Than huu
SAIGON2016comeback
Kinh chuyen tiep
Vào ngày 11:33 Thứ Bảy, 8 tháng 2 2014, Chuyen Xe Thu <>
đã viết:
Posted
by News on February 2nd, 2014
THÔNG
TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ
Hai, ngày 27/01/2014
(Đài
BBC 17/1)
Một khái niệm mới hay một đường lối mới, được ông
Tập Cận Bình khởi xướng, quảng bá kể từ khi trở thành lãnh đạo Đảng Cộng sản và
Nhà nước Trung Quốc từ hơn một năm nay, là “Giấc
mộng Trung Hoa”.
Cụm
từ này được ông Tập Cận Bình dùng khi trở thành Tổng Bí thư vào tháng 11/2012 và
trong diễn văn đầu tiên trên cương vị Chủ tịch nước vào tháng 3/2013, ông lại
nhấn mạnh nó. Mới đây, trong thông điệp đầu năm (2014), ông cũng đề cập đến “Giấc
mộng Trung Hoa”.
Bằng
việc khởi xướng, quảng bá khái niệm đó, ông Tập Cận Bình muốn Trung Quốc tiến hành
“công cuộc phục hưng vĩ đại” để đưa quốc gia này thành một siêu cường, giàu về
kinh tế và mạnh về quân sự.
Mơ
ước và quyết tâm làm cho đất nước mình giàu mạnh là một điều tốt đẹp, chính đáng
mà bất cứ lãnh đạo hay người dân của một quốc gia nào cũng muốn có và nên làm. Nhưng với những động thái khá hung hăng, ngang ngược của
Trung Quốc gần đây – chẳng hạn như dùng sức mạnh để đòi hỏi, áp đặt chủ quyền
tại Biển Đông và biển Hoa Đông – một câu hỏi được đặt ra là phải chăng quốc gia
này đang ôm ấp giấc mộng bá quyền, bá chủ khu vực?
Cường quốc quân sự
Không
ai có thể phủ nhận những thành công vượt bậc về kinh tế của Trung Quốc trong những
thập niên vừa qua.
Theo
Ngân hàng Thế giới, năm 1980 với chỉ hơn 189 tỷ USD, tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
của Trung Quốc chỉ bằng 17,4% của Nhật Bản (1.087 tỷ USD) và 6,6% GDP của Mỹ
(2.863 tỷ USD. Nhưng 32 năm sau, với khoảng 8.227 tỷ USD, GDP của Trung Quốc đã
vượt qua GDP của Nhật Bản (5.960 tỷ USD) và bằng 50,6% GDP của Mỹ (1.6245 tỷ USD).
Và mới mức tăng trưởng cao hiện nay, giới dự báo cho rằng Trung Quốc sẽ thu ngắn
khoảng cách và thậm chí có thể vựợt qua Mỹ-về GDP trong 15 hay 20 năm tới.
Theo
các số liệu mới nhất, Trung Quốc cũng đã – hoặc ít ra trong thời gian ngắn tới sẽ-soán
ngôi số một của Mỹ về thương mại. Vì vậy, dù GDP
theo đầu người của Trung Quốc vẫn thua xa Mỹ – chẳng hạn, theo Ngân
hàng Thế giới năm 2012, GDP tính theo đầu người của Trung Quốc là 6.091 USD,
trong khi đó ở Mỹ là 51.749 USD – giới lãnh đạo và
người dân nước này có cơ sở để “mơ” về một Trung Quốc giàu mạnh hay tiến hành
một cuộc phục hưng vĩ đại như ông Tập nhấn mạnh trong bài phát biểu
tại Quốc hội nước này vào ngày 17/3/2013.
Nhưng việc ông Tập khởi xướng “một giấc mơ theo
cách của người Trung Quốc” lúc này chắc làm không ít quốc gia khu vực cảm thấy
lo lắng
vì nhờ những phát triển vượt bậc về kinh tế và đặc biệt qua việc quyết tâm hiện
thực hóa “giấc mộng” ấy, ông đang muốn biến Trung Quốc thành “một quốc gia hùng
mạnh” với “một quân đội hùng mạnh”.
Trong
hai bài phát biểu sau khi được bầu làm Tổng Bí thư và Chủ tịch nước ông Tập Cận
Bình đều nhấn mạnh việc hiện đại hóa quân đội. Và kể từ khi lên nắm hai chức vụ
quan trọng, đầy quyền lực ấy, ông đã nhiều lần tới thăm các lực lượng vũ trang và
các cơ sở không quân, hải quân của Trung Quốc và thúc giục họ nâng cao khả năng
chiến đấu để giành chiến thắng. Ước mơ – hay có thể
nói, tham vọng – biến Trung Quốc thành một siêu cường về quân
sự cũng được thể hiện qua việc Bắc Kinh càng ngày
càng gia tăng ngân sách quốc phòng.
Theo
số liệu của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), chi tiêu cho quốc
phòng của Trung Quốc năm 2013 là 166 tỷ USD – lớn hơn GDP của Việt Nam năm 2012,
vì theo Ngân hàng Thế giới, năm 2012, GDP của Việt Nam chỉ có 155 tỷ USD.
Dù vẫn còn thua xa Mỹ, Trung Quốc hiện là quốc gia
có chi tiêu quốc phòng lớn thứ hai trên thế giới. Ngân sách
quốc phồng của Trung Quốc còn lớn hơn nhiều chi phí quốc phòng của Nhật Bản, Ấn
Độ và Hàn Quốc – ba nước Đông Á khác được SIPRI liệt kê vào 15 quốc gia có chi
phí quốc phòng lớn nhất cộng lại.
Sự
kiện Trung Quốc vừa thử thành công tên lửa siêu tốc có gắn đầu đạn hạt nhân và có
khả năng xuyên thủng mọi hệ thống phòng thủ hiện tại được báo chí đưa tin trong
những ngày qua cũng là một ví dụ khác về sự lớn mạnh quân sự của Trung Quốc
cũng như tham vọng trở thành cường quốc quân sự của quốc gia này. Cùng với việc tăng cường và phô trương sức mạnh quân sự,
trong thời gian gần đây Bắc Kinh có những tuyên bố đơn phương và hành động
ngang ngược liên quan đến chủ quyền biển đảo làm các nước khu vực thêm quan
ngại.
Tham vọng bá chủ?
Có
một thuật ngữ mà giới phân tích, học giả thường dùng để diễn tả thái độ, hành động
của Trung Quốc đối với các vấn đề khu vực nói chung và tranh chấp chủ quyền ở
biển Hoa Đông nói riêng trong những năm 1990 là “chiến
thuật tiến ba bước, lùi hai bước”.
Theo chiến thuật đó, Bắc Kinh thường thực hiện một
hành động khiêu khích, lấn chiếm nào đó trên biển Hoa Đông và khi các nước khu
vực lên tiếng chỉ trích, Trung Quốc tỏ ra hòa giải, nhân nhượng, rút lui. Tuy vậy, thay vì rút lui hoàn toàn “ba bước” họ đã tiến, Trung Quốc
chỉ lui lại hai bước.
Giới
lãnh đạo ở Bắc Kinh thực hiện chiến thuật đó một phần vì giai đoạn ấy với chủ trương
“trỗi dậy hòa bình”, họ không muốn cộng đồng quốc tế và đặc biệt các nước trong
vùng quan ngại về sự trỗi dậy của mình. Mặt khác, về kinh tế và đặc biệt quân
sự, Trung Quốc lúc ấy chưa đủ mạnh để “tiến” hay “bành trướng” trên Biển Đông
và biển Hoa Đông như họ muốn.
Nhưng
khi đã vượt qua các nước khu vực về cả kinh tế lẫn quân sự và đang nuôi mộng trở
thành siêu cường, có thể cạnh tranh hay thậm chí vượt qua Mỹ, xem ra Trung Quốc
giờ chỉ biết “tiến” và “tiến” nhiều bước và quyết không “lùi” dù Mỹ và các nước
khu vực lên tiếng chỉ trích những hành động ấy của họ. Cụ thể, trong thời gian gần đây Trung Quốc đã có một loạt
tuyên bố rất khiêu khích và những hành động rất ngang ngược nhằm kiểm soát,
bành trướng trên Biển Đông và biển Hoa Đông. Chẳng hạn, bất chấp công luận, sự chỉ trích của các nước khu vực và luật
pháp, công ước quốc tế, Trung Quốc đã đơn phương đưa ra đường lưỡi bò, áp đặt
vùng nhận dạng phòng không và quy định vùng đánh bắt cá tại các vùng biển thuộc
chủ quyền của các nước khác như Việt Nam, Philippines, Nhật Bản hoặc
khu vực đang tranh chấp tại Biển Đông và biển Hoa Đông.
Qua việc dùng sức mạnh để đòi hỏi, áp đặt chủ
quyền trên các vùng biển ở Đông Á, Trung Quốc đã và đang muốn thay đổi trật tự khu vực và công khai phô bày không chỉ
giấc mộng bá quyền mà còn cả tham vọng bá chủ khu vực của mình. Điều này cũng
chứng tỏ rằng trong “giấc mộng Trung Hoa”, ít hay nhiều có “ước mơ” bá quyền,
bá chủ.
“Ác mộng” khu vực?
Nếu
đúng vậy, “Giấc mộng Trung Hoa” có thể sẽ trở thành
“ác mộng” đối với các nước tại Đông Á.
Lịch
sử xưa và nay cho thấy rằng khi một quốc gia mới nổi có tham vọng bành trướng, muốn
thay đổi trật tự hiện hành và bất chấp mọi luật pháp, nguyên tắc trong quan hệ
quốc tế, đơn phương dùng sức mạnh của mình để thực
hiện ý đồ đó các nước khu vực và có thể cả thế giới rơi vào bất ổn, xung đột,
chiến tranh.
Nước
Đức dưới thời Adolf Hitler là một ví dụ điển hình. Vì tham vọng ngông cuồng, Hitler
đã tiến hành xâm chiếm một loạt nước châu Âu láng giềng và cuối cùng không chỉ
đưa châu lục này vào một cuộc chiến tàn khốc, đẫm máu mà còn dẫn đến Chiến
tranh Thế giới thứ Hai. Nhưng trường hợp của nước Đức dưới thời Hitler cũng chứng minh rằng dù một quốc gia có mạnh đến đâu nếu bất chấp
luật lệ, công ước quốc tế và tiến hành những cuộc bành trướng, xâm lăng phi
pháp, phi nghĩa thì cuối cùng cũng bị đánh bại.
Trái
lại, như trường hợp của chính nước Đức sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai cho thấy,
nếu biết dùng sức mạnh kinh tế của mình một cách
chính đáng, nếu biết coi trọng quyền lợi của các nước giềng, một quốc gia có
thể đóng vai trò lãnh đạo một khu vực, giúp khu vực ấy phát triển, ổn định.
Từ một nước bại trận với một nền kinh tế kiệt quệ
sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, nước Đức
đã trở thành nền kinh tế hàng đầu của châu Âu và trong hơn 60 năm qua,
cùng với Pháp luôn đóng vai trò lãnh đạo trong việc tái thiết đại lục này cũng
như trong tiến trình hội nhập, phát triển của cộng đồng chung châu Âu (EU).
Trong
thông điệp đầu năm, khi nói đến “giấc mộng Trung Hoa”, ông Tập Cận Bình cũng ý thức
được rằng có “hơn 7 tỷ người đang sống trên địa cầu. Chúng
ta cùng đi trong một con thuyền nên cần phải dựa vào nhau để cùng phát triển.
Người Trung Quốc chúng ta cần thực hiện Giấc mộng Trung Hoa, làm khởi sắc dân
tộc Trung Hoa và cũng chúc người dân ở mọi nước biến giấc mơ của họ thành hiện thực”.
“Hung hăng”
Nếu
giới lãnh đạo và người dân Trung Quốc làm theo và làm đúng những gì ông Tập nhìn
nhận, không chỉ Trung Quốc mà cả Đông Á sẽ ổn định, phát triển, hòa bình trong
những thập niên tới. Nhưng với những động thái ngang
ngược, nếu không muốn nói là hung hăng, trắng trợn gần đây của Trung Quốc, xem
ra mọi chuyện không như ông Tập nói vì chưa nói đến việc tôn trọng “giấc mơ”
riêng của các nước khác, Trung Quốc càng ngày càng vi phạm hay cướp đi các
quyền lợi rất căn bản, thiết thực, chính đáng của các nước láng giềng được luật
pháp quốc tế hiện hành công nhận. Hơn nữa, chính những hành động của
Trung Quốc đã và đang góp phần làm căng thẳng quan hệ giữa Bắc Kinh và các nước
khu vực. Và nếu chúng còn được tiếp tục, khu vực
Đông Á sẽ rơi vào đối đầu, xung đột.
Mạng
tin “Sankei Express ” số ra mới đây đã đăng bài bình luận của Viện
trưởng Viện Nghiên cứu Hoà bình và An ninh của Nhật Bản, ông Masashi Nishihara
phân tích về những động thái thách thức liên minh Nhật-Mỹ của Trung Quốc thời
gian gần đây. Nội dung bài viết như sau:
Trong
những năm gần đây, cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, giới phân tích ngày càng
nổi lên quan điểm cho rằng xu hướng suy thoái của kinh tế Mỹ khiến Washington
lâm vào tình trạng suy yếu sức mạnh quốc gia và khủng hoảng về chính sách đối
ngoại. Giới quan sát bắt đầu đi sâu phân tích nhiều hơn đến Mỹ, Nhật Bản và đặc
biệt là Trung Quốc. Có vẻ như thế giới hậu siêu cường Mỹ sẽ là sự phân cực giữa
Mỹ và Trung Quốc.
“Sự suy giảm sức mạnh quốc gia của Mỹ chỉ là nhất thời”
Rõ
ràng, năm 2013 là năm khiến cho giới quan sát nghĩ đến sự suy giảm sức mạnh quốc
gia của Mỹ. Với hàng loạt các sự kiện như nguy cơ vỡ nợ và việc đóng cửa một
phần Chính phủ Liên bang do biện pháp cắt giảm chi tiêu, Tổng thống Mỹ Barack
Obama đã vắng mặt trong hai hội nghị quốc tế quan trọng diễn ra ở Đông Nam Á
hồi tháng 10/2013, khiến Washington “tạm thời” đánh mất sự hiện diện của Mỹ ở
Đông Á.
Học
thuyết về sự suy giảm sức mạnh quốc gia sau khủng hoảng kinh tế cũng trở nên thịnh
hành ở Mỹ. Quốc gia nào cũng sẽ phải trải qua sự giao thời giữa giai đoạn suy
thoái sau khủng hoảng và thời kỳ phát triển kinh tế cực thịnh. Trong giai đoạn
sau suy thoái, chính phủ sẽ phải áp dụng chế độ thắt lưng buộc bụng, hạn chế
chi tiêu quốc phòng và can thiệp quân sự.
Nước
Mỹ hiện nay đang ở trong tình cảnh như vậy. Trong vòng 10 năm qua, Mỹ đã cắt
giảm 490 tỷ USD ngân sách quốc phòng.
Thực tế là kinh tế Mỹ đang phục hồi và tỷ lệ thất nghiệp cũng giảm. Nếu việc
xuất khẩu khí đốt từ đá phiến bắt đầu thì Mỹ sẽ xác lập được vị trí rất thuận
lợi về kinh tế và chính trị thế giới. Nếu được giải phóng khỏi sự phụ thuộc vào
nguồn dầu mỏ nhập khẩu, Washington sẽ rảnh tay can dự vào tình hình Trung Đông.
Chính quyền Obama không muốn can thiệp quân sự mà việc này chỉ thể hiện khuynh
hướng thoái trào của nước Mỹ.
Tuy
nhiên, khi tham gia luận thuyết về sự thoái trào của Mỹ, Trung Quốc sẽ nâng cao chủ nghĩa dân tộc. Đây là một xu thế
nguy hiểm.
Trong
cuộc hội đàm với Tổng thống Obama mùa Hè năm 2013, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình
đã đưa ra khái niệm “mối quan hệ nước lớn kiểu mới”, khẳng định “Thái Bình Dương còn đủ chỗ cho hai cường quốc Mỹ-Trung cùng
tồn tại” nhằm thuyết phục Nhà Trắng rằng cả Washington và Bắc Kinh có thể chia
nhau thống trị hai bờ Đông-Tây Thái Bình Dương. Lý thuyết về sự Suy
giảm sức mạnh của Mỹ phản ánh thái độ “quá tự tin”
của Bắc Kinh muốn loại bỏ Mỹ khỏi Đông Á và Tây Thái Bình Dương, tiến gần đến
một cuộc đối đầu Mỹ-Trung.
“Chiến lược hất cẳng Mỹ khỏi khu vực”
Chiến
lược hất cẳng Mỹ này có thể đã xuất hiện ngay từ khi Trung Quốc thành lập nhà nước.
Trung Quốc đã tăng cường sức ảnh hưởng đối với những nơi mà Mỹ ít hiện diện hoặc không hiện diện, hay còn gọi là khoảng
trống quyền lực, tại khu vực Đông Á và Tây Thái Bình Dương. Năm
1992, khi Mỹ rứt khỏi căn cứ hải quân của Philippines, để lại một khoảng trống
sức mạnh ở Biển Đông, Trung Quốc bắt đầu chiếm các bãi đá trên quần đảo Trường
Sa. Rõ ràng, Trung Quốc đã nhìn thấy cơ hội này và quyết tâm vươn ra quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Mới đây, Trung Quốc đã chiếm bãi cạn Scarborough từ tay
Philippines.
Việc
Bắc Kinh bắt đầu mưu toan coi Okinawa thuộc chủ quyền của Trung Quốc cùng với tuyên
bố chủ quyền đối với Senkaku có lẽ là do Trung Quốc đã nhìn thấy một “khoảng
trống quyền lực” từ khó khăn kinh tế kéo dài của Nhật Bản. Đằng sau hàng loạt
những động thái như đưa tàu công vụ, chiến hạm, máy bay chiến đấu và máy bay
không người lái vào vùng biển xung quanh Senkaku để uy hiếp và thiết lập vùng
nhận dạng phòng không dường như là sự tồn tại của luồng quan điểm về sức mạnh
vượt trội của Trung Quốc so với Nhật Bản.
Trong
bối cảnh có những biến động về an ninh như hiện nay, vai trò của Nhật Bản trước
tiên là không thể và không để tạo ra “khoảng trống quyền lực” có lợi cho Trung Quốc
ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Do đó, Tổng quan chiến lược quốc phòng từ năm
2014 và Chiến lược an ninh quốc gia công bố vào tháng 12/2013 của Nhật Bản sẽ là chiến lược kiềm chế Trung Quốc.
“Cần tránh tạo ra một ‘khoảng
trống quyền lực’”
Hiện
tại, “khoảng trống quyền lực” đầu tiên có nguy cơ
xuất hiện trong khu vực sẽ nằm dọc theo phòng tuyến chuỗi đảo thứ nhất gồm Bán
đảo Triều Tiên, Senkaku, quần đảo Nansei, Đài Loan và Biển Đông.
Quan
hệ Mỹ-Hàn gặp trục trặc nên khó xác định được việc đồng minh Mỹ-Hàn sẽ hoạt động
trơn tru hay không một khi xảy ra biến cố. Cần phải tiếp tục xây dựng cơ chế
phòng vệ chung Nhật-Mỹ liên quan đến khả năng phòng ngự của quần đảo Senkaku và
tiếp đến là quần đảo Nansei. Nhật Bản cần nhanh chóng lấp đầy “khoảng trống
quyền lực” ở đây để tránh tình trạng thiếu sự thống nhất trong nhiệm vụ của Lực
lượng bảo vệ bờ biển và Lực lượng phòng vệ. Quyết định di chuyển căn cứ Futenma
của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ về Henoko là nhằm duy trì căn cứ hải quân ở
Okinawa và tăng cường liên minh Nhật-Mỹ tăng khả năng ngăn chặn Trung Quốc.
Đài Loan dưới Chính quyền Tổng thống Mã Anh Cửu
tiếp tục tăng cường liên kết về kinh tế với Trung Quốc đại lục. Xu hướng này có
thể sẽ làm suy yếu quan hệ Mỹ-Đài. Có nhiều khả năng Trung Quốc sẽ
tương kế tựu kế để chia rẽ quan hệ Mỹ-Đài đồng thời gia tăng áp lực đối với Đài
Loan liên quan đến việc mua sắm vũ khí của Mỹ.
Trung Quốc đang phong tỏa toàn bộ vùng biển bao
gồm cả các quần đảo trên Biển Đông bằng đường chín đoạn, hay còn gọi là đường
lưỡi bò, theo đó Bắc Kinh tuyên bố về vùng đặc quyền kinh tế không có lãnh hải. Có một
điều đáng tiếc là các nước ở ven đường lưỡi bò đều là những nước nhỏ không đủ
khả năng đương đầu trước sức mạnh kinh tế và quân sự của Trung Quốc. Địa bàn này đang xuất hiện một “khoảng trống quyền lực” khổng
lồ. Trung Quốc đang mưu toan kế sách cô lập Philippines và chia rẽ
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Trung Quốc có vẻ đang muốn xây dựng một thế giới
lưỡng cực dựa trên chiến lược Chống tiếp cận/ngăn chặn xâm nhập khu vực (A2/AD)
nhằm lấp đầy “khoảng trống quyền lực” và hất cẳng Mỹ khỏi khu vực Đông Á và Tây
Thái Bình Dương. Cho dù kết quả như thế nào, Nhật Bản sẽ phải đối kháng với
Mỹ. Trong bối cảnh Mỹ đang rơi vào thời kỳ hậu suy thoái, dẫu điều này chỉ là
nhất thời, thì Nhật Bản cần thực hiện vai trò bổ trợ kịp thời vào lúc này. Và
nếu Nhật Bản vẫn cần thực thi quyền phòng vệ tập thể thì Tokyo sẽ có đóng góp
đáng kể cho an ninh khu vực.
Trước tham vọng hết sức nguy hiểm của Trung Quốc, việc xác lập vị thế vượt trội của Nhật Bản và Mỹ như một
đối trọng nhằm tạo cảm giác về sự hiện diện của Mỹ trong khu vực có ý nghĩa
sống còn đối với hoà bình và an ninh ở Đông Á./.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment