From: trucgiang01
To: johnpham209
Subject: RE: n - FW: TRẢ LỜI PHỎNG VẤN NHỮNG ĐVCS TRÍ THỨC BỎ ĐẢNG
Date: Sat, 8 Feb 2014 23:52:11 -0800
To: johnpham209
Subject: RE: n - FW: TRẢ LỜI PHỎNG VẤN NHỮNG ĐVCS TRÍ THỨC BỎ ĐẢNG
Date: Sat, 8 Feb 2014 23:52:11 -0800
Nguyễn Bá Chổi
danlambaovn.blogspot.com
Phỏng vấn Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn đã sớm
giác ngộ bỏ đảng CS.
–Làm cách mạng không phải để dựng nên một
nhà nước độc tài
Tháng 4 28, 2012
Phạm Hồng Sơn thực hiện
pro&contra: Hai anh em, ông Huỳnh Nhật Hải sinh năm
1943, ông Huỳnh Nhật Tấn sinh năm 1946, là những người, vào cuối năm 1988, đã
cùng nhau tự ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đồng thời từ bỏ luôn những
chức vụ đang đảm nhiệm kèm theo những tiềm năng rất lớn về quyền lực, quyền
lợi: Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt kiêm Thành ủy viên (đối với
ông Huỳnh Nhật Hải) và Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng kiêm Tỉnh ủy viên
dự khuyết (đối với ông Huỳnh Nhật Tấn).
Điều gì đã khiến hai đảng viên cộng sản
đầy tiềm năng của một gia đình có truyền thống cách mạng từ trước năm 1945 lại
có quyết định chia tay cách mạng khi sự nghiệp “cách mạng giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước”đã thành công hoàn toàn?
___________________
Phạm Hồng Sơn: Hai
ông có thể cho biết con đường nào đã đưa các ông đến với ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Hải: Có thể nói hai anh em chúng tôi đã được
“nhuộm đỏ” từ bé. Chúng tôi đã có thiện cảm, tinh thần ủng hộ, và làm những
việc có lợi cho những tổ chức của cách mạng như Việt Minh hay Mặt trận Dân tộc
Giải Phóng miền Nam Việt Nam (Mặt trận) ngay từ khi còn rất nhỏ tuổi. Vì ba má
tôi là một gia đình tư sản ủng hộ Việt Minh tại Đà Lạt từ trước năm 1945. Ba
tôi là hội viên Công hội Đỏ và tham gia cướp chính quyền tại Đà Lạt vào năm
1945 và sau đó trở thành đảng viên bí mật của Đảng Cộng sản Đông Dương (tên gọi
lúc đó của ĐCSVN). Hai anh trai tôi là những người đi tập kết ra Bắc sau năm
1954.
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói là ngay từ nhỏ, mở mắt ra là
chúng tôi đã được nghe, được thấy, được sống trong tinh thần của cách mạng, tôi
cứ tạm gọi là “cách mạng” đi. Đó là những năm thơ ấu của chúng tôi ở trong
“vùng tự do” liên khu 5, khi gia đình chúng tôi phải tránh sự truy lùng của
Pháp từ khoảng cuối 1945 đến năm 1954, và cả thời gian sau đó khi ba má tôi trở
lại Đà Lạt (sau Hiệp định Genève) để tiếp tục nhiệm vụ ủng hộ bí mật cho ĐCSVN
và Mặt trận dưới hình thức là một gia đình tư sản.
Phạm Hồng Sơn: Hai
ông có nhớ đã có ảnh hưởng nào đến từ ngoài gia đình không?
Huỳnh Nhật Tấn: Có, những trí thức như giáo sư, nhà văn,
nhạc sĩ có tên tuổi lúc đó mà đi với Việt Minh hay Mặt trận cũng gây cho chúng
tôi sự lôi cuốn, cảm hứng âm thầm nhưng rất lớn. Đặc biệt là qua quan sát, tiếp
xúc với những cán bộ hoạt động bí mật đã sống ở nhà tôi thì hai anh em tôi thấy
đó là những con người rất đáng khâm phục, họ vừa có tinh thần kỷ luật, chịu
đựng, hy sinh rất lớn vừa có những lý tưởng rất cao đẹp là quyết giành lại độc
lập cho đất nước và tự do cho dân tộc.
