Để gọi tên sự vật một cách rõ ràng (Bài 3)
Sơn Diệu Mai
Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu
quân đội không đứng lên cùng với họ. Quân đội, những người lính của nhân
dân, các anh còn ngủ đến bao giờ?
Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm
Thăng-long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của trên năm mươi gia đình nạn nhân chết
vì bão lụt ở miền Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng
niệm những kẻ xấu số.
Họ quên.
Cũng như họ đã từng quên những người dân đánh cá
tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên các chiến sĩ đã bỏ mình
trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 197… Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ
điều gì? Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200.000 ơ-rô
tại đại lộ Xăng-Ê-ly-sê thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân khoản ở
ngân hàng ngoại quốc.
Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng như xe
của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được chiếc xe ấy, để
nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai
triệu đô-la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt
hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái
guồng quay cũ kỹ của đám mới giầu.
Ai đó từng nói câu này: “ Trong giai đoạn tích
luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền.”
Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một
trạng thái tâm lý đó: Khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện
nào, dù đó là tội ác. Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một
đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: Dân đen. Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành
bởi có thể hút máu dân đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại
vừa yên ổn lương tâm vì không mắc tội giết cha.
Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin: Mua một vỏ tầu
cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành. Lấy sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô-la
trong công quỹ. Hàng triệu đô-la ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn
bóng loáng kia được đặt trên đất liền để làm “hiện vật bảo tàng”. Nghe tưởng
như chuyện đùa.
Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ có ở Việt
Nam, nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang ngược đó.
Chỉ có ở xứ Việt Nam, khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ
đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể
xảy ra hiện tượng này.
Lấy ví dụ thứ hai: các vụ buôn người. Dưới chế
độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều này nếu không là chính các thành
viên trong chế độ ấy? Tại sao lại buôn người: vì buôn người thu lời nhanh nhất,
mà vốn đầu tư coi như zê-rô nếu có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới
của đảng cộng sản Việt Nam, đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng. Đã
là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các điều luật
thì nó sẽ phát triển vô cùng tận.
Do đó, món hàng hoá có tên gọi là “dân
đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các bậc trị
vì dân. Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm mọi cách
để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ này có
chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các công cụ dân đen
không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải Câm.
Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay.
Hãy đọc báo Công an Nhân dân đưa tin về vụ xử ba
thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay:
“ …Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban Bảo
vệ người Lao động Việt Nam đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện,
rồi từ ngày 28/1 đến ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc
Hùng, Đỗ thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình,
rải truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, nội dung kêu gọi người dân
chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề
còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở một số khu công
nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình công, biểu tình, phá
hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp…”
Thứ nhất, tác giả bài báo này quên rằng: “Kích
động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của
doanh nghiệp” là đích xác các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm
trước cách mạng. Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên
thế giới, khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ
nhân.
Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người làm
công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao động bị đe doạ .
Phải chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của ông
ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị cấm vì họ không
được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức Dưới người, nói cách khác Người
vượn Nê-an-đéc-tan?…
Thứ hai, câu: “lợi dụng các vấn đề thiếu sót
trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân…” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật.
Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam đang
thực thi chính sách: Bòn nơi khố quạnh, Đãi nơi quần hồng.
Tại sao lại Bòn nơi khố quạnh? Vì ngu, vì tham,
vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các quan lớn chỉ có lối kiếm
tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những người không có phương tiện để tự
bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng một lần vì đói nghèo và sợ hãi.
Tại sao lại Đãi nơi quần hồng? Vì người cộng sản
lúc này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô
nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây giong lợn
giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám
vào cái giai cấp tương lai của họ, giai cấp mới này chính là Đám quần hồng, thế
nên họ phải Đãi đám quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái
quần hồng ấy.
Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào
nó.
Nhưng thôi, hãy đánh chữ đại xá cho đám cầm
quyền, bởi họ đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản” xuống vũng bùn của
“các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ thường xa xả chửi rủa, họ
đang sống xả láng cảnh phồn vinh mà trước đây họ mỏi mồm lên án; nói tóm lại,
họ đang là thứ Khỉ khoác quần áo, thứ: “Nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm
vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lê-nin của họ từng cảnh báo trước đây.
Hãy đại xá cho họ, bởi dầu sao, cha anh họ đã
từng cắm ngọn cờ đỏ sao vàng lên đỉnh cột cờ ngày 2 tháng 9 năm 1945, bởi dẫu
họ là lũ chó ghẻ thì cha anh họ từng là hổ phụ, mà bao đời nay, dân Việt Nam
vẫn có tổng kết này: Hổ phụ sinh Cẩu tử
Hãy đại xá cho họ, bởi dân Việt Nam là dân nô
lệ, mà trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, thì các anh hùng
đánh đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục,
ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình. Nhìn lại
lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều Lý, triều Trần,
triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy
lừng chống kẻ xâm lăng?
Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi nghĩa
dẹp loạn xứ quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy
nhất xây dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn
lại, những gương mặt sáng chói trong lịch sử đất Việt đều là những anh hùng
chống Tầu và chống Nguyên-Mông. Các triều vua này từng tuyên bố: “Cõi đất Nam
vua nước Nam ở.”
Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích: Người
Việt Nam là người Việt Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không
cạo trọc, tết sam như gã A.Q., đàn bà không bó chân như các mợ Tầu. Tuân theo
lô-gic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công trong cuộc cách
mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó là vì tính đến cái công
ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả năng nối tiếp truyền thống của các
Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi sự tồn tại của non sông quý
hơn tròng mắt của chính họ.
Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng?
Còn hay chăng? Tinh thần dân tộc của những người
đã đổ máu để cắm ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những
cảm tử quân đã ôm bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề: “Quyết tử cho
tổ quốc quyết sinh”?
Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn
các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở.
Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất
lời, thì lời đầu tiên họ nói sẽ là: “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn
sâu bọ này đã bôi nhọ mặt chúng ta!”
Ngày Hội Ngàn năm Thăng-long diễn ra vào đúng
ngày 1 tháng 10; thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc. Tại
sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng?
Mất trí nhớ chăng? Cứ coi như bộ trưởng bộ văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta
còn mười một người trong bộ chính trị. Không lẽ cả mười một người này mắc chứng
Mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người này mắc bệnh Thiểu năng?
Nếu để cho
mười một kẻ Thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt xứng đáng là các
bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ chưa từng thấy mà trong
đó các con bệnh bị tiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả
năng nhận thức sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và
tương lai của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của
những người dân Tây-tạng hoặc Tân-cương một khi họ bó tay trước lũ bán nước.
Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn
năm Thăng-long là một biểu tượng hai mặt:
1. Với triều đình Bắc-kinh chính phủ Hà Nội đã
làm bản tuyên bố: thành Thăng long cũng chỉ là một bộ phận trong lịch sử Mẫu
quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một lần với đèn hoa của thủ phủ Đại
triều. Một khi thủ đô của một quốc gia đã định vị như vậy, có nghĩa quốc gia ấy
tự xác nhận danh tính Chư hầu một cách công khai. Sự kiện này là bản giao kèo
bộc lộ lòng trung thành vô hạn và vô điều kiện của đám Hàng thần Hà Nội.
2. Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố thẳng
thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh
đất nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu diệt.
Chọn ngày quốc khánh Trung-hoa để mở hội Ngàn
năm Thăng-long là bằng chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế
độ cộng sản rơi xuống: Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán
nước của mình. Nếu như năm 1945, cha anh họ là các anh hùng giải phóng dân tộc
thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng
những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch
sử. Vậy thì, chẳng những Hổ phụ sinh Cẩu tử mà là: Hổ Phụ sinh Cẩu ghẻ, Cẩu mắc
chứng si-đa.
Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để
họ hiểu rằng họ là những con Cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt
nào cũng lưu cữu một thành tố có tên gọi “Chống ngoại xâm”, mà thứ Ngoại xâm thống
trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu đậm nhất
trong kí ức là Giặc phương Bắc. Cuộc thực dân hoá của Pháp I00 năm, chỉ là cơn
bão chóng qua so với thời kỳ bắc thuộc của giặc Tầu.
Họ biết rằng bất cứ kẻ nào
phản lại truyền thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân
chúng. Ngày hôm trước còn được tung hô Hoàng đế, hôm sau đã biến thành “Thằng
chó săn, thằng phản tặc, phường bán nước” đó là trường hợp vua Lê chiêu Thống
đã phải chịu do hành vi bán nước của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về
cắn gà nhà” mãi mãi là bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ
trên quyền lợi dân tộc. Giờ đây, chính quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang
bên kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê-chiêu-Thống và Nguyễn Ánh.
Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu “Cõng rắn
về cắn gà nhà” của các cụ xưa. Chính quyền Hà Nội giờ đây là bọn:
Dẫn hổ về thịt dê nhà.
Tại sao lại là hổ và dê?
Hổ, vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn
thực dân Pháp năm xưa nhiều lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng
hình ảnh con hổ chứ không thể là con rắn.
Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽ thấy rằng
toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phần
sống lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt lên chính giữa
lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng của nó. Đế
quốc Trung-hoa sẽ trải rộng khắp châu Á, Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh
thành khác nhau của Trung-hoa, công đầu này thuộc về ai nếu không là nhà cầm
quyền Hà Nội, kẻ dựng lên công trình Bô-xít Tây nguyên?
Bô-xít ư? Trò lừa đảo!
Thiếu gì các quặng Bô-xít rải rác khắp miền Bắc
Việt Nam? Tại sao không là Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên?
Vả chăng, khai thác bô-xít để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài
báo đã phân tích chán chê lợi hại về khai thác bô-xít, kể cả các tài liệu trên
thế giới cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn
đỏ Hung-ga-ri. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển nhiên
đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?
Chính quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành
vi bán nước của họ, bởi con tính của họ là trở thành một thứ “Thái thú Tô-Định
hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều. Còn Việt Nam biến thành
một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng-việt, Quảng-nam, Quảng-lạc… họ
không cần quan tâm. Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích
của nhân dân, biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng
kinh nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân
tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn tay sắt để
bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không phải ngẫu nhiên mà năm
2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai doạ nạt những
người trí thức Việt Nam vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn quang A tuyên bố
giải tán. Ông nghị Trần nói rằng:
“Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không
thể có phản biện. Phản biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù
đang còn nhiều chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù, chúng tôi có
các phương tiện hữu hiệu hơn: tai nạn xe cộ bây giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn
một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu độc. Các anh uống cà-phê rồi khi về
đến nhà thì cứng đơ ra mà chết. Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu,
chúng tôi cũng không thua kém họ…”
Những lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải
sự công khai triệt để của Tính tội phạm và Tư cách Chó? Một chính thể không còn
lý do chính đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử
dụng bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn Chó giữ nhà.
Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, truỵ lạc, con
người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.
Vào những năm 1889, 1990, tôi có vinh hạnh làm
quen và gặp gỡ ông Lê-Giản, người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo
bộ máy cảnh sát từ những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là:
Người công an nhân dân, từ nhân dân mà ra, Do
dân và Vì dân.
Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công.
Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản.
Nhưng ông Lê Giản đã chết và Người công an nhân
dân cũng đã chết theo. Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm
thầm, nhưng không phải là vô hình vô ảnh.
Tôi chứng minh: Cách đây ngót ba thập kỷ,
khi những lượt hoa quả đầu tiên từ phương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân
tích thuộc Bộ nội vụ đã báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều
tẩm phóc-môn-đê-hít (thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì
nó phá huỷ mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung thư. Bộ
chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì “sợ mất lòng nước bạn”. Các sĩ
quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận
nhất (anh em ruột, cha mẹ vợ chẳng hạn), đối với người ngoài, họ tuyệt đối tuân
thủ mệnh lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng.
Tuyệt đối thản nhiên nhìn đồng bào
mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung
thư và sẽ chết vì bệnh đó. Tính kỷ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm
sao? Và cao thượng làm sao, những kẻ ngồi quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc
lương đống của triều đình, chịu trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra
lệnh cấm rò rỉ sự thật vào tai dân chúng, bỏ mặc mấy chục triệu người bị đầu
độc và chết dần chết mòn?
Đối với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế
độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy. Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sự chuyển
biến chất lượng này: từ Người công an Nhân dân, công an đã trở thành: Kẻ quay
lưng lại với nhân dân.
Ba thập kỷ đã qua, những Kẻ quay lưng lại với
nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trở thành Kẻ thù của Nhân dân.
Bây giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực
của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệ ông
chủ của nó? Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân
bị cướp đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là
người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long An, Bình
Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu “Trả đất cho dân”,
“Chống cửa quyền, tham nhũng”.
Những người dân ấy đã bị đám công an và dân
phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối xử ra sao? Mấy thế kỷ đã qua
nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn nha lại mà Nguyễn Du
đã mô tả trong Truyện Kiều: “Đầy nhà một lũ ruồi xanh”. Và, “Đầu trâu mặt ngựa
ào ào như sôi.”
Gần đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn ngọc
Quang, một giáo dân ở Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân
chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp chết.
Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này
tự vấn lương tâm? Tại sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ
sẵn có để giết những tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá
Thanh-hoá? Nếu là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu
chiến mạnh mẽ, tại sao họ không dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại
đi đàn áp những sinh viên yêu nước giương biểu tình đòi Trường-sa, Hoàng-sa
trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ mù loà,
óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp
trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác?
Vì chưa từng là công an, nên tôi dành những câu
hỏi ấy cho họ trả lời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứ hai, nhận xét khi tôi nhìn
tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng
7 năm nay.
Nhiều người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công
an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi,
quê quán tại huyện Việt Yên vì tội danh: Không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng
7, gia đình anh Khương đã chở xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền
mạng.
Dân chúng xông lên ủng hộ gia đình nạn nhân, con số lên đến hàng ngàn
người, làm thành một cuộc biểu tình rầm rộ chưa từng có trong lịch sử tỉnh Bắc
Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già nói rằng: còn đông hơn ngày theo
Việt-minh cướp chính quyền năm Ất dậu. Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi
tiết: công an đưa xe cứu hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước
khí thế căm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo lên xe
đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì mù loà;
cũng hành động như đám rô-bốt hoặc lũ chó bẹc-giê. Trong lúc nguy khốn, họ đã
tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát thân.
Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi: Không
phải công an nào cũng phú quý vinh hoa như ông nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần
những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai,
ba đứa con kèm theo cuộc sống của họ cũng không phải là “thiên đường nơi hạ
giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác
ngu xuẩn.
Thêm nữa, lớp lính bây giờ tương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn
toàn bị bưng bít thông tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các
cuộc cách mạng dân chủ xảy ra ở Nga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Uy-kờ-ren mới
rồi. Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất của
con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cả thì đó là cái chết xứng
đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì miếng cơm thì đó là cái chết
của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ
hoặc dùng câu liêm cắt cổ.
Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không
còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị kỷ của mỗi con người. Sự vị kỷ này cũng
có mặt tốt của nó: nó là rào cản để chủ nghĩa cuồng tín không thể đặt chân vào
mảnh sân của mỗi căn nhà. Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt,
ắt phải biết con tính này:
- Họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu? Liệu số
lương bổng họ được có trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi
nổi cô vợ với lũ con còn lại? Hay sự hy sinh của họ chỉ để làm nặng thêm túi
tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (như ông chủ
tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà-Giang tên Nguyễn-trường-Tô và … các ông khác chưa
bị lộ mặt ). Hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổ
dưỡng làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn quanh
rốn ông nghị Nguyễn-văn-Hưởng)? Vân vân và vân vân…
Sự tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi
thánh nhân thường hiếm mà kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả
mọi người đều xả thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ
cũng là dân Việt. Là dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng
máu sôi sục liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào , sớm
hay muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân. Lo thân cho họ
cũng đã là khá tốt để khỏi biến thành gia súc trong lò nướng một khi Lửa cháy.
Dân Việt!
Ai là dân Việt?
Phải chăng đó là tộc người duy nhất trong hàng
trăm tộc Việt (Bách-Việt) xưa kia sống ở phía Nam sông Dương-tử còn giữ lại
được bản sắc mà chưa bị đồng hoá như chín mươi chín tộc Việt kia?
Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn
luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều?
Ngoài các lý do về nhu cầu bờ biển với các hải
cảng, nhu cầu khoáng sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc
không nói ra, đó là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách-Việt. Niềm
kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó. Một khi họ
đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán lên chín mươi chín
tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải chịu thua? Ở thế thượng
phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt Nam, mảnh đất cỏn con,
dường như là một “vết thương lòng, một sự tự ái” mà vua chúa Trung-hoa không
chịu được. Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng: “Mao Trạch
Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính sách đối với Việt Nam thì
bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”.
Đó là một nhận định sáng suốt.
Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung
Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng hộ
xâm chiếm Việt Nam. Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến trên 90 phần
trăm. Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn sợ hãi, họ
phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn lại vẫn là
trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai có thể chối bỏ. Năm nay đã
là năm 2010, thế kỷ 21, Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao,
không còn phải đổi xác người thân cho nhau để chén thịt. Kinh tế phát triển,
các phương tiện kỹ thuật phát triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo
lan tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị dắt
mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền, ngược lại,
họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên thế giới.
Vậy thì, cái “Hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được”
kia không chỉ làm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổ họng vô
số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.
Vì lý do nào mà bộ trưởng bộ quốc phòng Trung
Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có
chủ định?
Vì lý do nào mà trên các sít internet Trung Quốc
tung ra hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ “Lũ chó Việt Nam, phải đánh bọn chúng.
Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử…”, và công bố một cách
chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt ngày, phần còn lại
của bán đảo được quy định là một tuần, tóm lại chương trình Con hổ Trung Quốc
nuốt trọn con dê Đông Dương?
Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược
làm những điều ấy chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc
lập mà không tự nguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán?
Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời.
Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người
cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã
đấu tranh không mệt mỏi để chống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn
thấy sự Đánh mất bản diện, Sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.
Để tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa
chống chọi vừa lùi xuống phương Nam. Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu
này:
Nam tiến!
Nam tiến, nam tiến và nam tiến!
Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sự dưới triều Lê, từ
năm 1428 đến năm 1527. Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không
ngưng nghỉ. Từ Thăng long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là
những đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng
và lập làng xây ấp tại châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang vượt qua đèo Hải-Vân
là chặng đường thứ hai. Cứ thế mà hành trình này tiếp tục cho đến mũi Cà-mâu.
Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên
ta.
Bây giờ, chúng ta không còn cơ hội để tiếp tục
sự nghiệp của họ. Chúng ta không thể Nam Tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển.
Chúng ta tiến đi đâu?
Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ
lấy đất đai, đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai
ấy là nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào
để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau. Để giữ được non sông,
để có thể là người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một
vương quốc khác, họ không thể tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước, một
chính quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã
biến ngọn cờ Thăng long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng
Bắc kinh. Họ không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng họ một
con rắn độc, cũng như Vua Triệu Đà xưa đánh mất non sông vì trót đẻ ra và trót
yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ-Châu. Với tất cả các hành vi nhục
nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ
Châu.
Tuy nhiên, Mỵ-Châu xưa là một người đàn bà xinh
đẹp nhưng ngu dốt, kẻ luỵ tình nông nổi nên Tội bán nước của cô ta còn được
người đời khoan dung. Tại đền thờ Cổ-loa có hai tượng đá: Tượng đá ngoài sân là
biểu tượng Mỵ-Châu nằm gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một
cái lên lưng và nhổ một bãi nước bọt để trừng phạt con Mỵ Châu bán nước. Còn
tượng đá trong đền, tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được
hương khói do lòng đồng cảm với Mỵ Châu khờ dại và luỵ tình.
Dân Việt vốn không
cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình. Nhưng
nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn chính quyền
Mỵ-Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ tình ai, nó chỉ luỵ
cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu tạo, xây đắp quyền
lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là liếm cho mượt bộ
lông của chính nó mà thôi. Mỵ-Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần
truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc. Người dân Việt phải chém cụt đầu con
đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc.
Nếu họ không muốn lặp lại số phận bi thảm của
ông vua Triệu Đà.
Quân đội, những người lính của nhân dân… Nguồn: OntheNet
Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội không đứng
lên cùng với họ. Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ
đến bao giờ?
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment