Saturday, December 21, 2013

Trò chơi Góp ý sửa đổi Hiến pháp của đảng: Điếm và điếm


Trò chơi Góp ý sửa đổi Hiến pháp của đảng: Điếm và điếm

GS Trần Phương Chủ nghĩa Xã hội đã thất bại! Chủ nghĩa Cộng sản là ảo tưởng!

                      http://www.youtube.com/watch?v=3BhkOu_4TtU


Sãi Mõ (Danlambao) 1. Vừa qua trên các phương tiện thông tin lề đảng, có vị với đầy đủ học hàm, học vị hẳn hoi, đồng thời là đại biểu Quốc hội – “đại diện” cho cử tri đấy lại thản nhiên phát biểu: “đông đảo”, “đại bộ phận” thậm chí “phần lớn” nhân dân đồng thuận với nội dung bản dự thảo bản Hiến Pháp sửa đổi năm 2013. Tuy nhiên bất kỳ ai thử về một xóm hoặc khu phố nào đó hỏi những người dân ở đây xem có mấy người nhìn thấy, chưa nói là được đọc cái bản dự thảo Hiến Pháp này, chúng tôi dám chắc sẽ có kết quả hoàn toàn trái ngược với lời phát biểu của các vị đại biểu kia.

Qua đó mới thấy “đảng ta” rất thành công trong việc nuôi những “đám vẹt cảnh”, sẵn sàng bán rẻ danh dự, chẳng ngại đem cái mặt thớt ra đánh đĩ cùng thiên hạ. Trơ trẽn, mặc nhiên dối trá, lừa bịp không hề biết xấu hổ.

Tuy vậy nếu nói đúng thực tế, tức là chỉ thiểu số hoặc rất ít người đồng tình thì bản Hiến Pháp năm 2013 dẫu nay có được Quốc Hội thông qua đi chăng nữa đâu có xứng đáng là khế ước – tâm nguyện của đông đảo nhân dân Việt Nam. Còn cố tình bám giữ bản dự thảo Hiến Pháp này thì nó cũng không thể có sức sống, chỉ lay lắt như “cây tầm gửi” trên thân cây gỗ mục, một món nợ dân tộc, dấu ấn đen tối của lịch sử!

2. Rất may trong khu vực vừa rồi chẳng có nước nào tranh cử, thành thử Việt Nam đã nghiễm nhiên “chui” được vào Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc, mặc dù cái Nhà nước toàn trị này hoàn toàn “phi nhân quyền”.

Tuy nhiên vì mục đích níu kéo quyền lực, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không ngừng sử dụng mọi quỷ kế, kể cả những cánh tay nối dài của mình sục vào mọi ngõ ngách có thể - mặc nhiên đánh đĩ cả Hội đồng nhân quyền quốc tế ra sức kiểm duyệt quyền công dân trong các hoạt động dân sự. Dưới đây chúng tôi xin đơn cử về một hành động mới đây tại thành phố Vũng Tàu: 






Công an: Ngắm đi ngắm lại bắn ai từ rày?

Trần Thị Hải Ý (Danlambao) - “Hai tay cầm khẩu súng này, / Ngắm đi, ngắm lại: bắn ai từ rày? / Bắn vào Tàu khựa, tay sai: / Lũ cướp nước, lũ đọa đày dân ta; / Lũ không yêu trẻ kính già, / Lũ cướp đất, lũ đốt nhà xôn xao; / Lũ đòi sưu nặng thuế cao, / Lũ đi chém giết đồng bào Việt Nam! / Bắn được chúng, chết cũng cam, / Vì mình dù chết, nước Nam vẫn còn!”

*

Báo lề đảng đưa tin, nguyên văn: [“Từ 01/02/2014, sau khi áp dụng các biện pháp để khống chế người chống đối không có kết quả, cán bộ thi hành công vụ có quyền nổ súng để phòng vệ, bắt giữ”].


Nghị định này làm Hải Ý em nhớ lại:


Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến lực lượng công an. Người bảo công an nhân dân là một lực lượng bảo vệ của chính quyền chuyên chính dân chủ nhân dân, có nhiệm vụ giữ gìn trật tự an ninh cho nhân dân, xem xét tìm tòi âm mưu phản động làm hại nhân dân, trấn áp bọn tay sai chống lại chính quyền. Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Công an là bạn dân thì những việc việc oanh liệt của quân và dân ở các địa phương, công an cần phải biết rõ”. “Công an phải bảo vệ dân chủ của nhân dân và thực hiện quyền chuyên chính với những kẻ chống lại dân chủ của nhân dân”.


Cán bộ Lớp Trung cấp Công an rất phấn khởi, vinh dự được Bác Hồ đến thăm và chụp ảnh kỷ niệm (1950). Ảnh: Tư liệu.

Hồ Chí Minh nêu ra những nhiệm vụ chính mà lực lượng công an cần phải thực hiện cho bằng được: xây dựng bộ máy công an phục vụ dân, tổ chức giáo dục nhân dân trong công việc phòng gian trừ gian, để nhân dân thiết thực giúp đỡ công an; Cách tổ chức công an phải giản đơn thiết thực, tránh tệ hình thức giấy má; Lề lối làm việc phải dân chủ, cấp trên kiểm tra cấp dưới, cấp dưới phê bình cấp trên, cùng giúp đỡ nhau về kinh nghiệm, sáng kiến, để cùng nhau tiến bộ. Tự phê bình và phê bình trên tinh thần thân ái và lập trường cách mạng; khuyến khích nhân dân phê bình công an, để nhân dân hiểu công an, yêu công an và giúp đỡ công an. Người nhắc nhở: “Công việc làm của công an âm thầm nhưng rất quan trọng, vì vậy công an phải tránh các khuyết điểm như sợ khó, sợ khổ, không bền gan, không quyết chí, kém cảnh giác, hữu khuynh”.

Trong bài nói chuyện tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 14, vào tháng 1/1960, Hồ Chí Minh nêu rõ: Nhiệm vụ của ngành công an là: “Tăng cường cuộc đấu tranh chống phản cách mạng dưới mọi hình thức; Giữ gìn thật tốt trật tự, an ninh. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ đó, cán bộ và chiến sĩ công an cần phải: Luôn luôn nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa; đoàn kết chặt chẽ nội bộ, đoàn kết chặt chẽ giữa công an và nhân dân vũ trang; đoàn kết chặt chẽ giữa công an và nhân dân, và dựa vào lực lượng to lớn của nhân dân; Phát huy dân chủ nội bộ; kiện toàn tổ chức thành một lực lượng thật vững mạnh của nền chuyên chính vô sản”. Hồ Chí Minh nêu rõ tư cách và nhiệm vụ của người công an: “Đối với tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính. Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ. Đối với Chính phủ phải tuyệt đối trung thành. Đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép. Đối với công việc, phải tận tụy. Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”.

Ngày 29/4/1963, trong bài nói tại Hội nghị cán bộ ngành công an, Hồ Chí Minh nói: “Công an cách mạng là một vũ khí sắc bén của chuyên chính vô sản. Cho nên nhiệm vụ công an là cực kỳ quan trọng, phải giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ cho nhân dân ta an cư lạc nghiệp. Làm mọi việc phải đi sâu, đi sát, phải tránh chủ quan, phải có kế hoạch chu đáo, phải có quyết tâm bền bỉ. Các cấp ủy Đảng phải thật sự giúp đỡ và lãnh đạo chặt chẽ công an. Ngành công an có nhiệm vụ xây dựng một bộ máy công an nhân dân vì dân phục vụ, là bạn dân, giúp đỡ nhân dân, tổ chức giáo dục nhân dân trong công tác phòng gian, trừ gian. Công an “Phải gần gũi nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, xa rời nhân dân thì tài tình mấy cũng không làm gì được. Nhân dân có hàng triệu tai mắt. Nếu công an biết dựa vào nhân dân thì nhân dân sẽ là người giúp việc rất đắc lực cho công an”. Hồ Chí Minh căn dặn các cán bộ công an phải có lập trường rõ ràng vững chắc, tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tức là “mỗi người hãy nghĩ đến lợi ích chung, lợi ích toàn dân trước, phải chống chủ nghĩa cá nhân”. Mỗi cán bộ công an đều có trách nhiệm xây dựng bộ máy công an, phải cố gắng gương mẫu trong học tập, trong công tác, gương mẫu về đạo đức cách mạng. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ của công an rất lớn, rất gian khổ nhưng rất vẻ vang. Hồ Chí Minh tặng lực lượng công an bài thơ:

“Đoàn kết, cảnh giác
Liêm, chính, kiệm, cần.
Hoàn thành nhiệm vụ,
Khắc phục khó khăn,
Dũng cảm trước địch,
Vì nước quên thân,
Trung thành với đảng,
Tận tụy với dân”]
Ba Minh (st)

*


[Thực sự lúc sinh thời, Bác Hồ không nói và viết nhiều về lực lượng Công an nhân dân. Thế nhưng, trong không nhiều những câu chữ Bác dành riêng cho chúng ta lại ẩn chứa rất nhiều những suy tư và tâm huyết về một lực lượng phải gánh vác những “công việc âm thầm nhưng rất quan trọng” (chữ Bác đã dùng trong bài nói chuyện tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 10, tháng 1/1956).

Đặc biệt 6 điều Bác Hồ dạy lực lượng Công an nhân dân (CAND) trong suốt mấy chục năm qua đã luôn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của lực lượng Công an nhân dân, giúp lực lượng CAND hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong mọi thời kỳ cách mạng, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Các thế hệ cán bộ chiến sĩ CAND đã luôn luôn tâm niệm rằng, học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy đồng nghĩa với sự thực hiện nhiệm vụ và lý tưởng của mình.

Cần phải thấy rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh ngay từ “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” của cách mạng mùa thu năm 1945 đã luôn nhấn mạnh tới tính công bộc của bộ máy nhà nước đối với nhân dân. Là người từng trải, anh minh và mẫn tiệp, đã không chỉ một lần phải “biết mùi hun khói”, Bác Hồ hiểu rất rõ những cảm giác mà các bộ máy chính quyền trong một xã hội có tình trạng người bóc lột người gây nên trong tâm trí dân chúng nên ngay sau Cách mạng tháng Tám 1945, Bác đã rất dày công để tuyên truyền, giáo dục, cổ xúy một hình mẫu chính quyền mới, chính quyền nhân dân. Tháng 10/1945, với bút danh Chiến Thắng, Bác viết: “Non hai tháng trước đây, trước cuộc khởi nghĩa 19-8-1945, nói tới hai chữ Chính phủ người ta nghĩ ngay tới một bọn đầu đảng cướp nguy hiểm, xảo quyệt. Trái lại, ai ai đối với Chính phủ nhân dân hiện nay cũng đều có một cảm tình thân mật xen lẫn với một niềm tôn kính sâu xa: Chính phủ đối với ta như người “anh cả” trong gia đình, một đồng chí phụ trách một địa phương, người đứng mũi chịu sào ta có thể vững lòng trông cậy và gửi số mệnh vào. Người xưa nói: quan là công bộc của dân, ta cũng có thể nói: Chính phủ là công bộc của dân vậy... Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân phải tránh”.

Cũng với cách hình dung như thế, Bác Hồ muốn lực lượng CAND phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn của những công bộc của dân trong một lĩnh vực hoạt động hết sức đặc thù liên quan tới sự an nguy của cả xã hội, cả chế độ. Đọc xong số nội san Bạn dân của Công an khu XII năm 1948, Bác đã nhắc nhở đồng chí Hoàng Mai (lúc đó là Giám đốc Công an khu VII) rằng: “Trên báo, cần thường xuyên làm cho anh chị em công an nhận rõ công an của ta là công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc”. Theo Bác, công an ta luôn luôn phải “lấy lòng” dân (hiểu theo nghĩa tốt đẹp nhất của từ này) để được dân giúp đỡ và có được dân giúp đỡ thì công an ta mới có thể làm việc có hiệu quả. Cách lập luận của Bác rất giản dị nhưng đầy thuyết phục: “Bác lấy một ví dụ: Công an ta có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm bảy vạn đi nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân. Năm vạn người thì chỉ có 5 vạn cặp mắt, 5 vạn đôi bàn tay. Phải làm sao có hàng triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được. Muốn như vậy, phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Nếu không thế thì sẽ thất bại...” (trích bài nói tại Trường Công an trung cấp khóa 2, năm 1951). Nhìn lại thực tế hôm nay, càng thấy những lời Bác dạy thực là chí lý! Nếu không được lòng dân và không được nhân dân thực sự giúp đỡ, tin tưởng, coi như con em của mình thì bao nhiêu cố gắng nắm bắt địa bàn cũng dễ trở thành công cốc. Việc nước rất nhiều (lại vẫn câu chữ của Bác), việc giữ gìn an ninh trật tự xã hội cũng rất nhiều, chỉ mình lực lượng Công an đảm trách thôi thì không đủ. Phải làm sao để các tầng lớp nhân dân cũng sát cánh cùng lực lượng CAND, chung lưng đấu cật trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc và trật tự an toàn xã hội. Công an phải luôn gần gụi với người dân, phải học cách ứng xử với nhân dân sao cho lễ phép, chân thành. Còn nhớ, trong bài nói chuyện với hội nghị tổng kết công tác cảnh vệ tháng 2/1962, Bác đã nhắc nhở: “Bác nói một điểm nữa là thái độ đối với nhân dân. Cũng vì mục đích bảo vệ Bác nên các chú không muốn để đồng bào đến gần, cho nên đã xô đẩy đồng bào. Thái độ thế là không tốt. Đồng bào và các cháu nhi đồng muốn đến gần Bác. Nhưng các chú thì lại không muốn. Nó có mâu thuẫn, nhưng phải làm thế nào? Mình là dân chủ. Bác cũng như các chú, đều nói là phục vụ nhân dân. Cho nên phải khéo tổ chức, nếu không khéo tổ chức thì xô đẩy cũng không được; cho nên, phải làm thế nào để vừa bảo vệ được Bác, vừa không xô đẩy đồng bào”. Người Cha già của dân tộc vừa thông tuệ cổ kim vừa nắm rất rõ và tinh tế cả những chi tiết dù nhỏ nhặt nhất của đời thường.

Cán bộ Lớp Trung cấp Công an rất phấn khởi, vinh dự được Bác Hồ đến thăm và chụp ảnh kỷ niệm (1950). Ảnh: Tư liệu.

Có đức mới vực được nghề

Làm nghề nào muốn tốt thì cũng phải tinh thông mọi ngón chuyên môn. Làm người công an nhân dân nếu muốn hoàn thành thực tốt chức phận của mình thì không chỉ giỏi nghiệp vụ mà còn phải là thấm nhuần những tiêu chí đạo đức cách mạng. Đây cũng là một trong những điều mà Bác Hồ từng nhấn mạnh khi viết hoặc nói với lực lượng CAND. Bác phân biệt rất rạch ròi sự khác biệt giữa bộ máy công an của chính quyền cách mạng với cái gọi là ngành công an trong những xã hội còn áp bức, bất công. Bác nói (cũng tại Trường Công an trung cấp khóa 2): “Công an đế quốc là nanh vuốt của đế quốc để hà hiếp áp bức đa số nhân dân. Chắc các cô chú cũng nhớ chúng nó là bọn đầu trâu mặt ngựa. CAND phải là kiểu mẫu, phải là người chuyên trách thi hành, chính sách phương châm của Đảng và Chính phủ cho tốt. CAND phải thực sự phục vụ nhân dân...”. Mà muốn thực sự phục vụ nhân dân thì không thể không là những người có đạo đức cách mạng thực sự. Chính vì thế nên Bác Hồ đã đặt lên trên hết mọi sự yếu tố đạo đức trong hoạt động nghiệp vụ của người công an cách mạng. Cũng trong bức thư gửi đồng chí Hoàng Mai đã nhắc ở trên, Bác nhấn mạnh: “Trên tờ báo phải luôn luôn nhắc nhở anh em rèn luyện tư cách đạo đức”. Theo Bác, tư cách người công an cách mạng là phải đáp ứng được đủ những yêu cầu sau:

“Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tuỵ.
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”.

Và Bác dạy, muốn giữ gìn, bồi đắp đạo đức cho mình, những người chiến sĩ CAND hơn ai hết cần phải biết “phê bình nhau”. Ngay trong những ngày đầu của chính quyền dân chủ cộng hòa, Bác cũng đã hiểu quá rõ là những người công bộc mang sắc phục công an nếu không tự xác định được đúng đắn vai trò và nhiệm vụ của mình thì rất dễ mắc phải sai lầm. Tôn vinh sự tử tế nhưng Bác cũng rất nghiêm khắc với những thói hư tật xấu và Bác đã thẳng thắn phê bình: “Công an nhân dân phải thực sự phục vụ nhân dân, nhưng hiện nay các cô các chú đã làm tròn nhiệm vụ ấy chưa? Chưa. Tuy đã có nhiều người tận tâm, cố gắng nhưng lẻ tẻ vài nơi nhân dân còn chê trách đấy!”. Bác nói: “Trong nội bộ, công an cũng phải phê bình nhau. Đối với người không sửa được thì phải tẩy trừ ra khỏi ngành kẻo để lại thì con sâu làm rầu nồi canh. Phải làm thế nào cho được lòng dân, phải thực sự giúp đỡ dân trong công việc chứ không phải là lối ngoại giao qua loa. Có như thế thì người dân mới tích cực trở lại giúp đỡ công an”.

Kẻ thù dai dẳng - chủ nghĩa cá nhân

Trong bài nói tại Trường công an nhân dân ngày 28/1/1958, Bác Hồ đã gióng lên hồi chuông báo động rằng, người chiến sĩ công an phải thực sự chú trọng tới việc chống chủ nghĩa cá nhân, tức là chống thói so bì đãi ngộ, muốn nghỉ ngơi hưởng thụ, an nhàn... Bác cũng nhắc nhở trong bài nói chuyện tại lớp chỉnh huấn khóa II của Bộ Công an (ngày 16/5/1959): “Chủ nghĩa cá nhân không phải chống lại một lần là hết được. Trong lớp này, các cô các chú kiểm thảo thành khẩn là điều tốt, tiến bộ. Nhưng không phải kiểm thảo xong là gột rửa hết chủ nghĩa cá nhân. Ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày. Vì vậy, kiểm thảo ở đây không phải là xong, là đủ mà còn phải tiếp tục luôn luôn phê bình, tự phê bình, kiểm thảo trong mọi việc”.

Nhìn vào hôm nay, càng thấy những lời Bác dạy năm xưa vẫn có tính thời sự nóng bỏng. Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân thực sự vẫn đang còn tiếp diễn. Người chiến sĩ công an không theo thuyết khổ hạnh nhưng ham muốn có một nếp sống không thích ứng với thực trạng đất nước luôn dễ là “ma đưa lối quỷ dẫn đường” đối với những công bộc có vai trò rất quan trọng trong bộ máy chính quyền hành pháp như lực lượng CAND. Điều này hiển nhiên hơn ai hết tất cả những chiến sĩ Công an như chúng ta đều nhớ.

Chính Nhân

*

Để kết bài sưu tầm này, đương nhiên Hải Ý em nhớ thật kỹ lại và cũng đương nhiên không thể không noi gương ‘vận dụng sáng tạo’ và ‘ứng tấu ứng tác’ bài vè dưới đây:

Hai tay cầm khẩu súng này,
Ngắm đi, ngắm lại: bắn ai từ rày?
Bắn vào Tàu khựa, tay sai:
Lũ cướp nước, lũ đọa đày dân ta;
Lũ không yêu trẻ kính già,
Lũ cướp đất, lũ đốt nhà xôn xao;
Lũ đòi sưu nặng thuế cao,
Lũ đi chém giết đồng bào Việt Nam!
Bắn được chúng, chết cũng cam,
Vì mình dù chết, nước Nam vẫn còn!
Cái bằng cửu phẩm, cái lon đội nhì,
Nhắm vào quần chúng bắn đi
Kể chi nhân nghĩa kể chi giống nòi!
Anh chị em công an ơi:
Chúng ta cùng giống cùng nòi Việt Nam!
Việc chi lợi nước thì làm,
Cứu dân cứu nước há cam kém người?
Trong tay đã sẵn súng rồi,
Quyết quay bắn Khựa, tay sai mới đành!
Tiếng thơm sẽ tạc sử xanh,
"Công an cứu quốc" rạng danh muôn đời.

(Nhái bài ‘Ca binh lính’, tác giả: doanh nhân văn hóa thế giới: Hồ Chí Minh)

(sưu tầm)

Nguyễn Thu Trâm – Bỏ đảng, thoái đảng: Một triển vọng mới cho Quê Hương Việt nam

 

Posted on 18/12/2013by minhhieu90
Nguyễn Thu Trâm, 8406 - Trong những ngày qua, dư luận của người Việt trong và ngoài nước xôn xao trước hiện tượng thoái đảng, bỏ đảng của một số đảng viên đảng cộng sản Việt Nam. Nếu so sánh với trào lưu thoái đảng ở Trung Quốc với con số 100 triệu đảng viên đã công khai tuyên bố từ bỏ đảng cộng sản, thì số lượng những người Việt tuyên bố ly khai khỏi đảng cộng sản Việt Nam quả thực chỉ là một con số quá ư ít ỏi, ấy vậy mà đã tiêu tốn không ít giấy mực của các báo chí lề dân, cũng như khá nhiều thời gian bàn qua tán lại của nhiều người đang nặng lòng với quê hương, với đất nước và với tiền đồ của dân tộc.
Thực ra không phải ông Lê Hiếu Đằng là người đầu tiên ly khai khỏi đảng cộng sản, mà trước đó, từ những năm cuối thập niên 1980s và đầu thập niên 1990s cũng đã có nhiều đảng viên, từng giữ các trọng trách trong bộ máy quyền lực của nhà nước cộng sản như các ông Huỳnh Nhật Hải sinh năm 1943, ông Huỳnh Nhật Tấn sinh năm 1946 là hai anh em ruột, là những người đã công khai từ bỏ đảng cộng sản vào cuối năm 1988, đồng thời hai ông Hải và Tấn cũng từ bỏ luôn những chức vụ đang đảm nhiệm kèm theo những tiềm năng rất lớn về quyền lực và quyền lợi:  Vào thời điểm đó, ông Hùynh Nhật Hải đang là Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt kiêm Thành ủy viên Thành ủy Đà Lạt, còn ông Huỳnh Nhật Tấn đang giữ chức vụ Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng kiêm Tỉnh ủy viên dự khuyết. Và một đảng viên kỳ cựu khác mà không ít người quen tên biết tuổi, cũng đã công khai tuyên bố từ bỏ đảng cộng sản vào cuối năm 2009 đó là nhà văn, Ðại tá quân đội cộng sản bắc Việt Phạm Ðình Trọng. Nhưng trong thực tế đã có khá nhiều đảng viên cộng sản khác âm thầm từ bỏ đảng mà không cần tuyên bố.



Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói chúng tôi đi đến sự bất tín vào ĐCSVN là dựa vào những gì chúng tôi thấy, chúng tôi gặp trên thực tế hơn là từ vấn đề lý luận. Đó chính là những chính sách về quản lý xã hội, điều hành kinh tế và việc tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của người dân của ĐCSVN. Về quản lý xã hội, ĐCSVN đã không quản lý bằng pháp luật mà bằng sự tùy tiện, áp đặt, gần như hoàn toàn chỉ dựa theo các chỉ thị, ý muốn từ lãnh đạo Đảng. Ví dụ việc tịch thu nhà cửa, tài sản hay đưa đi “học tập cải tạo”, thực chất là bỏ tù con người, đều không dựa trên pháp luật hay xét xử của tòa án. Điều hành kinh tế thì lúc đó chúng tôi thấy những chính sách rất kỳ cục và phản khoa học, ví dụ như có những chỉ thị là Đà Lạt phải sản xuất bao nhiêu rau hay các huyện khác phải sản xuất bao nhiều mì[i] mà không cần  biết khả năng và lợi thế về thổ nhưỡng, thói quen canh tác của người dân hoặc việc giao quyền lãnh đạo kinh tế không dựa vào chuyên môn, kinh nghiệm mà lại dựa vào thành phần giai cấp và sự gắn bó với Đảng. Về các quyền tự do dân chủ của người dân, càng ngày chúng tôi càng thấy thực tế lại tồi tệ và khó khăn hơn rất nhiều so với thời Việt Nam Cộng hòa. Ví dụ như khi hoạt động trước 1975, chúng tôi đã từng cho một số viên chức chính quyền đọc cả cương lĩnh của Mặt trận nhưng những người đó không coi chúng tôi là thù địch, họ coi việc khác biệt quan điểm là chuyện hết sức bình thường. Nhưng sau năm 1975 mọi thứ không như thế nữa, tất cả mọi hoạt động, kể cả trong tư tưởng, mà khác với quan điểm của ĐCSVN thì đều không được chấp nhận. Báo chí tư nhân, biểu tình, bãi công, bãi thị đã hoàn toàn bị cấm ngặt mặc dù những bất công, nhu cầu lên tiếng của xã hội hết sức bức bối. Có thể nói điều lớn nhất để chúng tôi nhận thức lại ĐCSVN là sự độc tài toàn trị dựa trên bạo lực và không tôn trọng những quyền căn bản của người dân.


…Trở lại với trường hợp thoái đảng của ông Lê Hiếu Đằng, khác hẳn với bối cảnh ly khai khỏi đảng cộng sản của hai ông Hải và Tấn, Ông Lê Hiếu Đằng thoái đảng trên giường bệnh, khi biết mình đã gần đất xa trời, khi biết mình chắc chắn sẽ không còn nhận được chút ân sủng gì nữa của đảng, và điều đáng tiếc là ông Đằng vẫn chưa nhận ra tội lỗi của mình đối với đồng bào, với dân tộc khi đi theo cộng sản để mang lại đau thương, tang tóc cho quê hương cho nòi giống, thậm chí ông Đằng vẫn còn ngộ nhận hành động xâm lược miền Nam của cộng sản Bắc Việt là “Giải Phóng Dân Tộc” nên dẫu đã từ bỏ đảng nhưng vẫn chưa hề ăn năn: “Tôi tên Lê Hiếu Ðằng là đảng viên đảng CSVN, hơn 40 tuổi đảng. Nay tôi tuyên bố công khai ra khỏi đảng CSVN vì: Ðảng CSVN bây giờ không còn như trước (đấu tranh giải phóng dân tộc) mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước, dân tộc. Ði ngược lại lợi ích dân tộc, nhân dân. Tôi xin xác định đây là quyết định của tôi”.​… Và khi ngồi viết những lời này thì chúng tôi nhận được thông tin ông Lê Hiếu Đằng đã bị hôn mê sâu sau nhiều tháng dài điều trị tại bệnh viện. Chắc chắn là sự tồn tại của ông Đằng trên thế gian này chỉ còn tính bằng giờ, bằng khắc ngắn ngũi mà thôi. “Hổ tử lưu bì, nhân tử lưu danh”: Vâng hổ chết để da, người ta chết để tiếng… Sinh ra và lớn lên ở miền Nam tự do, được hưởng thụ nền giáo dục khai phóng và nhân bản của Việt Nam Cộng Hòa với đầy đủ và trọn vẹn những quyền làm người mà Thương Đế đã ban cho, nhưng như loài dơi không chấp nhận ánh sáng mà chỉ thích nghi với đời sống nơi tối tăm, u trệ, Lê Hiếu Đằng cùng một số nhân sỹ trí thức Miền Nam từng ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản đã chối bỏ ánh sáng của Tự Do, Dân Chủ của Miền Nam mà đi tìm sự tăm tối u mê nơi chế độ cộng sản và cũng chính Lê Hiếu Đằng cùng đồng đảng đã mang cái tối tăm u trệ và đau thương tang tóc cho quê hương, cho dân tộc. Chẳng biết sự quay đầu quá muộn màn của Lê Hiếu Đằng có giúp rửa đi phần nào những vết dơ tội lỗi của ông đối với người dân Nam, đối với chính thể Việt Nam Cộng Hòa hay không, bởi chắc chắn với những tội lỗi của ông và của những kẻ ăn cơm quốc gia mà thờ ma cộng sản, tuổi tên của ông và của đồng đảng sẽ phải lưu xú muôn đời. Chỉ mong rằng, những kẻ cùng thuyền cùng hội với Lê Hiếu Đằng sớm quay đầu trước khi quá muộn.
Dù vậy, cũng phải khách quan mà thừa nhận rằng việc thoái đảng của ông Lê Hiếu Đằng ít nhiều đã tạo được hiệu ứng đối với một số đảng viên trẻ như tiến sỹ Phạm Chí Dũng và Nha Sỹ Nguyễn Đắc Diên… là hai đảng viên đã công khai từ bỏ đảng cộng sản với những tuyên bố mà ở một chừng mực nào đó cũng có thể giúp làm thức tỉnh lương tri của những người cộng sản, những người đang đặt quyền lợi của giai cấp, của bản thân lên trên quyền lới của tổ quốc, của dân tộc, rằng: “Tôi chính thức từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam bởi tất cả những gì mà Đảng Cộng sản thể hiện vai trò ‘lãnh đạo toàn diện’ trong ít nhất một phần tư thế kỷ qua đã khiến cho tôi, cũng như nhiều đảng viên khác, đi từ thất vọng đến tuyệt vọng về lý trí lẫn tình cảm vì đảng Cộng sản hiện thời chỉ còn mang bóng hình và hơi thở của các nhóm lợi ích” (Tiến Sỹ Phạm Chí Dũng). Và “Khi vào đảng tôi đã từng thề, rằng tuyệt đối trung thành với đảng. Nay, tôi thà phản bội lời thề trung thành với đảng còn hơn phải theo đảng mà phản bội lại quyền lợi dân tộc, dân sinh, dân chủ, dân quyền mà lẽ ra dân tộc tôi phải được hưởng từ 38 năm về trước.” (Bác Sỹ Nguyễn Đắc Diên) Hy vọng cùng với những tâm tư đó, những đứa con một thời lầm lạc của dân tộc sẽ nhận ra “con đường bác đi là con đường bi đát”, mà sớm quay về để chung tay cùng cả dân tộc trong công cuộc Khai Dân Trí, Chấn Hưng Khí và Hậu Dân Sinh vì sự tồn vong của giống nòi Lạc Việt.
Mong lắm thay
Nguyễn Thu Trâm, 8406


Zừa đi đường zừa xạo...


Biếm họa Kuốc Kuốc (Danlambao)




__._,_.___

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin buổi sáng22/4/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link