Huỳnh Nhật Hải: Một yếu tố nữa cũng làm cho chúng tôi ủng hộ
Mặt trận là sự xuất hiện của quân đội Mỹ tại miền Nam. Sự xuất hiện đó làm cho
những người như chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm về chủ quyền dân tộc. Chúng tôi
cảm thấy là miền Nam đang bị người Mỹ xâm lăng và cần phải chống lại họ và
chính quyền thân Mỹ tại miền Nam.
Phạm Hồng Sơn: Thời
gian từ khi Mặt trận được thành lập (năm 1960) cho tới năm 1975 các ông làm
những việc gì để ủng hộ “cách mạng”?
Huỳnh Nhật Hải: Công việc của cả hai anh em chúng tôi đều
cùng có hai giai đoạn khác nhau, trước và sau khi chúng tôi “nhẩy núi”, tức là
phải bỏ gia đình để vào tận căn cứ trong rừng sâu để hoạt động. Tôi “nhảy núi”
vào đúng mồng 3 Tết Mậu Thân 1968 còn em tôi, Huỳnh Nhật Tấn, “nhảy núi” trước
đó vài tháng khi đã bị lộ.
Huỳnh Nhật Tấn: Trước khi “nhảy núi”, anh em chúng tôi làm
công tác liên lạc, vận động trong giới thanh niên, học sinh, sinh viên tại Đà
Lạt để thành lập các nhóm, tổ chức, đoàn thể hoặc in, tán phát truyền đơn hay
khẩu hiệu đấu tranh cho Mặt trận.
Huỳnh Nhật Hải: Sau khi “nhảy núi”, hai anh em chúng tôi,
mỗi người một nơi, nhưng đều ở bộ phận công tác phong trào thanh niên học sinh,
sinh viên. Anh em chúng tôi thường phải đi vào những “vùng lõm“ (vùng dân cư mà
ban ngày do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát còn ban đêm thuộc về lực
lượng của Mặt trận) để bắt liên lạc, tiếp nhận hay vận động ủng hộ về vật chất,
tinh thần cho Mặt trận.
Phạm Hồng Sơn: Những
công việc đó chắc phải rất mạo hiểm và hết sức khó khăn?
Huỳnh Nhật Tấn: Đúng thế, chúng tôi phải rất kiên trì, khôn
khéo trong công tác vận động và không phải lần vận động nào cũng thành công. Cả
hai anh em chúng tôi cũng đã bị phục kích hoặc chạm trán với lực lượng quân đội
của Việt Nam Cộng hòa, nhưng rất may cả hai chỉ bị thương nhẹ trong một, hai
lần.
Phạm Hồng Sơn: Sau
30/04/1975 các ông được giữ ngay chức Phó Chủ tịch UBND Thành phố hoặc Phó Giám
đốc Trường Đảng?
Huỳnh Nhật Hải: Không phải như thế. Sau 30/04/1975 tôi tiếp
tục công tác ở Thành đoàn, sau đó mới chuyển qua công tác chính quyền. Năm 1977
tôi được kết nạp Đảng. Năm 1979 làm Chủ tịch khu phố I Thành phố Đà Lạt, rồi
sau khi đi học Trường Đảng ở Tây Nguyên trong một năm đến năm 1981 là tôi trở
thành Phó Chủ tịch UBND Thành phố Đà Lạt, là Thành ủy viên.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi thì được kết nạp Đảng từ năm 1972 sau
khi “nhảy núi”. Ngay tháng 10/1975 tôi đã được chọn vào số cán bộ đầu tiên gửi
ra Bắc học ở Trường Tuyên huấn Trung ương ở khu Cầu Giấy, Hà Nội trong 3 năm
rồi trở về giảng dạy môn kinh tế chính trị tại Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng. Và
sau lần ra học tiếp ở Hà Nội tại Trường Tuyên Huấn Trung Ương trong 03 năm nữa,
đến năm 1986 tôi được bổ nhiệm vào chức Phó Giám đốc trường Đảng tỉnh Lâm Đồng,
đồng thời được cơ cấu vào cấp Tỉnh ủy, là Tỉnh ủy viên dự khuyết.
Phạm Hồng Sơn: Một
cách ngắn gọn, lý do gì đã khiến hai ông gần như đồng thời quyết định từ bỏ
Đảng kiêm các chức vụ đó?
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi còn nhớ trong lá đơn xin ra khỏi Đảng
lúc đó tôi có viết một câu: “Tôi không tin ĐCSVN có thể lãnh đạo đưa đất nước
đạt được những điều tốt đẹp như Đảng thường nói.”
Huỳnh Nhật Hải: Còn trong lá đơn của tôi viết sau ông em tôi
một vài tháng, tôi nhớ đã viết là: “Tôi không còn động cơ để phấn đấu cho mục
tiêu và lý tưởng của Đảng nữa.” Nhưng thực sự trong thâm tâm thì cũng giống như
ông em tôi đã nói ở trên. Tôi không tin ĐCSVN nữa.
Phạm Hồng Sơn: Quá
trình đi đến sự bất tín đó diễn ra như thế nào?
Huỳnh Nhật Hải: Đó là một quãng thời gian kéo dài khoảng 5-7
năm, thông qua những quan sát, tìm hiểu, trao đổi, bàn bạc và trằn trọc từ mỗi
bản thân và gần như chỉ giữa hai anh em chúng tôi.
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói chúng tôi đi đến sự bất tín vào
ĐCSVN là dựa vào những gì chúng tôi thấy, chúng tôi gặp trên thực tế hơn là từ
vấn đề lý luận.
Phạm Hồng Sơn: Những
“thực tế” nào quan trọng nhất khiến hai ông nhận thức lại ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Tấn: Đó chính là những chính sách về quản lý xã
hội, điều hành kinh tế và việc tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của người dân
của ĐCSVN. Về quản lý xã hội, ĐCSVN đã không quản lý bằng pháp luật mà bằng sự
tùy tiện, áp đặt, gần như hoàn toàn chỉ dựa theo các chỉ thị, ý muốn từ lãnh
đạo Đảng. Ví dụ việc tịch thu nhà cửa, tài sản hay đưa đi “học tập cải tạo”,
thực chất là bỏ tù con người, đều không dựa trên pháp luật hay xét xử của tòa
án.
Điều hành kinh tế thì lúc đó chúng tôi thấy những chính sách rất kỳ cục và
phản khoa học, ví dụ như có những chỉ thị là Đà Lạt phải sản xuất bao nhiêu rau
hay các huyện khác phải sản xuất bao nhiều mì[i] mà không cần biết
khả năng và lợi thế về thổ nhưỡng, thói quen canh tác của người dân hoặc việc
giao quyền lãnh đạo kinh tế không dựa vào chuyên môn, kinh nghiệm mà lại dựa
vào thành phần giai cấp và sự gắn bó với Đảng.
Về các quyền tự do dân chủ của
người dân, càng ngày chúng tôi càng thấy thực tế lại tồi tệ và khó khăn hơn rất
nhiều so với thời Việt Nam Cộng hòa. Ví dụ như khi hoạt động trước 1975, chúng
tôi đã từng cho một số viên chức chính quyền đọc cả cương lĩnh của Mặt trận
nhưng những người đó không coi chúng tôi là thù địch, họ coi việc khác biệt
quan điểm là chuyện hết sức bình thường.
Nhưng sau năm 1975 mọi thứ không như
thế nữa, tất cả mọi hoạt động, kể cả trong tư tưởng, mà khác với quan điểm của
ĐCSVN thì đều không được chấp nhận. Báo chí tư nhân, biểu tình, bãi công, bãi
thị đã hoàn toàn bị cấm ngặt mặc dù những bất công, nhu cầu lên tiếng của xã
hội hết sức bức bối. Có thể nói điều lớn nhất để chúng tôi nhận thức lại ĐCSVN
là sự độc tài toàn trị dựa trên bạo lực và không tôn trọng những quyền căn bản
của người dân.
Phạm Hồng Sơn: Các
ông đã quen biết những nhân vật như ông Hà Sĩ Phu hay ông Mai Thái Lĩnh,…những
cư dân tại Đà Lạt lúc đó chưa?
Huỳnh Nhật Hải: Chúng tôi chưa biết ông Hà Sĩ Phu, còn ông
Mai Thái Lĩnh thì chúng tôi đã biết nhau từ hồi cùng “nhảy núi” nhưng sau
30/04/1975 chúng tôi gần như chưa trao đổi hay bàn luận gì với nhau cả. Anh em
chúng tôi trước khi quyết định bỏ về đã nói với nhau là “chúng ta đi làm cách
mạng không phải để xây dựng nên một nhà nước chuyên chính độc tài như thế này.”
Phạm Hồng Sơn: Gia
đình, những người thân và bạn bè đồng chí của các ông có phản ứng gì trước
quyết định đó?
Huỳnh Nhật Hải: Lúc đó ba má tôi đều đã qua đời nhưng chúng
tôi tin rằng nếu còn sống ba má tôi cũng ủng hộ việc từ giã ĐCSVN của chúng
tôi. Hai bà xã của chúng tôi ủng hộ hoàn toàn quyết định về nhà tự làm ăn của
chúng tôi.
Phạm Hồng Sơn: Thế
còn hai anh trai, những người đã đi tập kết sau 1954, và những đồng chí thân
quen của hai ông?
Huỳnh Nhật Tấn: Anh trai cả của chúng tôi thì gần như không
có ý kiến gì, còn người anh trai thứ hai thì không đồng ý. Còn những đảng viên
đồng sự khác và các cấp lãnh đạo lúc đó hoàn toàn ngạc nhiên, gần như tất cả
mọi người đều khuyên chúng tôi xem xét lại. Có người lúc đó đã nói với tôi là
nếu về thì cuộc sống sẽ rất khó khăn, nhưng tôi xác định trong lòng là trước
đây khó khăn nguy hiểm như thế mà còn chịu được thì lẽ nào bây giờ lại không.
Phạm Hồng Sơn: Khi
“trằn trọc” để đi đến quyết định cuối cùng, hình ảnh hay tư tưởng của lãnh tụ
Hồ Chí Minh có vấn vương trong “trằn trọc” đó?
Huỳnh Nhật Tấn: Có. Chúng tôi lúc đó cũng thấy cần phải xem
lại cả ông Hồ Chí Minh – lãnh tụ, người sáng lập ra ĐCSVN.
Phạm Hồng Sơn: Các
ông thấy thế nào?
Huỳnh Nhật Hải: Sau khi cùng tìm hiểu, trao đổi, bàn luận
chúng tôi nhận thấy tình trạng mất tự do, phi dân chủ hay có thể nói là cuộc
sống kìm kẹp, đau thương của nhân dân, của giới trí thức sau chiến thắng
30/04/1975 ở miền Nam hoàn toàn là sự lặp lại y nguyên tình trạng ở miền Bắc
sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 – thời kỳ mà ông Hồ Chí Minh vẫn hoàn
toàn ở trên đỉnh cao quyền lực.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi đã từng tự hỏi là mục tiêu sâu xa của
ông Hồ Chí Minh là gì? Với những gì lịch sử đã diễn ra khi ông Hồ Chí Minh còn
sống thì tôi thấy mục tiêu của ông Hồ Chí Minh vì quyền lực là chính, còn mục
tiêu độc lập cho đất nước hay tự do, dân chủ cho dân tộc, cho xã hội Việt Nam
đã bị ông Hồ Chí Minh coi nhẹ. Hai mục tiêu tốt đẹp đó chỉ là những ngọn cờ để
ĐCSVN lôi kéo, tập hợp quần chúng và giới trí thức cho mục đích giành quyền lực
cho ĐCSVN. Thực tế chính quyền dưới thời ông Hồ Chí Minh đã biểu hiện đi ngược
lại hoàn toàn hai mục tiêu tốt đẹp đó, độc lập cho dân tộc và tự do, dân chủ
cho nhân dân.
Phạm Hồng Sơn: Vâng,
về vấn đề tự do, dân chủ cho nhân dân thì đã rõ, nhưng còn về độc lập dân tộc,
xin ông nói rõ thêm?
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói ông Hồ Chí Minh đã đưa đất nước
thoát khỏi sự phụ thuộc, đô hộ của người Pháp nhưng lại để đất nước trở lại sự
phụ thuộc, khống chế và thôn tính của Trung Quốc cộng sản. Nếu không có sự đồng
ý, chủ kiến ngoại giao của ông Hồ Chí Minh thì không thể có tình hữu nghị
Việt-Trung như “môi với răng” và cũng không thể có Công hàm 1958 của ông
Phạm Văn Đồng. Một cách ngắn gọn, có thể nói ông Hồ Chí Minh đã vô tình tạo
điều kiện thuận lợi cho sự xâm lăng, thôn tính của Trung Quốc cộng sản đối với
Việt Nam như chúng ta đang chứng kiến.
Phạm Hồng Sơn: Liệu
có công bằng không khi tình trạng mất độc lập, mất chủ quyền hiện nay qui hết
cho Hồ Chí Minh?
Huỳnh Nhật Tấn: Đúng là tình trạng lâm nguy của đất nước
hiện nay không thể qui hết cho ông Hồ Chí Minh. Nhưng bất kỳ một lãnh tụ, một
nhà sáng lập của một đảng, một tổ chức chính trị nào cũng đều có ảnh hưởng rất
căn bản tới tầm nhìn, hành động của các thế hệ kế tiếp, dù xấu hay tốt. Tôi nhớ
ngay trong văn kiện, khẩu hiệu của ĐCSVN vẫn luôn khẳng định ông Hồ Chí Minh là
người sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, rèn luyện “Đảng ta”, tức là ông Hồ Chí Minh
đã là kiến trúc sư cho mọi chính sách, đường lối của ĐCSVN cũng như thể chế,
cung cách quản lý xã hội của ĐCSVN.
Huỳnh Nhật Hải: Đúng như thế, theo tôi, mặc dù ông Hồ Chí
Minh đã mất rồi nhưng tư tưởng, đường lối chính trị của ông ấy vẫn được tiếp
tục kế thừa trong ĐCSVN. Không phải ngẫu nhiên mà ĐCSVN hiện nay vẫn hô hào học
tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Phạm Hồng Sơn: Nhưng
nhiều người cho rằng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh là rất tốt đẹp, đáng học
theo?
Huỳnh Nhật Hải: Đúng, rất tốt đẹp và đáng học nếu chỉ căn cứ
vào lời nói và khẩu hiệu như ông Hồ Chí Minh đã đề ra. Và đúng là ĐSCVN hiện
nay cũng đang thực hiện đúng như thế, các khẩu hiệu, lời nói, mục tiêu của họ
hiện nay cũng rất hoặc khá tốt đẹp, nhưng hành động và thực tế thì lại hoàn
toàn ngược lại – cũng như ông Hồ Chí Minh.
Huỳnh Nhật Tấn: Nếu chỉ căn cứ vào truyền thống nhân ái của
người Việt Nam thông thường thôi thì cũng thấy đáng lý ra, với cương vị là
người có quyền hành cao nhất, ông Hồ Chí Minh phải ra lịnh không được giết hoặc
hãm hại ân nhân của mình như vụ xử bắn bà Nguyễn Thị Năm và
nhiều người khác trong Cải cách Ruộng đất.
Hoặc những vụ bắt bớ, thanh trừng
các đồng sự, các ân nhân của ĐCSVN sau này mà không qua xét xử thì ông Hồ Chí
Minh không thể không biết là trái đạo lý. Nếu ông Hồ Chí Minh thực sự là người
vì nước vì dân thì sau khi lên nắm quyền, điều đầu tiên ông Hồ Chí Minh phải
làm là phải để nhân dân và giới trí thức có nhiều tự do hơn thời thực dân Pháp
chớ.
Phạm Hồng Sơn: Nếu
được sống lại thời tuổi trẻ một lần nữa, các ông có tiếp tục ủng hộ và đi theo
Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam hay ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Hải: Không, không bao giờ.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi sẽ phải bình tĩnh hơn, tìm hiểu xem họ
có ủng hộ và có tư tưởng dân chủ thực sự không, chứ không thể chỉ căn cứ vào
lời nói và tuyên truyền của họ. Theo tôi, vấn đề dân chủ phải được đặt cao hơn
vấn đề dân tộc vì chỉ có dân chủ mới giúp cho dân tộc được tự do đúng nghĩa và
khi đó đất nước mới có nền độc lập bền vững.
Phạm Hồng Sơn: Ngày
30/04/1975 các ông đang ở đâu và cảm xúc như thế nào?
Huỳnh Nhật Tấn: Lúc đó tôi đang ở Đà Lạt. Tôi đã trở về Đà
Lạt từ ngày 03/04/1975 với tư thế của người chiến thắng.
Huỳnh Nhật Hải: Tôi về Đà Lạt sau ông em tôi một ngày, ngày
04/04/1975. Cảm xúc của tôi là sung sướng vô cùng, nhất là khi gặp lại má tôi –
má đã tưởng tôi hy sinh từ năm 1971 và đã đưa ảnh tôi lên bàn thờ.
Phạm Hồng Sơn: Dịp
30/04 hàng năm vẫn là một trong những ngày lễ lớn của cả đất nước, cảm xúc của
các ông ra sao trong những ngày này?
Huỳnh Nhật Hải: Buồn. Nếu không có cuộc chiến tranh tương
tàn giữa hai miền trước 1975 thì dân tộc này không có cái bất hạnh, đau khổ như
ngày hôm nay.
Huỳnh Nhật Tấn: Buồn. Một ngày quá buồn. Cái chiến thắng
30/04 chỉ đem lại một sự áp bức trên mọi phương diện cho nhân dân, đất nước và
lại nặng nề hơn cả thời Pháp thuộc.
Phạm Hồng Sơn: Nếu
bây giờ vô tình hai ông gặp lại một người là cựu viên chức cũ của chế độ Việt
Nam Cộng Hòa và người đó chính là “kẻ thù” của ông trước 1975, điều trước tiên
hai ông muốn nói là gì?
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái,
nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình
đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để bảo đảm tự do cho
nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp công sức đưa những
người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực tới phá bỏ một
chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ và nhân bản tại
miền Nam Việt Nam.
Huỳnh Nhật Hải: Bây giờ nhìn lại, con đường chúng tôi đã đi
trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó của chúng tôi đã đem
lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.
Phạm Hồng Sơn: Xin
trân trọng cảm ơn ông Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn.
______________________
Chú thích ảnh: Ông Huỳnh Nhật Hải (trái) và
ông Huỳnh Nhật Tấn (phải)
© 2012 pro&contra
[i] “Mì” tức là “sắn” theo tiếng miền Bắc
From: vanlongtran
To:
Subject: Chuyện vui đầu năm :"Cô giảng viên trường ĐHSP thành phô Thái Bình
Date: Wed, 5 Feb 2014 10:43:25 -0500
To:
Subject: Chuyện vui đầu năm :"Cô giảng viên trường ĐHSP thành phô Thái Bình
Date: Wed, 5 Feb 2014 10:43:25 -0500
Chuyện
vui đầu năm
CÔ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÁI BÌNH
Ngày 9.1.2007, trong
mục “Ai
là triệu phú” trên đài Truyền hình VTV3, do MC kỳ cựu
Lại Văn Sâm điều khiển, người được mời lên chiếc “ghế nóng”(Hot
Seat) tham dự chương trình là cô Nguyễn Thị Tâm, 27 tuổi, giảng
viên trường Đại học Sư phạm thành phố Thái Bình.
MC đặt câu hỏi nguyên
văn như sau:
“Trong tứ
trụ của Tự Lực Văn Đoàn: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái
Hưng; ai là người không phải anh em ruột với ba người kia?”.
Cô nữ giảng viên Đại
học Sư Phạm suy nghĩ một lát rồi nói:
- Tự
Lực Văn Đoàn… Hừ, Tự Lực Văn Đoàn, tôi
chưa nghe nói đến bao giờ cả. Hình như đó là một gánh cải lương. Còn Nhất
Linh chắc chắn là một nghệ sĩ cải lương. Riêng Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái
Hưng… tôi không biết ba ông này có phải nghệ sĩ cải lương như
Nhất Linh không?…
- Vậy chị
kết luận ai
không phải anh em ruột với ba người kia?
- Tôi
đề nghị cho tôi được hưởng quyền trợ giúp, gọi điện thoại cho người thân.
- Chị muốn
gọi cho ai ?
- Cho
anh Nam, một bạn đồng nghiệp cũng dạy trong trường. Anh Nam là người đọc rất
nhiều sách, kiến thức rất rộng, chắc chắn anh ấy biết.
MC cho phòng
máy liên lạc với người tên Nam đang chờ sẵn ở nhà để trợ giúp, “cứu bồ” cho
cô Tâm.
- A lô, anh
Nam phải không ạ ? Tôi là Lại Văn Sâm đang ngồi với chị Nguyễn Thị Tâm trong
chương trình “Ai là triệu phú”. Anh
có sẵn lòng trợ giúp chị Tâm một câu hỏi không ạ?
- Vâng,
xin chào anh Lại Văn Sâm. Tôi rất sẵn lòng.
- Nếu vậy
anh và chị Tâm có ba muơi giây để vừa hỏi vừa trả lời. Ba mươi giây của anh
và chị bắt đầu…
Cô Tâm lập lại câu hỏi
như chương trình đã hỏi:
“Trong tứ
trụ của Tự Lực Văn Đoàn…”, “Anh cho em biết Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam,
Khái Hưng, ai không phải là anh em ruột với ba người kia…”
Đầu dây có
tiếng trả lời rất lớn và dứt khoát, nghe rõ mồn một:
- Hoàng
Đạo ! Hoàng Đạo không
phải là anh em ruột với Nhất Linh, Thạch Lam và Khái Hưng.
- Chắc
chắn không anh?
- Chắc
trăm phần trăm.
- Ba mươi
giây của chị đã hết. Xin chị cho biết câu trả lời.
- Tôi
tin vào kiến thức của người bạn đồng nghiệp của tôi. Tôi trả lời, Hoàng Đạo
không phải anh em ruột với ba người kia.
- Chị quyết
định như thế?
- Vâng, câu
trả lời của tôi là phương án B, Hoàng Đạo.
- Sai. Đáp
án của chúng tôi là phương án D, Khái Hưng. Khái Hưng không phải là anh em
ruột với Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam. Hoàng Đạo tên thật là Nguyễn
Tường Long, sinh năm 1906, em ruột nhà văn Nhất linh, anh ruột nhà văn Thạch
Lam. Như vậy phần thưởng của chị từ năm triệu đồng còn lại một triệu đồng.
Nhưng không sao, chúng ta lấy vui làm chính. Xin cám ơn chị đã tham gia
chương trình.
Ứng viên Nguyễn Thị Tâm bị loại khỏi cuộc chơi, nhường chỗ cho người khác.
~~~~~~~~~~~~~
Thưa quý bạn,
Một giảng viên Đại học Sư phạm mà không biết Tự Lực
Văn Đoàn hoặc Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam là ai là một điều
quá đỗi bất thường, điều đó không chỉ làm chúng ta ngạc nhiên mà vô cùng thất
vọng!
Trong bốn tiếng “Tự Lực Văn Đoàn” đã có
hai tiếng “Văn Đoàn” thì đó không thể là một gánh cải lương và Nhất Linh
không thể là một kép hát cải lương được.
Nếu không biết chính xác thì ít ra cô giáo ấy phải biết suy luận
chứ. Đem cái kiến thức như vậy, cô giáo giảng dạy cho sinh viên
rồi sau này sinh viên (ĐHSP) ra trường, lại đi giảng dạy cho học sinh thì
nguy hiểm quá!
Một chương trình phát sóng ra toàn thế giới, có nhiều người Việt đã ra khỏi nước mấy mươi năm mà xem
chương trình này, đều hỡi ơi về kiến thức của một Giảng Viên Đại Học.
Một nền giáo dục với
những giảng viên có kiến thức như vậy, tôi e rằng không phải là một nền giáo
dục tốt.
Tương tự như vậy,
trong trò chơi “Rung Chuông Vàng”, được hỏi Hùng
Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ là ai? Một số thí sinh (là
sinh viên) cũng… không biết. Có quá ngạc nhiên không?
Dù sao tôi cũng rất
cảm ơn VTV3 đã mạnh dạn phát những chương trình như thế, bởi đó không chỉ “vui
là chính” mà còn là cách để dân VN ta biết được
“mặt bằng kiến thức” của người tham gia các chương trình – khi biết mình yếu,
sẽ phải tìm cách để… vươn lên.
Ông Lý Quang Diệu, cựu
thủ tướng Singapore năm nay đã 82 tuổi, mới sang thăm Việt Nam, đã nói: “Ngay
cả về mặt kinh tế, nếu muốn thành công thì trước hết phải có sự đầu tư vào
giáo dục tốt”.
Đoàn Dự
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment