Thông báo về việc kỷ niệm Ngày Biên Giới Việt
Nam 17/2
Kính thưa đồng bào!
Cách đây đúng 35 năm, ngày 17/2/1979, Trung Quốc
đã nổ súng tấn công trên toàn tuyến biên giới phía bắc, giết hại, làm bị thương
hơn 60,000 binh lính và dân thường Việt Nam.
Cuộc chiến này nằm trong một âm mưu thôn tính
nước ta, từ việc xâm chiếm Hoàng Sa trước đó tới xâm chiếm đảo Gạc Ma - Trường
Sa sau này, rồi tuyên bố về đường lưỡi bò phi lý trên Biển Đông hiện nay.
Mặt khác, Trung Quốc không ngừng xâm lấn về kinh
tế, văn hóa, lũng đoạn xã hội, muốn chúng ta mất cảnh giác, quên đi dã tâm của
họ để từng bước đưa Việt Nam vào vòng nô lệ, phụ thuộc. Kết quả là truyền thông
chính thống hầu như không đăng tin, nhiều người dân Việt Nam lãng quên và những
liệt sĩ, thương binh cùng gia đình của họ chưa được tưởng niệm, tôn vinh một
cách xứng đáng.
Lịch sử cần phải được tôn trọng, những người con
đã hi sinh vì Tổ quốc cần phải được tôn vinh và nhân dân cần phải được thức
tỉnh trước âm mưu bành trướng, bá quyền của Trung Quốc!
Thưa đồng bào!
Việt Nam có nhiều ngày kỷ niệm. Chúng ta có ngày
nhà giáo, ngày thầy thuốc, ngày giải phóng, ngày quân đội, ngày công an...
nhưng chưa có một ngày nhắc nhở chúng ta về chủ quyền, về lãnh thổ đang bị gặm
nhấm một cách từ từ nhưng đầy nguy hiểm.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị lấy ngày 17/2 là Ngày
Biên Giới Việt Nam. Chúng tôi kêu gọi mọi người hãy cùng tham gia lễ kỷ niệm
Ngày Biên Giới Việt Nam để tưởng nhớ và tôn vinh những người con đã ngã xuống
để bảo vệ mảnh đất quê hương trước quân Trung Quốc xâm lược!
Thời gian: Sáng Chủ Nhật, từ 9h00 - ngày 16/02/2014
Địa điểm: Tại tượng đài Lý Thái Tổ - Hồ Gươm - Hà Nội
Đề nghị UBND thành phố Hà Nội cùng các lực lượng
chức năng đảm bảo an toàn cho buổi lễ, không tổ chức lễ hội, hát hò, vui chơi
thể thao và THI CÔNG trong khu vực quanh Hồ Gươm; không cản trở, gây khó dễ cho
những người tham gia lễ kỷ niệm này.
Anh em No-U Hà Nội
Trân trọng kính báo!
Lời kêu gọi nhân kỷ niệm 35 năm đánh tan cuộc
chiến tranh xâm lược của Trung Quốc trên biên giới phía bắc nước ta 17.2.1979
- Chính thức tổ chức lễ tưởng niệm cuộc chiến
tranh chống Trung Quốc xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc ngày
17.2.1979.
- Phải trả lại vị trí xứng đáng cho những anh
hùng, liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới chống Trung Quốc xâm
lược.
- Chính thức đưa ngày 17.2 hàng năm là ngày kỷ
niệm cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc như cách ông cha ta đã
từng làm với Giỗ Trận Đống Đa kỷ niệm chiến thắng đánh tan 20 vạn quân xâm lược
nhà Thanh thế kỷ XVIII.
*
Ngày này cách đây 35 năm, hơn 60 vạn quân xâm
lược Trung Quốc bất ngờ tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta,
tàn sát dân ta cực kỳ dã man theo cách bao đời ông cha chúng từng làm. Chúng
đốt sạch, giết sạch. Các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn và một số
thị trấn khác bị san phẳng. Tội ác của chúng quả là "trúc rừng không ghi
hết tội, nước biển không rửa sạch mùi" như Nguyễn Trãi đã phẫn nộ lên án
quân xâm lược nhà Minh phương Bắc cách đây hơn năm thế kỷ.
Bọn xâm lược không lường được rằng, tuy bị bất
ngờ, nhưng với truyền thống quật cường, quả cảm, quân dân ta trên 6 tỉnh biên
giới đã giáng trả bọn cướp nước những đòn trí mạng.
Bằng một cuộc chiến tranh quy mô lớn nhất của
Trung Quốc kể từ cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950, điều động 9 quân đoàn chủ
lực và 3 sư đoàn độc lập với hàng trăm xe tăng, hàng nghìn pháo, súng cối, dàn
hỏa tiễn cùng với sự yểm trợ của hạm đội Nam Hải và không quân sẵn sàng ứng
phó, chúng đã thảm bại! Ngày 18 tháng ba năm 1979 Đặng Tiểu Bình phải tuyên bố rút
quân. Tuy vậy, chúng vẫn chốt lại tại một số điểm trên biên giới, tiếp tục các
cuộc bắn phá tranh giành biên giới. Xung đột kéo dài, ác liệt nhất trong các
năm 1984-1985, điển hình là các cuộc chiến xảy ra tại Núi Đất thuộc xã Thanh
Thủy, huyện Vị Xuyên, Hà Giang, cho đến gần hết năm 1988 mới chấm dứt. Không
phải chúng ta, mà là một nhà văn Trung Quốc đã viết: "Đem quân gây chiến,
đánh phá nước láng giềng mà không có tuyên bố là một điều sỉ nhục, hèn
hạ".
Nhưng, cũng sẽ là hèn hạ không kém nếu không dám
công khai và quyết liệt vạch trần tội ác xâm lược của kẻ thù, càng phi đạo lý
hơn nữa khi thỏa hiệp với luận điệu xảo trá về cái gọi là "giữ gìn đại
cục", chui đầu vào thòng lọng của mười sáu chữ lừa bịp để tự trói tay,
trói chân mình, quay lại đàn áp nhân dân mình biểu tỏ lòng yêu nước, lên án
giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc.
Trong khi nhà cầm quyền nín nhịn không cho phép
công bố sự thật về cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu và dã man này thì bộ máy
truyền thông Trung Quốc, từ thông tấn báo chí đến văn học nghệ thuật suốt 35
năm nay đã ra rả gieo vào đầu thế hệ trẻ nước họ và dân chúng họ "về cuộc
đánh trả tự vệ". Nhiều nguồn tin cho rằng có tới trên 90% người dân Trung
Quốc vẫn hiểu rằng năm 1979 bộ đội Việt Nam đã vượt biên giới sang tấn công,
bắt buộc quân đội họ phải tự vệ! Và, cũng do sự "nín nhịn" vì
"đại cuộc" tệ hại này mà phần lớn học sinh tiểu học, trung học và
thậm chí đa số trong hơn 1,4 triệu sinh viên nước ta hầu như không biết về cuộc
chiến tranh xâm lược đẫm máu này!
Máu người đâu phải là nước lã! Máu của chiến sĩ
và đồng bào ta đã thấm đẫm biên cương phía bắc nước ta mười mấy năm trời. Ai sẽ
phải gánh chịu trước lịch sử sự câm lặng về những người đã ngã xuống trong cuộc
chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc cách đây 35 năm? Ai? Ai? Chẳng lẽ
không ai cả sao? Có cái thứ ngoại giao "khôn ngoan" cỡ gì khi quyết
bịt miệng dân bày tỏ lòng yêu nước, chí căm thù quân cướp nước, để cố giữ hòa
khí giữa hai nhà nước cùng chung ý thức hệ? Hay là người ta đang cố gắng đi
tìm "kế sách Câu Tiễn" thế kỷ XXI? Vậy thì hãy để ai đó là "Câu
Tiễn thế kỷ XXI" chịu nhục, chứ chớ dại dột bắt cả dân tộc này phải chịu
nhục cùng với những Lê Chiêu Thống mới. Lịch sử đã từng ghi nhận những tấn bi
kịch của những nhà cầm quyền quay lưng lại với ý chí và nguyện vọng của dân để
dựa dẫm vào ngoại bang nhằm giữ cái ngai vàng mục ruỗng, ngày nay là cái ghế
quyền lực, đặt nó lên trên tổ quốc, phản bội lại truyền thống dân tộc.
Ấy vậy mà dân tộc thì mãi mãi trường tồn! Chỉ có
những triều đại, những chính thể yếu hèn, và do yếu hèn nhưng lại cố bám víu
lấy quyền lực để vun vén cho lợi ích của vương triều hoặc của phe nhóm nên đã
lúng túng, bế tắc, xa rời con đường quang minh chính đại của dân tộc, thì sớm
muộn cũng phải tự cáo chung.
Chính vì vậy, nhân 35 năm cuộc chiến tranh biên
giới, chúng tôi, những người đang ưu tư về vận nước, những người đã từng ký
vào Tuyên bố lên án Trung Quốc xâm lược, Tuyên bố về thực thi Quyền dân sự và
Chính trị, Tuyên bố về Hiến pháp sửa đổi 2013, Lời kêu gọi thực thi quyền con
người theo Hiến pháp... công bố LỜI KÊU GỌI với nội dung như sau:
1. Chính thức tổ chức lễ tưởng niệm cuộc chiến tranh chống
Trung Quốc xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc ngày 17.2.1979.
Có nhiều hình thức tưởng niệm.
Trước hết, đề nghị Nhà nước tổ chức trên quy mô
cả nước và các địa phương. Cũng có thể do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể các cấp từ trung ương tới địa phương tổ chức để đông đảo các tầng lớp nhân
dân tham gia.
Từng cộng đồng dân cư, các nhóm hội đoàn và các
cá nhân dưới các hình thức hoạt động xã hội dân sự tổ chức nhiều hình thức
tưởng niệm phong phú và đa dạng tùy theo sáng kiến và hoàn cảnh riêng như: dâng
hương, đặt vòng hoa tưởng niệm những người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh biên
giới, chống quân xâm lược, bảo vệ đất nước, quê hương.
Vòng hoa tưởng niệm của cá nhân công dân yêu
nước, của một nhóm người, một cộng đồng người tri ân người đã ngã xuống đặt tại
nơi công cộng để đánh thức lương tri của toàn xã hội nâng cao lòng yêu nước,
quyết tâm chống xâm lược, bảo vệ chủ quyền biển đảo, Hoàng Sa, Trường Sa.
Mỗi cá nhân, mỗi gia đình có thể tổ chức tưởng
niệm tại nhà riêng của mình theo hoàn cảnh và sáng kiến như trước đây chúng ta
đã làm: thắp một nén nhang trên bàn thờ với khẩu hiệu: Đời đời nhớ
ơn chiến sĩ và đồng bào đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc
xâm lược trên biên giới phía Bắc 17.2.1979. Khẩu hiệu này có thể dán
trước cổng nhà, trước cửa ra vào nhà, trước bàn làm việc, đeo trên mũ, trước
ngực khi đi ra đường trong một tuần kể từ ngày 17.2.2014.
2. Phải trả lại vị trí xứng đáng cho những anh
hùng, liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới chống Trung Quốc xâm
lược.
Cần có chủ trương công khai và cụ thể trong việc
tổ chức biên soạn và đưa vào sách giáo khoa các cấp về cuộc chiến tranh chống
Trung Quốc xâm lược tại biên giới phía Bắc gắn với cuộc chiến tranh biên giới
phía Tây Nam và cuộc chiến đấu chống xâm lược tại Hoàng Sa, Trường Sa (nhất là
cuộc chiến đấu tại Gạc Ma) để thấy rõ thêm bộ mặt của chủ nghĩa bành trướng Đại
Hán, nâng cao tinh thần cảnh giác và ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia trên
tất cả các mặt. Khẳng định rõ hành động bành trướng của giới cầm quyền Trung
Quốc không những gây tội ác và hiểm họa cho đất nước ta và nhiều nước trong khu
vực mà còn đi ngược và làm tổn hại tinh thần láng giềng hữu nghị của nhân dân
Trung Quốc mà nhân dân ta luôn tôn trọng và cùng vun đắp vì lợi ích của hai dân
tộc, vì hòa bình, phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Rà soát lại chính sách và chế độ đối với những
chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh mà lâu nay vì những thiếu sót và sai lầm đã bỏ
quên nhiều đối tượng, gây nên những bất công xã hội và bất bình trong nhân dân.
3. Chính thức đưa ngày 17.2 hàng năm là ngày kỷ
niệm cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc như cách ông cha ta đã
từng làm với Giỗ Trận Đống Đa kỷ niệm chiến thắng đánh tan 20 vạn quân xâm lược
nhà Thanh thế kỷ XVIII.
CHIẾN SĨ VÀ ĐỒNG BÀO ĐÃ NGÃ XUỐNG TRONG CUỘC
CHIẾN ĐẤU CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC TRUNG QUỐC SỐNG MÃI TRONG KHÍ THIÊNG SÔNG NÚI CỦA
TỔ QUỐC, TRONG ANH LINH TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC, TRONG TRÁI TIM CỦA MỖI NGƯỜI VIỆT
NAM
TP Hồ Chí Minh, ngày 12.2.2014
ĐỒNG KÝ TÊN:
1. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, nguyên Chủ tịch Tổng
hội Sinh viên Sài Gòn (trước 1975), Đại biểu Quốc hội khóa 6, Ủy viên Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP HCM.
2. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực
Thành đoàn Thanh niên Cộng sản TP HCM, nguyên Giám đốc Trung tâm xúc tiến
thương mại và đầu tư (ITPC), TP HCM
3. Trần Quốc Thuận, luật sư, nguyên Phó Chủ
nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội
4. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP
HCM
5. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí
thức Yêu nước TP HCM
6. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên Phó Bí thư
Đảng ủy Sở Văn hóa Thông tin TP HCM
7. Giang Thị Hồng (bà quả phụ Lê Hiếu Đằng), cán
bộ hưu trí, TP HCM
8. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng Biên tập báo
Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
9. Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
10. Hạ Đình Nguyên, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành
động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (trước 1975), cựu tù chính trị Côn Đảo,
TP HCM
11. Bùi Tiến An, cựu tù chính trị Côn Đảo,
nguyên cán bộ Ban Dân vận Thành Ủy TP HCM
12. Tống Văn Công, nhà báo, nguyên Tổng Biên tập
báo Lao Động, TP HCM
13. Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội
học Việt Nam, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên
thành viên Viện IDS, TP HCM
14. Đào Công Tiến, PGS, nguyên Hiệu trưởng
Trường Đại học Kinh tế TP HCM, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng
Phan Văn Khải, TP HCM
15. Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên văn
hóa, TP HCM
16. André Menras Hồ Cương Quyết, cựu tù chính
trị chế độ cũ, Cộng hòa Pháp
17. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM
18. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, TP HCM
19. Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ, cựu binh cuộc chiến
17/2, số hiệu quân nhân 79476979, TP HCM
20. Nguyễn Trí Nghiệp, giám đốc công ty Nông
Trang Island, Vĩnh Long
21. Nguyễn Văn An, cán bộ hưu trí, TP HCM
22. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận
Vinh
23. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
24. GB. Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài
Gòn
25. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
26. JM. Lê Quốc Thăng, linh mục Giáo phận Sài
Gòn
27. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, TP HCM
28. Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, giảng viên, TP HCM
29. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
30. Bùi An, TP HCM
31. Huỳnh Thị Ngọc Tuyết, hưu trí, TP HCM
32. Hà Dương Dực, cựu giáo sư trường Võ bị Quốc
gia Đà Lạt và cựu giáo sư Vạn Hạnh Sài Gòn, MBA Mỹ 1970
33. Trần Minh Quốc, tác giả bài thơ “Biển gọi”,
TP HCM
34. Trần Hữu Kham, thương binh mù, cựu tù chính
trị Côn Đảo, TP HCM
35. Trần Hữu Khánh, hưu trí, TP HCM
36. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên
Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới – Saigontourist
37. Huỳnh Thục Vy, Quảng Nam
38. Hoàng Cao, người Việt tỵ nạn
39. Đặng Nguyệt Ánh, TS, cán bộ hưu trí
40. Phạm Văn Đỉnh, TSKH, nguyên Giảng viên Đại
học Pau (UPPA), Cộng hòa Pháp
41. Phạm Thu Hà, nội trợ, TP HCM
42. Nguyễn Lương Thúy Kim, TP HCM
43. Ngô Kim Hoa, nhà báo tự do, TP HCM
44. Trần Thế Việt, nguyên Bí thư thành ủy Đà
Lạt, Lâm Đồng
45. Hồ Hiếu, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên
cán bộ Phong trào đấu tranh của nhân dân, sinh viên, học sinh tranh thủ dân chủ
TP Đà Lạt, nguyên Chánh văn phòng Quận ủy quận 1, nguyên Chánh văn phòng Ban
Dân vận Thành ủy TP HCM
46. Phan Văn Thuận, doanh nhân, TP HCM
47. Nguyễn Mai Oanh, nghiên cứu viên nông nghiệp
nông thôn, TP HCM
48. Nguyễn Văn Lê, nguyên Chánh văn phòng Ban
Dân vận Thành ủy TP HCM
49. Lê Thanh Văn, nguyên Phó Ban Dân vận thành
ủy TP HCM
50. Trần Văn Nhiệm, nguyên Phó Giám đốc Sở Lao
động, Thương binh và Xã hội TP HCM
51. Nguyễn Lê Thu An, nhà báo, TP HCM
52. Nguyễn Lê Thu Mỹ, nguyên chiến sĩ biệt động
Sài Gòn, TP HCM
53. Trần Văn Mỹ, giảng viên Đại học Sài Gòn, đã
nghỉ hưu, TP HCM
54. Hoàng Thị Lệ, cán bộ hưu trí, TP HCM
55. Lê Văn Tâm, TS Hóa, Ủy viên UBTƯMTTQVN,
nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam ở Nhật
56. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM
57. Trần Khuê, nhà nghiên cứu văn hóa, TP HCM
58. Hoàng Lại Giang, nhà văn, TP HCM
59. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban nghiên
cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
60. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và
Công nghệ, nguyên thành viên Viện IDS, Giám đốc Nhà xuất bản Tri Thức, Hà Nội
61. Nguyễn Quang Lập, nhà văn, TP HCM
62. Trần Tố Nga, nhà giáo về hưu, Huân chương
Bắc Đẩu Bội Tinh của Pháp, hiện sống ở Paris
63. Nguyễn Thị Ngọc Toản, Đại tá, GS, bác sĩ,
cựu chiến binh, Hà Nội
64. Nguyễn Thị Ngọc Trai, nhà văn, nguyên Phó
Tổng Biên tập báo Văn Nghệ, Hội Nhà Văn Việt Nam, Hà Nội
65. Phạm Xuân Phương, Đại tá, cựu chiến binh,
nguyên phái viên của Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội
66. Lê Thăng Long, nhà nghiên cứu kinh tế -
chính trị - xã hội, TP HCM
67. Nguyễn Huệ Chi, giáo sư, nguyên Chủ tịch Hội
đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội
68. Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
69. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Đại học Bách khoa,
Đà Nẵng, Phó Tổng thư ký Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam
70. Nguyễn Trung, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính
phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
71. Hoàng Hưng, nhà thơ, dịch giả, TP HCM
72. Trần Công Thạch, cán bộ hưu trí, TP HCM
73. Phan Thị Hoàng Oanh, TS, TP HCM
74. Nhà báo Lưu Trọng Văn
CSVN đã hết đường nói dối ( lừa bịp )
Phạm Trần (Danlambao) - Tấm màn đen che giấu Quyền Con Người bị
hạn chế và hành hạ ở Việt Nam đã bị Thế giới vén lên tại “cơ chế kiểm định kỳ
phổ quát” (UPR, The Universal Periodic Review) Chu kỳ II của của
Liên Hiệp Quốc họp tại Geneve, Thụy Sỹ từ ngày 05 đến 07 tháng 02 năm
2014.
Phần lớn phát biểu của 106 Quốc gia và 227
khuyến nghị của Hội đồng Nhân quyền tập trung vào yêu cầu Chính phủ Việt Nam
quan tâm đến các quyền tự do căn bản của con người gồm: Tự do tư tưởng, Tự do
ngôn luận, Tự do báo chí, Tự do hội họp, Tự do lập hội và Tự do Tôn giáo.
Bình đẳng giới, quyền của Phụ nữ, quyền của Trẻ
em, chống buôn người, quyền được bào chữa, chống khủng bố các Luật sư nhân
quyền, chống bắt người tùy tiện, chống đe dọa và bắt giữ những người muốn diễn
đạt tư tưởng ôn hòa, quyền chủ hữu đất đai của dân phải được bảo vệ, chống
cưỡng chế nông dân v.v... cũng đã được ghi trong 227 khuyến nghị.
Các nước cũng khuyến cáo Nhà nước Việt Nam cần
tôn trọng tự do hoạt động Internet của người dân.
Điển hình như Hòa Lan (Netherlands) yêu cầu Việt
Nam cho phép những Nhà truyền thông xã hội (bloggers), ký giả, những người sử
dụng Internet khác và các Tổ chức phi chính phủ được cổ xúy và bảo vệ quyền con
người, đặc biệt cần có bảo đảm những Luật lệ liên quan đến Internet phải tôn
trọng quyền tự do tư tưởng và thông tin.
(Netherland: Allow bloggers,
journalists, other internet users and NGOs to promote and protect human rights
specifically by ensuring that laws concerning the Internet comply with the
freedom of expression and information.)
Thụy Điển chỉ trích việc Việt Nam có thêm những
điều lệ gia tăng kiểm soát Internet and bắt bớ bừa bãi những người muốn được tự
do phát biểu.
(Sweden: noted an increase in
regulations to control internet, and arrests of persons for exercising their
right to freedom of expression.)
Nhật Bản đã đề nghị Việt Nam hãy thi hành những
biện pháp để “bảo đảm quyền tự do tư tưởng, quyền tự do, độc lập của báo chí và
Internet.
(Japan: Actively promote steps to
guarantee freedom of expression, as well as the freedom and independence of the
press, including on the internet.)
Nước Ý thì yêu cầu Việt Nam thi hành những biện
pháp để cổ võ tự do tư tưởng, lập hội và tự do báo chí phù hợp với những tiêu
chuẩn hiện đại của cộng đồng Quốc tế.
(Italy: Further implement
measures aimed at promoting freedom of expression and association and freedom
of the media in line with the most advanced international standards.)
Đại biểu nước Bỉ (Belgium) nói bất cứ Luật nào
nhằm kiểm soát Internet phải tuân thủ những cam kết quốc tế về nhân quyền của
Việt Nam vì Việt Nam là thành viên của Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và
Chính trị (ICCPR, International Covenant on Civil and Political Rights).
(Belgium: Ensure that any law
governing the internet is in compliance with Viet Nam’s international human
rights obligations as a State party to the ICCPR (International Covenant on Civil and Political Rights).
Đại biểu của các nước cựu Cộng sản ở Đông Âu như
Lithuania, Ba Lan (Poland) và Slovakia ghi nhận Việt Nam đã có những nỗ lực
tuân thủ những cam kết quốc tế và đã có Luật về các quyền kinh tế và xã hội,
nhưng họ vẫn bày tỏ sự quan ngại về các quyền tự do tư tưởng, hội họp ôn hòa,
lập hội mà Việt Nam đã cam kết, tự do tôn giáo-tín ngưỡng, tình trạng của những
người dân Việt Nam muốn bảo vệ quyền con người và quyền của các nhóm thiếu số.
Slovania muốn Việt Nam có những luật lệ và cơ chế quy định những biện pháp bảo
đảm quyền phát biểu và hội họp theo đúng các tiêu chuẩn Quốc tế.
(Lithuania: Take all necessary
actions to respect and promote the right to freedom of expression, peaceful
assembly and association in line with its international human rights
obligations.
Poland: Commended ongoing efforts to comply with international
obligations. It remained concerned about the situation of human rights
defenders, religious and ethnic minorities.
Slovakia: Commended cooperation with special procedures and
adoption of legislation on socio-economic rights. It invited the Government to
take legislative and institutional measures to ensure that freedom of
expression and assembly are in line with international standards.)
Riêng Hung Gia Lợi, ghi nhận Việt Nam đã có tiến
bộ về giáo dục quyền con người, nhưng lo ngại về những biện pháp chế tài hạn
chế các quyền tự do tư tưởng, truy tố các nhà văn, ký giả, các nhà truyền thông
xã hội và những người bảo vệ nhân quyền.
(Hungary: noted improvements in
human rights education. It was concerned about recent legislation restricting
freedom of expression and prosecuting writers, journalists, bloggers and human
rights defenders.)
ÂU-MỸ MUỐN GÌ?
Nước Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan khuyến khích Việt Nam
hãy bảo đảm mọi công dân được tự do tư tưởng và hội họp không bị làm khó dễ hay
bị bỏ tù.
(The United Kingdom of Great Britain and
Northern Ireland: encouraged Viet Nam to ensure that all citizens
have the right to freedom of expression and assembly without fear of harassment
or imprisonment.)
Ái Nhĩ Lan cũng rất quan ngại về những trường
hợp bị đàn áp, bị bắt tù những người đấu tranh bảo vệ nhân quyền, sự vắng mặt
của nền báo chí độc lập và sự kiện nhà nước đã gia tăng theo dõi những nhà cung
cấp dịch vụ Internet.
(Ireland: was gravely concerned
about reported harassment and imprisonment of human rights defenders, and noted
the lack of an independent media and reports of increasing surveillance by
State-owned Internet providers.)
Hoa Kỳ thì bày tỏ hài lòng về những tiến bộ
trong việc bảo vệ quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới (LGBT,
lesbian, gay, bisexual, and transgender). Tuy nhiên Đại diện của Mỹ cũng quan
ngại về những hạn chế quyên tự do tôn giáo-tín ngưỡng, quyền thành lập các
nghiệp đoàn độc lập và sách nhiễu các Tôn giáo không đăng ký với nhà nước.
(The United States of America welcomed
progress on protecting the rights of LGBT persons. It expressed concern about
restrictions on freedom of religion and formation of independent trade unions,
and about harassment of unregistered churches.)
Sau khi các cuộc họp ở Geneve kết thúc, Sứ quán
Mỹ ở Hà Nội phổ biến toàn văn bản tiếng Việt lời tuyên bố chi tiết hơn của ông
Peter Mulrean, Đại diện lâm thời Phái bộ Hoa Kỳ tại kỳ họp này về Báo cáo của
Việt Nam:
(Peter Mulrean: Chúng tôi hoan
nghênh việc Việt Nam ký Công ước Chống Tra tấn, tiến bộ về bảo vệ quyền của
người đồng tính/song tính/chuyển giới, và số lượng đăng ký nhà thờ tăng lên.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn sách nhiễu và bắt giữ
những người thực hiện các quyền hạn và các quyền tự do phổ quát, như tự do ngôn
luận và lập hội. Việt Nam cũng hạn chế tự do tôn giáo, và việc sách nhiễu các
nhà thờ không đăng ký vẫn diễn ra.
Chúng tôi quan ngại về sự hạn chế đối với việc
thành lập nghiệp đoàn độc lập, về việc sử dụng lao động trẻ em và lao động
cưỡng bức, và việc chính phủ sử dụng lao động bắt buộc.
Chúng tôi cũng thất vọng về việc Việt Nam ngăn
cản xã hội dân sự tham gia vào toàn bộ quá trình UPR.
Chúng tôi đề xuất với Việt Nam:
1. Sửa đổi luật an ninh quốc gia mơ hồ được sử
dụng để đàn áp các quyền phổ quát, và thả vô điều kiện tất cả các tù nhân chính
trị, như Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân, Điếu Cày và Trần Huỳnh Duy Thức;
2. Bảo vệ các quyền của người lao động được quốc
tế công nhận và tăng cường thực thi luật cấm lao động cưỡng bức; và
3. Nhanh chóng phê chuẩn và thực thi Công ước
Chống Tra tấn.”
Phản ứng chính thức từ Việt Nam về quan điểm của
Mỹ chưa có, nhưng Báo Quân đội Nhân dân (QĐND) là cơ quan thường “làm thay việc
của Chính phủ” đối với những lời chỉ trích Việt Nam, viết ngày 11/02/2014: “Cần
nói ngay rằng, trong tuyên bố này, Đại sứ quán Hoa Kỳ vẫn mang thái độ kỳ thị,
thiếu thiện chí với Việt Nam.”
Tác giả bài viết là Kim Ngọc, một trong số người
có bài thường xuyên trên mục “chống diễn biến hòa bình” của báo QĐND viết tiếp
rằng: “Một số người mà Đại sứ quán Hoa Kỳ cho rằng, "bị sách nhiễu"
về tự do ngôn luận, tự do báo chí, thực chất những trường hợp vi phạm pháp luật
Việt Nam, những hoạt động tôn giáo chưa được Nhà nước cấp phép. Nhà nước Việt
Nam luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của công dân, nhưng không phải là
thứ tự do vô chính phủ. Nếu ai đó cố tình lợi dụng dân chủ, tự do ngôn luận, tự
do báo chí, tự do tôn giáo... để chống lại Đảng, Nhà nước Việt Nam, đi ngược
lại lợi ích quốc gia, dân tộc đều bị xử lý bình đẳng, nghiêm minh bằng pháp
luật. Điều này thì không chỉ có ở Việt Nam mà bất cứ một quốc gia độc lập có
chủ quyền nào cũng làm như vậy.”
Bênh vực những việc làm sai trái của nhà nước
chống quyền con người là nhiệm vụ bình thường của một người được nhận lương
tháng như Kim Ngọc, nhưng khi tác giả khoác cho những người đấu tranh đòi quyền
con người Việt Nam phải được tôn trọng bằng một loạt các chiếc áo “ngụy tạo”
như: “vi phạm pháp luật, chống đảng, chống nhà nước, đi ngược lại lợi ích quốc
gia, dân tộc” mà không lương thiện minh chứng được thì có xóa được những cáo buộc
từ bên ngoài không?
Nhưng nếu Việt Nam làm gì cũng “trong sáng” thì
tại sao tại diễn đàn Geneve ngày 05/02/2014, một loạt các nước phương Tây như
Gia Nã Đại, Pháp, Hòa Lan ((Netherlands) đã yêu cầu nhà nước Việt Nam “hủy
bỏ hoặc Tu chính các Điều 79, 88 and 258 mơ hồ và bị lạm dụng nhằm hạn chế tự
do của Bộ Luật hình sự”?
Đại diện Pháp viết: “Repeal or modify the Penal Code
relating to national security particularly Articles 79, 88 and 258, in order to
prevent those articles from being applied in an arbitrary manner to impede
freedom of opinion and expression, including on the Internet.”
Gia Nã Đại: “Amend the provisions concerning offences against
national security which could restrict freedom of expression, including on the
internet, particularly articles 79, 88 and 258 of the Penal Code, to ensure its
compliance with Viet Nam’s international obligations, including the
ICCPR” (Chú thích: International Covenant on Civil and Political
Rights, Công ước Quốc tế về quyền Công dân và Chính trị)”
Một số nước khác, trong đó có Phần Lan
(Finland), Hòa Lan (Netherlands) và Tân Tây Lan (New Zealand) yêu cầu sửa lại
hai Nghị định 72 và 174 đã hạn chế và kiểm soát hoạt động của Truyền thông Xã
hội và các Tổ chức Phi Chính phủ.
Đặc biệt Norway thì nói rằng khi thi hành Điều
69 Hiến pháp thì phải bảo đảm tuân thủ những cam kết mà Việt Nam đã ký trong
(ICCPR,International Covenant on Civil and Political Rights-Công ước
Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị)
(Norway: In its implementation of
Constitution article 69, ensure compliance with its obligations under the ICCPR).
Điều 69 của Hiến pháp 2013 viết:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước.
Sở dĩ Norway quan tâm đến nhiệm vụ của Quốc hội
của Nhà nước CSVN vì trong thực tế, Quốc hội này chưa bao giờ là “đại diện thật
sử của dân” để phục vụ quyền lợi của dân mà chỉ được lập ra, qua hình thức
“đảng cử dân bầu” để “luật hóa những quyết định của đảng”, như họ đã “luật hóa
Cương lĩnh đảng 2011” trong Hiến pháp 2013 để “hợp pháp hóa” quyền lãnh đạo
toàn diện “nhà nước và xã hội” như viết trong Điều 4.
Riêng trong lĩnh vực Tôn giáo, Gia Nã Đại
(Canada) đã yêu cầu Việt Nam bỏ bớt những tiêu chuẩn rắc rối trong việc đăng ký
các hoạt động ôn hòa của các Tổ chức Tôn giáo hợp pháp và không đăng ký để bảo
đảm quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng.
(Canada: Reduce administrative
obstacles and registration requirements applicable to peaceful religious
activities by registered and non-registered religious groups in order to
guarantee freedom of religion or belief.)
Đại biểu Pháp nói: “Nước Pháp bày tỏ mối quan tâm lớn đến
việc tái thi hành những án tử hình và rất nhiều bản án tử hình trong thời gian
gần đây. Chúng tôi khuyến cáo VN tạm đình chỉ thi hành và khởi xướng một cuộc
thảo luận quốc gia về án tử hình.
Nước Pháp cũng rất quan tâm đến những hạn chế
quyền tự do tư tưởng và ngôn luận ở VN và những áp lực đối với những người
tranh đấu cho nhân quyền ở VN.”
Trong khi đó Đại diện Thụy Sỹ phát biểu: “Thụy Sĩ hoan nghênh VN đã ký Quy Ước
chống tra tấn và những hình phạt dã man, phi nhân, làm mất phẩm giá con người
và khuyến khích việc phê chuẩn Quy Ước trong một thời gian ngắn.
Thụy Sĩ kêu gọi chính quyền VN giảm bớt danh
sách những tội phạm có thể bị án tử hình, đặc biệt là những tội phạm kinh tế,
hay liên quan tới ma túy và nghiên cứu việc đình chỉ thi hành những án lệnh
trên.
Thụy Sĩ quan tâm tới tình trạng liên hệ tới tự
do ngôn luận, quyền hội họp ôn hòa, quyền lập hội và khuyến cáo chính quyền VN
chú trọng ý kiến của nhóm nghiên cứu (thuộc Liên Hiệp Quốc) về việc trả tự do
cho khoảng 30 người bị giam giữ một cách võ đoán từ phiên họp Kiểm Điểm Thường
Kỳ trước.
Đề bảo vệ quyền của của những người bị tạm giam,
Thụy Sĩ khuyến cáo chính phủ VN tôn trọng quyền được thăm viếng của gia đình và
quyền được hỗ trợ pháp lý, đặc biệt là trong giai đoạn điều tra, thẩm vấn của
cơ quan an ninh.”
Nước Đức đòi Việt Nam phải trả tự do ngay lập
tức những người bị bắt tùy tiện và phải bồi thường cho họ như yêu cầu của Khối
công tác về giam giữ tùy tiện.
(Germany: Immediately release all
prisoners held in arbitrary detention and recompense them as requested by the
Working Group on Arbitrary Detention.)
Nước Áo đòi hỏi Việt Nam công bố danh sách tất
cả các trại giam, kể cả những trung tâm giam giữ người cai nghiện do các cơ
quan cảnh sát, quân đội và Bộ Lao Động quản lý. Áo cũng muốn biết số người đang
giam giữ là bao nhiêu và họ đang làm những công việc gì?
(Austria: Provide public
information on the number of detention camps, including administrative
detention centres for drug treatment set up by the police, the military and the
Ministry of Labour, on the number of persons detained therein; as well as on
all forms of work in which detainees are involved.)
Lý do nước Áo muốn biết vì chương trình cai
nghiện của Việt Nam không thành công. Ngược lại tình trạng bắt con nghiện phải
lao động như nô lệ đã bị Liên Hiệp Quốc phát giác cách nay vài năm. Số con
nghiện được lành bệnh thì ít mà số tái nghiện, có nơi đến ngót 100% đang là một
hiểm họa cho xã hội Việt Nam.
Những yêu cầu và khuyến nghị đặc trưng nêu trên
và những đề nghị khác của Hội đồng Nhân quyền từ ngày 05 đến 07/02/2014 tại
Geneve cho thấy Thế giới đã biết rất rõ những điều Việt Nam nói không thật
trong Báo cáo đệ trình tại Chu kỳ II của “cơ chế kiểm định kỳ phổ quát” (UPR,
The Universal Periodic Review).
Việt Nam sẽ phải phúc đáp những khuyến nghị này,
chậm nhất vào Kỳ họp thứ 26 của Hội đồng trong Tháng 6/2014.
Tại kỳ kiểm điểm thứ nhất năm 2009, Việt Nam đã
nhận được 123 khuyến nghị nhưng Hà Nội chỉ nhận thi hành 96 đề nghị.
NGOẠI GIAO VIỆT NAM NÓI RÊU RAO
Những lời tuyên bố và khuyến nghị của Hội đồng
Nhân quyền đã rõ như ban ngày. Không có cuộc tranh luận nào giữa các nước tham
dự với Báo cáo viên Việt Nam do Thứ trường Ngoại giao Hà Kim Ngọc dẫn đầu. Cũng
không có bất cứ cuộc biểu quyết nào về Báo cáo của Việt Nam.
Vậy mà vào ngày 08/02/2014, Bộ Ngoại giao Việt
Nam đã phổ biến cho các báo, đài của nhà nước một bản tin viết như sau:
“Chiều ngày 07/2/2014, phiên họp của Nhóm làm
việc về UPR của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc tại Geneva đã thông qua Báo
cáo Rà soát Định kỳ Phổ quát (UPR) của Việt Nam.
Thay mặt Nhóm Troika, gồm đại diện của Ba nước
Costa Rica, Kenya và Kazakstan phụ trách Báo cáo UPR của Việt Nam, ông
Christian Guillermet, Phó trưởng Phái đoàn Costa Rica, đã báo cáo với Nhóm làm
việc về Báo cáo của Việt Nam, cảm ơn sự phối hợp nhiệt tình, có trách nhiệm và
hiệu quả của Việt Nam và Ban Thư ký HĐNQ trong quá trình làm việc của Nhóm
Troika để hoàn thành Báo cáo.
Trưởng đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Hà
Kim Ngọc, đã phát biểu cảm ơn Nhóm Troika, Nhóm Làm việc về UPR và các nước đã
hỗ trợ và đóng góp cho quá trình UPR của Việt Nam; khẳng định Việt Nam đánh giá
cao các phát biểu, đóng góp và khuyến nghị tích cực và xây dựng của các nước
đối với Việt Nam trong phiên trình bày và đối thoại.
Trưởng đoàn ta nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ
chế UPR, cho rằng cơ chế này là cơ hội để các quốc gia rà soát lại tình hình
thực hiện nhân quyền của các nước, chia sẻ kinh nghiệm, tăng cường hiểu biết
lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực nhân quyền; đồng thời khẳng định các
Bộ ngành, cơ quan liên quan của Việt Nam sẽ xem xét kỹ lưỡng tất cả các khuyến
nghị được nêu tại phiên trình bày và đối thoại lần này. Việt Nam sẽ chính thức
thông báo với các nước về việc chấp nhận các khuyến nghị tại Khóa họp thông qua
các báo cáo UPR tại kỳ họp thứ 26 của Hội đồng Nhân quyền, dự kiến vào tháng 6
năm 2014.”
Cùng ngày (08/02/2014) Báo Quân đội Nhân dân
cũng “tự viết” thế này:
“Hội đồng Nhân quyền đánh giá cao báo cáo kiểm
điểm định kỳ phổ quát của Việt Nam
Kiểm điểm định kỳ phổ quát (Universal Periodic
Review - UPR) là một quy trình đánh giá định kỳ (4 năm một lần) về tình hình
nhân quyền đối với tất cả các thành viên của Liên hợp quốc (hiện nay có 193
nước). Có thể nói, quy trình UPR là một sáng kiến của Hội đồng Nhân quyền, so
với Ủy ban Nhân quyền trước đây - đó là quy trình đánh giá dựa trên nguyên tắc
đối xử bình đẳng với tất cả các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc (LHQ).
Mục đích cuối cùng của UPR là chia sẻ kinh nghiệm, cải thiện tình trạng nhân
quyền ở mỗi quốc gia và với cộng đồng quốc tế. Quy trình UPR còn nhằm mục đích
hỗ trợ về chuyên môn, nâng cao khả năng giải quyết một cách hiệu quả những vấn
đề nhân quyền của mình….
...Sau phần trình bày ngắn gọn của Trưởng đoàn Việt
Nam, đã diễn ra cuộc đối thoại cởi mở, thẳng thắn giữa các đại biểu Hội đồng
Nhân quyền, đại biểu các quốc gia có mặt tại hội nghị với đoàn Việt Nam.
Trước hết, các đại biểu tham gia hội nghị đã đánh giá cao Việt Nam
trong việc chuẩn bị Báo cáo. Việt Nam đã thực hiện một cách nghiêm chỉnh các
khuyến nghị từ Hội nghị kiểm điểm lần thứ nhất (năm 2009); việc soạn thảo Báo
cáo được thực hiện bởi Nhóm công tác liên ngành gồm các cơ quan thuộc Chính phủ
và Quốc hội liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ, thực hiện và thúc đẩy các
quyền con người. Trong thời gian chuẩn bị Báo cáo nhiều cuộc hội thảo, hội
nghị, nhiều công trình nghiên cứu đã được triển khai ở các cấp, các ngành nhằm
xác định những nội dung chủ yếu, những lĩnh vực ưu tiên,… trong đó có các
khuyến nghị mà cộng đồng quốc tế đã lưu ý trong Hội nghị Báo cáo lần đầu. Không
ít ý kiến đã đề cập tới trọng trách của Việt Nam với tư cách là thành viên của
Hội đồng Nhân quyền LHQ trong nhiệm kỳ, mở đầu từ năm 2014.
Nhiều ý kiến cho rằng, Báo cáo của Việt Nam đã cung cấp đầy đủ các
thông tin “đa chiều”; đánh giá cao Việt Nam đã thu hút sự tham gia đóng góp của
các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp và của người
dân; đã tổ chức tham vấn, đối thoại nghiêm túc giữa Chính phủ với nhiều bên
liên quan trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam”… Điều này thể hiện rõ
sự nghiêm túc của Việt Nam đối với Cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát-UPR.
Thứ hai, về những thành quả bảo đảm quyền con
người, các đại biểu đánh giá tích cực việc Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc 96
khuyến nghị tại Hội nghị kiểm điểm định kỳ năm 2009 trong đó có việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật, đặc biệt là đưa quyền con người vào Chương II, Hiến pháp
mới (2013). Có ý kiến đánh giá cao Việt Nam đã ký “Công ước chống tra tấn” và
mong muốn Việt Nam sớm phê chuẩn Công ước này. Nhiều đại diện ở các nước đang
phát triển đánh giá cao thành quả của Việt Nam trong việc xóa đói, giảm nghèo,
phát triển bền vững và quan tâm đến các nhóm dễ bị tổn thương; về đích sớm
nhiều Mục tiêu thiên niên kỷ.
Thứ ba, trên lĩnh vực hợp tác quốc tế, nhiều đại
biểu đánh giá cao Việt Nam trong việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế, trở thành thành
viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ và sẵn sàng đối thoại nhân quyền thường niên
với các đối tác, đóng góp tích cực vào cơ chế nhân quyền ASEAN...
Mặc dù đã đánh giá tích cực đối với Báo cáo của
Việt Nam, song các đại biểu Hội đồng Nhân quyền và đại biểu một số quốc gia tại
hội nghị đã nêu nhiều khuyến nghị. Trong đó có những nội dung cơ bản sau: Việt
Nam cần nỗ lực hơn nữa trong việc cải cách tư pháp, pháp luật; thúc đẩy quyền
tự do ngôn luận, báo chí; tự do tôn giáo; mời thêm các Thủ tục Đặc biệt của Hội
đồng Nhân quyền LHQ tới Việt Nam và tăng cường hợp tác với các cơ chế nhân
quyền của LHQ, trong đó có các Cơ quan Công ước. Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam
đã cảm ơn và ghi nhận những khuyến nghị này.
Nhiều nước cũng khuyến nghị Việt Nam tăng cường chia sẻ kinh
nghiệm đổi mới, đảm bảo quyền của các nhóm yếu thế (như trẻ em, phụ nữ, người
khuyết tật, người cao tuổi, dân tộc thiểu số), đảm bảo an sinh xã hội, tạo việc
làm… trong điều kiện kinh tế khó khăn.”
Trong tất cả các Văn bản của kỳ họp ở Geneve từ
ngày 05 đến 07/02/2014, Hội đồng Nhân quyền và Văn phòng Báo chí của Hội đồng
không hề phổ biến bất kỳ một văn bản nào được gọi là “đánh giá cáo” hay “thông
qua” như Bộ Ngoại giao “tự diễn” và báo Quân đội Nhân dân “tự viết” để khoe
thành tích.
Còn chuyện được nói là “Nhiều nước cũng khuyến
nghị Việt Nam tăng cường chia sẻ kinh nghiệm” từ “đổi mới” cho đến “tạo việc
làm... trong điều kiện kinh tề khó khăn” thì cũng chi thấy viết trên báo Quân
đội Nhân dân mà thôi!
(02/014)
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment