tôn lên thành thánh
thành phật), những so sánh nực cười lố bịch (đặt ngang hàng với Đại đế
Alexandre, Hoàng đế Napoléon), những lời thơ ca tụng nịnh hót (đến độ Tố Hữu
cũng chào thua), những mô tả về phản ứng của quần chúng theo kiểu bị tẩy não
(“ôm thật chặt cột nhà mà khóc cho thỏa nỗi xót thương”…), nay Bộ Chính trị
quyết tạo ra một cuộc lên đồng tập thể mới xung quanh Tân Hiến pháp tại cái gọi
là “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” để bù lại sự thất bại chua cay giữa
toàn dân trong hơn 9 tháng trời (ngoại trừ nơi các tổ dân phố bị cưỡng ép hay
lừa gạt). Thấy trước
nguy cơ bị đồng bào loại trừ và lịch sử đào thải, Đảng nhất định phải chính
danh hóa và hợp hiến hóa lần nữa ách cai trị vốn đã chỉ có sai lầm và tội ác,
thất bại và tai họa của mình. Chẳng lẽ đổ biết bao xương máu của đảng viên
(nhất là xương máu của quần chúng bị mê hoặc) để độc chiếm quyền hành chính trị
rồi nhờ đó đã thu tóm quyền lợi kinh tế, nay lại bỏ đi để rồi phải bỏ trốn sao?
Chính vì thế, trong tinh thần chỉ đạo chặt chẽ (nghĩa là theo dõi sát sao,
khống chế toàn diện), Đảng đã “hoàn thiện bản Dự thảo Hiến pháp cuối cùng” nhờ
đám gia nô trong Quốc hội. Nay cái cơ quan này có hơn một tháng trời không phải
để thảo luận về nó trong ý thức dân chủ, theo khát vọng nhân dân, với mục tiêu
kiến quốc, mà có lẽ để uốn éo câu chữ, mài dũa ngụy lý và chuẩn bị mưu lược để
cho ra đời một bản Hiến pháp lấy cương lĩnh Đảng làm linh hồn mà áp đặt lên
toàn thể Dân tộc, bất chấp hiện tại điêu tàn của xã hội và tương lai vô vọng
của Quốc gia. Quả vậy,
tuy có 120 điều, trong đó có cả 36 điều về quyền con người và quyền công dân
(chương II), nhưng thật sự Tân Hiến pháp này chỉ có 5 nội dung chính, khẳng
định 2 ưu quyền và 3 độc quyền của Đảng, với hậu quả là những tác hại khôn
lường khác nhau lên Dân tộc.
1- Ưu quyền tư tưởng của
chủ nghĩa Mác-Lê và tác hại tinh thần.
Như HP 1992, Lời nói đầu
và Điều 4 tiếp tục khẳng quyết chủ nghĩa Mác-Lê là ánh sáng chỉ đường lẫn nền
tảng tư tưởng cho đảng CS. Khác chủ nghĩa duy vật vô thần hưởng thụ của Tây
phương, cái chủ nghĩa duy vật vô thần đấu tranh này (mà nhân loại đã từ lâu ném
vào sọt rác lịch sử) là một ý thức hệ chính trị mang tính trói buộc tinh
thần và tư tưởng, làm băng hoại lương tâm con người, kìm hãm tư duy sáng tạo và
cản trở sự phát triển xã hội. Chính nó, qua hơn nửa thế kỷ, đã gây nên tình
trạng xuống dốc thê thảm của đất nước, vì tiêu diệt quyền tự do tôn giáo, quyền
tự do ngôn luận, quyền sáng tạo văn học nghệ thuật… Nó khiến cho nền giáo dục
(vốn phải lấy nó làm nền tảng trong Luật giáo dục điều 3), ngày càng suy thoái
về mặt đức (gian dối và bạo hành trong học đường), lẫn mặt trí (thiếu kiến thức
thật, đầy bằng cấp giả và ít ỏi phát minh). Nhất là nó khiến con người sống
trong xã hội ngày càng dửng dưng vô cảm (đặc biệt y đức biến mất), quen thói
lọc lừa và hành xử man rợ (đặc biệt nơi kẻ có chức quyền).
2- Độc quyền cai trị của đảng Cộng sản và tác hại chính trị.
Cương quyết bảo vệ “chân
lý thời đại” (đảng CS là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội), điều
4 quả là lộng hành và mâu thuẫn. Lộng hành vì mặc nhiên khẳng định Đảng ở trên
lẫn ở ngoài luật pháp, tiên thiên khẳng định ngay bộ luật gốc sự lãnh đạo của
Đảng. Và như thế là dẹp bỏ quyền bính chính trị vốn thuộc về nhân dân theo lý
(và theo cả tuyên truyền mỵ dân của Đảng), một quyền bính mà toàn dân sẽ giao
cho một chính đảng hay những chính khách được tín nhiệm qua một cuộc tranh cử
và bầu cử công bằng lẫn minh bạch, đa đảng lẫn dân chủ. Mâu thuẫn với Điều 69: “Quốc
hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”. Và như thế là biến Quốc hội thành
công cụ của đảng cầm quyền, biến việc người dân bầu đại biểu Quốc hội thành trò
dân chủ giả tạo, chưa kể cưỡng bức, tốn kém và lố bịch. Điều 4 đó đặc biệt gây
tác hại về mặt chính trị. Nó đã tạo điều kiện cho Đảng CS mắc phải vô số sai
lầm lẫn tội ác đối với Dân tộc trong quá khứ và đẩy đất nước vào vô số nguy cơ
lẫn thảm họa hiện thời và tương lai mà vẫn không bị trừng phạt.
3- Độc quyền tài nguyên
của Nhà nước và tác hại xã hội.
“Vũ như cẩn”, “nguyễn y
vân”, Điều 53 tiếp tục tuyên bố mọi tài nguyên đất nước “là tài sản công thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý và đại diện chủ sở hữu”. Nó ném
vào mặt “thằng dân” lần nữa câu nói: đối với đất đai, mày không có quyền sở hữu
mà chỉ có quyền sử dụng! Nó cũng thỏ thẻ với quan chức cầm quyền mọi cấp hai
điều. Một là cứ đánh đồng “sở hữu nhà nước” với “sở hữu toàn dân” đi để tha hồ
tham nhũng, bắt tay tư nhân, doanh nghiệp cùng trục lợi. Xã hội đầy bất công,
nhân dân lãnh thiệt hại và đất nước rơi vào hỗn loạn mặc kệ. Cũng mặc kệ nốt
cảnh hàng ngàn cuộc cưỡng chế đất đai nhà cửa đầy máu và nước mắt, hàng vạn thị
dân bị đẩy ra đường vô nghề thất nghiệp, hàng triệu nông dân khiếu nại trong
tuyệt vọng khôn cùng, hàng bao thảo dân đã thực hiện hay toan tính phản kháng
bằng bạo lực! Hai là nay việc thu hồi đất được “hợp hiến hóa”, lại mở rộng phạm
vi áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế–xã hội (điều 54), các “đồng chí” cứ
thoải mái cấu kết với các “đại gia” để tha hồ làm giàu, ngõ hầu trung với đảng.
4- Độc quyền công lực
của đảng CS và tác hại an sinh.
“Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với
Đảng và Nhà nước”, Điều 65 với khẳng định mới mẻ này cho thấy Đảng đã cùng cực
lo sợ bị sụp đổ cũng như sẽ không ngần ngại tiến hành một “Thiên An Môn” kiểu
VN. Dẫu biết rằng các lực lượng vũ trang (công an, quân đội) đều từ nhân dân
phát xuất, được nhân dân nuôi dưỡng, do nhân dân trang bị, dĩ nhiên chỉ phải
“trung với nước, hiếu với dân” thôi, thế nhưng Đảng đã tẩy não nhồi sọ, áp bức
cưỡng buộc, ru ngủ mua chuộc để họ “chỉ biết còn đảng còn mình”! Bao năm qua,
Đảng đã chẳng o bế hai lực lượng này đó sao bằng cách để họ được tha hồ làm
giàu (nhất là hàng sĩ quan bậc cao), được nhiều điều kiện ưu đãi (lương bổng
lớn, thăng cấp nhanh), nhất là được dung túng, khuyến khích những hành động
cướp bóc, tàn ác và đồi bại đối với dân lành. Hàng ngàn người dân vô tội đã
chết sau khi rơi vào tay công an. Lực lượng này lại còn sử dụng côn đồ làm trợ
thủ trong các cuộc đàn áp công dân biểu tình hay oan dân khiếu kiện. Thời gian
gần đây, nhiều cuộc gọi là “diễn tập chống khủng bố bạo loạn” được tổ chức ở
nhiều nơi, song thực chất là chuẩn bị chống nhân dân xuống đường đòi nhân quyền
hay công lý. Đúng là an sinh xã hội nay đã tiêu tùng.
5- Ưu quyền kinh doanh
của Nhà nước và tác hại kinh tế quốc dân.
Bất chấp thất bại thực
tế, Điều 51 tiếp tục tuyên bố như tín điều: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với… kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo”. Thật ra, đây là kinh tế thị trường hoang dã, chủ nghĩa tư bản Nhà
nước, phục vụ các nhóm lợi ích trong đảng cầm quyền. Nó đẻ ra các tổng công ty,
đại tập toàn quốc doanh và cưng chiều chúng đến độ chúng trở thành bọn cướp của
và phá của. Hàng chục năm qua, dẫu hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi để cạnh tranh
bất chính với các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nước ngòai, các “quả đấm
thép”, “đầu tàu hỏa” của kinh tế nhà nước đều làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng
chất, kìm hãm sự phát triển của đất nước. (Điển hình như hai tổng công ty Vinashin
và Vinalines đã làm thiệt hại hàng trăm ngàn tỷ đồng công khố đến nay vẫn chưa
trả hết nợ. Còn hai tập đoàn Điện lực và Xăng dầu VN thì bắt dân bù lỗ cũng
từng ấy cho các hoạt động đầu tư trái ngành của mình bằng cách liên tục tăng
giá xăng và điện). Từ đó kéo theo sự phá sản của hàng ức xí nghiệp tư nhân, sự
thất nghiệp của hàng triệu công nhân lao động và sự khốn khổ điêu linh của toàn
xã hội. Nay tiếp tục khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Đảng rõ
ràng muốn tiếp tục làm giàu trên xương máu của nhân dân và sự tan hoang của đất
nước. Các ưu quyền và
độc quyền của đảng CS trên đây liên kết hữu cơ với nhau. Nghĩa là sau khi nắm
được độc quyền chính trị bằng bạo lực vũ khí, bằng đấu tranh cách mạng tốn máu
xương của hàng triệu đồng bào, đảng CS luôn sợ hãi chuyện mất quyền lực và luôn
lo lắng chuyện giữ quyền lực. Thành ra qua các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992
và 2013 (có lẽ), Đảng càng lúc càng cố tạo thêm các ưu uyền và độc quyền còn
lại cho mình bằng bạo lực hành chánh (qua Hiến pháp, và có lúc cũng dùng bạo
lực vũ khí nữa) để bảo vệ sự cai trị độc tài của mình! Lúc này đây, thấy tội ác
của mình ngày càng chồng chất, sai lầm của mình ngày càng dày đặc, thất bại của
mình ngày càng ngổn ngang, thấy nhận thức của dân ngày càng rõ rệt, phản ứng
của dân ngày càng quyết liệt, hành động của dân ngày càng mạnh mẽ, đảng CS (cụ
thể là Bộ Chính trị) trở thành mù quáng, cuồng tín vào dối trá (ngay trong thời
đại thông tin nhanh rộng này), cuồng tín vào bạo lực (ngay trong thời đại liên
đới dễ dàng này), để quyết tâm ra cho được cái bản Hiến pháp với những đảng
quyền phi lý và khốn nạn nói trên, bất chấp tương lai mịt mờ của Đất nước và
hiện tại điêu linh của Dân tộc.
Lý trí bị đóng khung bởi
chủ nghĩa xã hội sai lầm và lương tâm bị mù quáng bởi học thuyết đấu tranh phi
nhân, đảng CS quên rằng Hiến pháp chính là bộ luật gốc của đất nước, phát xuất
từ toàn dân nhằm liên kết mọi người để cùng nhau thực hiện dự án tương lai
chung của Dân tộc. Nó trước hết phải xác định rõ ràng và đầy đủ các nhân quyền
dựa trên hiểu biết đúng đắn về bản tính con người cũng như các dân quyền dựa
trên quan niệm văn minh của nhân loại về quốc gia. Tiếp đó nó phải xác định rõ
ràng và đầy đủ các nghĩa vụ của nhóm công dân (mang tên Nhà nước) vốn được giao
cho vinh dự cổ vũ và thăng tiến các nhân quyền lẫn dân quyền nói trên bằng
nhiều định chế văn minh và thích hợp, ngõ hầu đất nước phát triển trong hòa
bình và thịnh vượng. Đảng và Quốc hội của Đảng đang có cơ hội để làm điều này.
Nhưng xem ra họ chỉ muốn bị lịch sử đào thải và Dân tộc phỉ nhổ.
BAN BIÊN TẬP
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment