Philippines mạnh dạn hơn
trong đối sách chống Trung Quốc
Chuẩn đô đốc Philippines Jaime Bernardino Philippine(t) với chuẩn
đô đốc Mỹ Stuart Munsch, tư lệnh lực lượng đặc nhiệm Task Force 74, trong nghi
thức khai mạc tập trận CARAT, vịnh Subic, 26/06/2014.
REUTERS/Erik De Castro
Trọng Nghĩa
Tham gia tập trận hải
quân với Mỹ gần vùng bãi cạn bị Trung Quốc cưỡng chiếm, tăng cường quan hệ an
ninh với các đối thủ của Bắc Kinh như Việt Nam hay Nhật Bản, thúc đẩy liên kết
giữa các nước ASEAN cùng có tranh chấp với Trung Quốc tại Biển Đông… Trong thời
gian gần đây, Manila đã thể hiện một thái độ tự tin và mạnh dạn hơn trong việc
tìm phương cách chống lại các động thái lấn lướt của Trung Quốc trên Biển Đông.
Yếu tố gần đây nhất thể hiện thái độ mạnh dạn hẳn lên của
Philippines trong đối sách chống Trung Quốc là cuộc tập trận thường niên CARAT
với đồng minh Mỹ, được khởi động từ hôm qua, 26/06/2014.
Mỹ và Philippines vẫn liên tục tập trận chung với nhau, nhưng hiếm
khi mà hai bên lại tập trận hải quân gần khu vực đang tranh chấp giữa Manila và
Bắc Kinh, cụ thể là gần bãi cạn Scarborough ở Biển Đông, nằm trong vùng đặc
quyền kinh tế của Philippines, nhưng bị Trung Quốc mặc nhiên chiếm lấy từ tháng
Tư năm 2012.
Việc tàu chiến, tàu quân sự Mỹ Phi hoạt động gần nơi có các tàu
Trung Quốc túc trực quả là mang một ý nghĩa không nhỏ.
Theo một nguồn tin từ phía Mỹ vào hôm qua, các bài tập đổ bộ, tấn
công… được thực hiện trong khuôn khổ cuộc tập trận, không nhắm vào một nước cụ
thể nào. Tuy nhiên trước đó ngày 20/06, phát ngôn viên Bộ Quốc phòng
Philippines không ngần ngại cho rằng cuộc tập trận có nguyên nhân từ những yêu
sách của Trung Quốc đối với các nước láng giềng ngày càng quá đáng, khiến tình
hình vùng Biển Đông càng thêm căng thẳng.
Thái độ mạnh dạn tự tin của Philippines còn thể hiện trong lãnh
vực tìm kiếm đồng minh trong khu vực. Trong chuyến công du chớp nhoáng qua Nhật
Bản hôm 24/06, Tổng thống Philippines Aquino đã xuất hiện bên cạnh Thủ tướng
Nhật Bản để yêu cầu tuân thủ luật pháp quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp
chủ quyền biển đảo.
Lẽ dĩ nhiên, Trung Quốc không bị nêu đích danh, nhưng nếu căn cứ
vào những lời chỉ trích Bắc Kinh coi thường luật quốc tế để tìm cách buộc các
nước khác công nhận các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông, thì
đối tượng của lời kêu gọi không ai khác hơn là Trung Quốc.
Thậm chí Tổng thống Philippines còn thách thức Bắc Kinh khi công
khai lên tiếng tán đồng một ý định của Thủ tướng Shinzo Abe thường xuyên bị
Trung Quốc lớn tiếng tố cáo. Đó là ý muốn sửa đổi Hiến pháp để tạo điều kiện
thuận lợi cho quân đội Nhật can thiệp ở nước ngoài hay giúp đỡ đồng minh khi
cần thiết.
Bên cạnh đó, lãnh đạo quân đội Philippines cũng ghé Việt Nam để
bàn việc tăng cường hợp tác quân sự, nhất là hợp tác trên biển, một lãnh vực rõ
ràng là nhắm vào Trung Quốc vốn đang dùng sức mạnh hải quân của họ lấn lướt các
láng giềng Đông Nam Á.
Trong phạm vi khu vực, Philippines cũng đang thúc đẩy một cuộc họp
giữa bốn nước ASEAN đòi chủ quyền trên Biển Đông (Việt Nam, Philippines,
Malaysia, Brunei) để tìm lập trường chung chống lại các đòi hỏi thái quá của
Trung Quốc.
Đây là một giải pháp nhằm đối phó với chiến lược chia để trị của
Bắc Kinh nhắm vào ASEAN từng được Trung Quốc thực hiện khá thành công trong
thời gian qua, khiến cho Hiệp hội Đông Nam Á bất lực trong việc thống nhất lập
trường trước các hành động hung hăng của Trung Quốc.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140627-bien-dong-philippines-manh-dan-hon-trong-doi-sach-chong-trung-quoc
Người Việt chống Trung
Quốc khắp nơi
Hòa Ái, phóng viên RFA
2014-06-26
2014-06-26
Người Việt biểu tình trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Washington DC
hồi đầu tháng 6 năm 2014.
RFA
Sau cuộc gặp gỡ chính thức giữa đại diện lãnh đạo VN và Trung Quốc
để giải quyết vụ việc giàn khoan Hải Dương 981 đang hoạt động trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của VN hôm 18/6, người Việt trong và ngoài nước
bày tỏ sự thất vọng với Chính phủ Hà Nội cũng như đẩy mạnh các hành động tự
phát để thể hiện tinh thần chống lại sự bành trướng của Bắc Kinh ở biển Đông.
Thắng lợi ngoại giao?
Hai ngày sau cuộc gặp gỡ giữa đại diện cấp cao của VN và ông Dương
Khiết Trì-Ủy viên Quốc Vụ viện Trung Quốc tại Hà Nội, Chủ Tịch nước Trương Tấn
Sang nhấn mạnh trong cuộc phỏng vấn với Thông tấn xã VN rằng Trung Quốc đã đơn
phương vi phạm thỏa thuận cấp cao giữa 2 nước về những nguyên tắc cơ bản để
giải quyết vấn đề trên biển cũng như vi phạm luật pháp quốc tế; nói thêm rằng
Đảng, Nhà nước và nhân dân VN kiên quyết không để một tấc đất, tấc biển nào của
Tổ quốc bị xâm phạm.
Tuy nhiên, trong cùng ngày 20/6, truyền thông Trung Quốc mô tả
chuyến đi của ông Dương Khiết Trì đến VN là một thắng lợi ngoại giao lẫn thắng
lợi tinh thần. Tờ The Diplomat trích dẫn tờ Hoàn Cầu của Hoa Lục viết về cuộc
gặp gỡ hôm 18/6 với câu chữ “Trung Quốc thúc giục ‘đứa con hoang đàng hãy trở
về nhà’”. Thông điệp truyền thông Trung Quốc gửi đi là VN nên đáp ứng một cách
đúng đắn với những đề nghị của Trung Quốc bằng cách chấm dứt quấy rối và phản
kháng với giàn khoan HD 981.
Khi Trung Quốc xâm lược cảm nhận được đúng tinh thần bất khuất của
người Việt thì nó sẽ nản chí thôi, tức là đến hơi thở cuối cùng thì người Việt
vẫn cứ chống.
-Anh Tuyến
-Anh Tuyến
Trong khi không một đại diện nào của Chính phủ VN lên tiếng về
giọng điệu của truyền thông Trung Quốc về cuộc hội đàm chính thức giữa đại diện
2 quốc gia thì người Việt trong và ngoài nước bày tỏ sự phẫn nộ trước hành động
“vừa ăn cướp vừa la làng’ của người hàng xóm xấu bụng nhưng là đồng chí “4
tốt-16 chữ vàng” của Đảng CSVN.
Kể từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 hôm mùng 2/5 cho đến
nay, người Việt trong và ngoài nước đã và đang lên tiếng mạnh mẽ để chống trả
hành động ngang tàng của Trung Quốc ở biển Đông. Cộng đồng người Việt hải ngoại
biểu tình khắp nơi ở các nước họ định cư. Nhiều người dân trong nước dù không
được biểu tình ôn hòa sau cuộc bạo động ở Bình Dương và Hà Tĩnh, họ thể hiện
tinh thần chống đối Bắc Kinh bằng cách ký tên vào các tuyên bố lên án Trung
Quốc xâm lược lãnh thổ VN và yêu cầu Nhà nước VN kiện Trung Quốc ra tòa án quốc
tế. Có người đã chọn cách biến mình thành ngọn đuốc như bà Lê Thị Tuyết Mai đã
tự thiêu tại Sài Gòn hôm 23/5 và ông Hoàng Thu vừa tự thiêu hôm 20/6 tại Bang
Florida, Hoa Kỳ.
Vào ngày 22/6, anh Đinh Quang Tuyến một mình cầm biểu ngữ “Chần
chừ kiện Trung Quốc ra tòa là phản bội dân tộc” tại khu vực Nhà thờ Đức Bà. Anh
Tuyến hô to “Đả đảo Trung Quốc Xâm lược” thì bị công an đến xiết cổ và bị đưa
lên xe chở về tạm giữ ở phường Bến Nghé. Trao đổi với Hòa Ái, anh Tuyến cho
biết động cơ khiến anh đơn độc biểu tình ôn hòa chống Trung Quốc:
Hàng ngàn công nhân ở Đồng Nai xuống đường phản đối Trung Quốc hôm
13/5/2014.
“Đó là xuất phát từ lòng yêu nước, từ sự thất vọng đối với Chính
phủ. Bây giờ nhân dân làm và mình sẽ làm, 1 người cũng làm”.
Hành động đơn phương thể hiện tinh thần yêu nước của mình khiến
anh Tuyến bị câu lưu hơn 5 giờ đồng hồ. Dù được công an giải thích hành động
biểu tình ôn hòa của mình là gây rối trật tự nhưng anh Tuyến quả quyết sẽ có
rất nhiều người trong số 90 triệu dân ở trong nước VN hành động giống như anh.
Anh Tuyến lập luận tinh thần yêu nước của người Việt như anh hùng Nguyễn Trung
Trực đã tuyên bố “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam
đánh Tây" thì chỉ khi nào Trung Quốc nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người VN
chống Trung Quốc. Anh Tuyến nói:
“Trong cái rổ trứng ấp thì có 1 con nở ra, thấy có 1 con thôi
nhưng phải hiểu rằng là có rất nhiều con sắp nở. Dĩ nhiên gà mẹ có ấp thì trứng
sẽ nở thôi. Cái trứng này nở trước, cái trứng kia nở sau, rồi tất cả các con gà
con đều sẽ nở và sẽ lên tiếng gáy. Khi Trung Quốc xâm lược cảm nhận được đúng
tinh thần bất khuất của người Việt thì nó sẽ nản chí thôi, tức là đến hơi thở
cuối cùng thì người Việt vẫn cứ chống”.
Gây tiếng vang cho thế
giới
Có phải những hành động tự phát thể hiện tinh thần bất khuất chống
giặc ngoại xâm phương Bắc trong suốt chiều dài lịch sử 4.000 năm qua như của bà
Lê Thị Tuyết Mai, của ông Hoàng Thu hay của anh Tuyến là đơn độc hay thực sự
lan tỏa đến tâm hồn của mỗi người con đất Việt? Từ Úc, cô Nguyễn Thị Thanh
Nhàn, một trong những người phát động chiến dịch "Selfie for Vietnam"
qua hình thức chụp hình mỗi gương mặt với biển hiệu “ChinagetoutofVietnam”, cho
biết tất cả các bức hình khắp năm châu gửi về được đăng tải qua trang mạng xã
hội như Facebook, Youtube để gây một tiếng vang cho thế giới về tinh thần đoàn
kết chống Trung Quốc của người VN. Cô Thanh Nhàn chia sẻ:
Hành động chụp hình này chỉ là một trong những phương thức thúc
đẩy sự đoàn kết của mọi người và gây nên tiếng vang tất cả người VN đều đoàn
kết trong việc chống Trung Quốc.
-Cô Thanh Nhàn
-Cô Thanh Nhàn
“Tôi nghĩ những hình ảnh này chắc chắn không thể nào đem giàn
khoan ra khỏi bờ biển của VN được nhưng quan trọng một trong những mục đích
chính là thúc đẩy sự đoàn kết của những người trẻ ở khắp năm châu, ai cũng có
thể tham gia được hết. Đó là tinh thần đoàn kết mà những người Cộng Sản VN và
Trung Quốc, họ đều sợ sự đoàn kết của tất cả người Việt ở năm châu. Hành động
chụp hình này chỉ là một trong những phương thức thúc đẩy sự đoàn kết của mọi
người và gây nên tiếng vang tất cả người VN đều đoàn kết trong việc chống Trung
Quốc qua xâm lược VN”.
Ở trong nước, lên tiếng với báo giới, Anh hùng quân đội Nhân dân
VN, Thiếu tướng Lê Mã Lương cho rằng lâu lắm mới thấy được lòng dân thể hiện
tình yêu đối với biển đảo quê hương như thế. Thiếu tướng họ Lê khẳng định Việt
Nam sẽ tiếp tục kiên trì con đường đấu tranh hòa bình, không bao giờ chủ động
tấn công Trung Quốc trước. Tuy nhiên, ông này nhấn mạnh bản thân ông cùng với 4
triệu cựu chiến binh sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đất nước một khi Trung Quốc
gây hấn bằng võ lực. Kiến trúc sư Trần Thanh Vân ở Hà Nội kể lại ghi nhận này
với đài RFA sau khi tham dự cuộc hội đàm về tình hình biển Đông do Trung tâm
Minh Triết Việt tổ chức, có sự tham dự của Thiếu tướng Lê Mã Lương:
“Thiếu tướng- Anh hùng quân đội Lê Mã Lương đến và có nói rằng
hiện nay có 4 triệu cựu chiến binh sẵn sàng xông ra mặt trận bất cứ lúc nào, và
quân đội sẽ theo họ chứ không theo ông Phùng Quang Thanh. Dân mạnh lắm”.
Qua những hành động thực tiễn của mỗi cá nhân hay một tập thể ở
trong và ngoài nước cho thấy người Việt sẵn sàng đối đầu với Trung Quốc. Và câu
hỏi đặt ra liệu Chính phủ VN có đứng cùng chiến tuyến với người Việt hay chăng?
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vnese-around-world-act-against-cn-ha-06262014130108.html
Việt Nam không mang ơn
Trung Quốc
|
Trung
Cộng xâm lấn Việt Nam năm 1979
|
Vương Trí Dũng
Một số người cho
rằng Việt Nam mang ơn Trung Quốc. Đó là một nhận thức không đúng. Ngay
cả Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang trong cuộc gặp với cử tri ngày
26-6-2014 cũng phát biểu “ mang ơn thì có cách trả ơn chứ không áp
đặt” (http://dantri.com.vn/chinh-tri/viet-nam-mang-on-thi-se-tra-nhung-trung-quoc-khong-duoc-ap-dat-892943.htm).
Phát biểu như vậy vô tình tạo cớ cho Trung Quốc trích dẫn rêu rao
xuyên tạc. Những luận cứ sau đây sẽ mimh chứng rằng Việt Nam không mang
ơn Trung Quốc.
1. Ngay từ ban đầu lãnh đạo Trung Quốc giúp Việt Nam là
vì lợi ích của chính Trung Quốc. Nếu Trung Quốc không có lợi, lãnh
đạo Trung quốc đã không giúp Việt Nam.
Thiết nghĩ không ai phản bác khẳng định trên. Chúng ta chưa
bàn đến giúp cái gì và giúp như thế nào. Nhưng rõ ràng nếu không
có lợi thì dứt khoát lãnh đạo Trung Quốc đã không giúp Việt
Nam.
Nam.
2. Không phải tự nguyện hay do Việt Nam đề nghị, mà
lãnh đạo Trung Quốc buộc phải giúp Việt Nam vì lợi ích sát sườn
trực tiếp của chính Trung Quốc.
Điều này cũng quá rõ ràng. Chính quyền Mao Trạch Đông sẽ
không để cho một chính phủ Việt Nam thân Pháp hay thân Mỹ tồn tại ở
ngay sát nách mình. Mao Trạch Đông không chỉ không muốn mà thực sự lo
sợ nếu Việt Nam là đồng minh của Pháp hay nhất là của Mỹ. Điều này
chính lãnh đạo Trung Quốc bằng nhiều cách gián tiếp hay trực tiếp
đã gửi đi những thông điệp rất rõ ràng cho Pháp và Hoa Kỳ biết. Bởi
vậy, lãnh đạo Trung Quốc đã buộc phải giúp Việt Nam trong kháng
chiến chống Pháp và sau đó là trong chiến tranh chống Mỹ. Nếu không
phải Pháp, không phải Mỹ, mà là một quốc gia khác chẳng hạn là
Nhật hay Anh đến Việt Nam thì lãnh đạo Trung Quốc cũng sẽ chủ động
giúp Việt Nam để chống lại.
3. Lãnh đạo Trung Quốc không phải tình cờ hay chỉ thông
thường mà có chủ mưu sâu xa thâm độc trong lá bài giúp đỡ Việt Nam.
Lãnh đạo Trung Quốc giúp Việt Nam chống Pháp và Mỹ không chỉ bảo vệ
lợi ích của Trung Quốc trước sự đe dọa của Pháp và Mỹ mà còn có
mục đích chiếm đoạt thống trị Việt Nam.
Giúp Việt Nam không chỉ không cho Pháp Mỹ đến sát nách Trung
Quốc, không chỉ làm cho Pháp Mỹ sa lầy suy yếu để Trung Quốc có thời
cơ hùng mạnh, mà Mao Trạch Đông còn nhiều lần trắng trợn tuyên bố
với Tổng bí thư Lê Duẩn mục tiêu thống trị Việt Nam.
Cũng vì mục tiêu thống trị Việt Nam mà lãnh đạo Trung
Quốc đã buộc Việt Nam luôn phải chia cắt để không lớn mạnh. Lãnh đạo
Trung Quốc đã ép Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải lùi đến vĩ tuyến 17
trong Hiệp định Genève 1954. Trong chiến tranh chống Mỹ, lãnh đạo Trung
Quốc tìm mọi cách ngăn cản Việt Nam giành chiến thắng. Lãnh đạo
Trung Quốc chỉ đạo Việt Nam chỉ đánh Mỹ đến cấp Trung đội, ngăn cản
Việt Nam nhận viện trợ của Liên Xô, không đồng ý để Việt Nam đàm
phán với Mỹ. Bằng nhiều hình thức và dưới mọi vỏ bọc, lãnh đạo
Trung Quốc đã làm suy yếu Việt Nam để thống trị Việt Nam.
4. Không chỉ vì bảo vệ lợi ích Trung Quốc trước Pháp và
Mỹ, không chỉ vì thống trị Việt Nam, Mao Trạch Đông có chủ tâm thâm
độc đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng. Đây là một dã tâm diệt
chủng.
Hành động diệt chủng của các bạo chúa Trung Quốc được
lịch sử Trung Quốc minh chứng. Mao Trạch Đông không cần che đậy dã tâm
diệt chủng ở Việt Nam bằng cách đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối
cùng. Dã tâm điệt chủng của lãnh đạo Trung Quốc không chỉ đối với
Việt Nam, mà sau này họ đã thực hiện được một phần ở Campuchia thông
qua chính quyền ngu xuẩn tội phạm Pol Pot.
5. Làm cho Việt Nam phải kéo dài chiến tranh với Mỹ để
Trung Quốc có cơ hội chiếm đất Việt Nam. Nhân lúc Việt Nam có chiến
tranh, Trung Quốc đã di dời các cột mốc biên giới, đưa dân xâm cư xâm
canh, chiếm đoạt của Việt Nam nhiều trăm km vuông đất. Không chỉ chiếm
đất Việt Nam bằng con đường không vũ lực, vào thời điểm Việt Nam bị
chia cắt và suy yếu, Trung Quốc đã ngang nhiên mang quân đánh chiếm
Hoàng Sa của Việt Nam. Khi Việt Nam thống nhất, không còn cách nào
khác, Trung Quốc đã trắng trợn tiến hành chiến tranh chiếm đất biên
giới của Việt Nam.
Trong lúc Việt Nam phải đối phó với chiến tranh, Trung
Quốc đã lợi dụng di dời các cột mốc biên giới sâu vào lãnh thổ
Việt Nam. Bởi thế Ải Nam Quan lịch sử đã thuộc sâu vào lãnh thổ
Trung Quốc.Trắng trợn nhất là ở Thác Bản Giốc,Trung Quốc đã huy
động hơn 2000 người cả lính, cấp tốc xây dựng đập bê tông cốt sắt qua
nhánh sông, chiếm cồn Pò Thoong làm lãnh thổ, đồng thời di dời cột
mốc 53 từ trên núi phía bên kia sông sang quá nửa Thác Bản Giốc. Bởi
vậy phần đẹp nhất của Thác Bản Giốc sau Hiệp ước Biên giới 1999 đã
thuộc về Trung Quốc. Trung Quốc cho dân xâm cư xâm canh sang đất Việt Nam
nhiều năm để làm chuyện đã rồi khi phân định biên giới. Trung Quốc
giành giúp Việt Nam xây đập sông biên giới để chủ ý bịt phần phía
Trung Quốc, chỉ để một cống phía bờ Việt Nam, nắn hướng dòng chảy
sâu vào đất Việt Nam, sau nhiều năm xói mòn đã đổi thay dòng chảy.
Khi phân chia biên giới theo giữa hướng dòng chảy,Trung Quốc đã chiếm
được rất nhiều lợi thế, nhất là phần trên biển theo dòng chảy cửa
sông. Mưu mô chiếm đất Việt Nam của Trung Quốc không chỉ cho một vài
năm, mà cho hàng chục năm, cho cả thế kỷ.
Nhân lúc Việt Nam đang bị chia cắt thành hai miền đối
kháng, năm 1974 Trung Quốc đã mang quân đánh chiếm Hoàng Sa của Việt
Nam. Liên tục suốt các năm 1980 -1989, Trung Quốc tiến hành chiến tranh
xâm lược biên giới Việt Nam. Đỉnh điểm là ở Vị Xuyên Hà Giang trong
các năm 1984-1985,Trung Quốc đã chiếm mất Núi Đất của Việt Nam. Để
thực hiện mục tiêu chiếm đất Việt Nam, Trung Quốc đã tiến hành không
chỉ bằng mưu mô nham hiểm, bằng thủ đoạn trá hình gian xảo, mà còn
trắng trợn bằng chiến tranh vũ lực.
Xét về tổng thể, với mưu đồ sâu xa thâm hiểm biểu hiện
qua năm điểm chủ chốt nêu trên, có thể khẳng định rằng không những
Việt Nam không phải mang ơn Trung Quốc mà thực chất Trung Quốc phải
chịu ơn Việt Nam. Trung Quốc phải nợ Việt Nam vì những điểm sau.
1. Việt Nam đã giúp cho Trung Quốc không bị sự đe dọa trực
tiếp từ Pháp
và Mỹ. Đặc biệt là Mỹ đã không thể biến Việt Nam thành đồng minh
để đặt căn cứ quân sự sát sườn Trung Quốc.
2. Việt Nam đã làm suy yếu đối thủ Pháp và Mỹ của Trung
Quốc. Nhất là Mỹ đã bị sa lầy và suy yếu trong chiến tranh Việt Nam,
tạo cơ hội cho Trung Quốc dưỡng sức phát triển.
3. Việt Nam đã trực tiếp bảo vệ Trung Quốc trên trường
quốc tế và đã mang đến cho Trung Quốc vai trò lãnh đạo quốc tế to
lớn khi Trung Quốc dương cao lá cờ giúp Việt Nam chống Pháp và Mỹ.
4. Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam chỉ là kinh tế và vũ
khí. Còn Việt Nam đã bảo vệ lợi ích của Trung Quốc chính bằng xương
máu của nhân dân Việt Nam. Đó là điều không thể so sánh. Sự viện trợ
của Trung Quốc cho Việt Nam đã tạo cơ hội cho Trung Quốc phát triển
kinh tế và hiện đại hóa nền công nghiệp quốc phòng.
5. Trung Quốc đã xâm chiếm cả ngàn km vuông lãnh thổ Việt
Nam trên đất liền và biển đảo.
Khi Trung Quốc mang 60 vạn quân xâm lược Việt Nam vào ngày
17-2-1979, là thời điểm bộc lộ toàn bộ âm mưu xấu xa của lãnh đạo
Trung Quốc dưới lá bài giúp đỡ Việt Nam. Từ thời điểm đó, CHXH Việt
Nam và CHNDTrung Hoa không còn là anh em đồng chí, mà là kẻ thù của
nhau. Từ thời điểm đó giữa hai bên đã chấm dứt mọi tình nghĩa ơn
huệ. Bởi vậy, hãy đào sâu chôn chặt, và đừng bao giờ nhắc đến giúp
đỡ ơn huệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Điều cần phân biệt là nhân dân hai nước.Tình nhân ái được
Tạo hóa bẩm sinh trong mỗi cơ thể con người, ở tất cả các dân tộc.
Đó là điều thiêng liêng quý giá phải nâng niu chăm chút.
V.T.D
Nguồn:
http://boxitvn.blogspot.com.au/2014/06/viet-nam-khong-mang-on-trung-quoc.html#more
Dân Việt và dân Uyghur
Ngô Nhân Dụng
Nếu từ giữa thế kỷ thứ 10 mà người Việt Nam không giành được độc lập; hoặc vào thế kỷ 18 người Việt không đánh đuổi được quân Thanh; thì bây giờ dân Việt chắc cũng đang chịu số phận giống người Uyghur, một sắc dân thiểu số trong tỉnh Tân Cương, miền cực Tây nước Trung Hoa.
Vua Càn Long nhà Thanh sai quân chiếm vùng đất này vào giữa thế kỷ 18, trước đó thuộc một triều đại thường gọi là đế quốc Dzungaria do sắc dân Tây Mông Cổ (Oarat) thành lập từ thế kỷ thứ 17. Càn Long ra lệnh tàn sát người Mông Cổ Oarat. Hơn nửa triệu người, tức 80% dân số đã bị tiêu diệt trong thời gian từ 1755 đến 1758. Năm 1776, Càn Long ban một sắc lệnh cho người Hán di cư đến miền đất mới này, thưởng tiền cho các di dân định cư; sau đó mới lập ra tỉnh Tân Cương (Xinjiang, nghĩa là Biên Cương Mới).
Nếu từ giữa thế kỷ thứ 10 mà người Việt Nam không giành được độc lập; hoặc vào thế kỷ 18 người Việt không đánh đuổi được quân Thanh; thì bây giờ dân Việt chắc cũng đang chịu số phận giống người Uyghur, một sắc dân thiểu số trong tỉnh Tân Cương, miền cực Tây nước Trung Hoa.
Vua Càn Long nhà Thanh sai quân chiếm vùng đất này vào giữa thế kỷ 18, trước đó thuộc một triều đại thường gọi là đế quốc Dzungaria do sắc dân Tây Mông Cổ (Oarat) thành lập từ thế kỷ thứ 17. Càn Long ra lệnh tàn sát người Mông Cổ Oarat. Hơn nửa triệu người, tức 80% dân số đã bị tiêu diệt trong thời gian từ 1755 đến 1758. Năm 1776, Càn Long ban một sắc lệnh cho người Hán di cư đến miền đất mới này, thưởng tiền cho các di dân định cư; sau đó mới lập ra tỉnh Tân Cương (Xinjiang, nghĩa là Biên Cương Mới).
Người Uyghur không thuộc giống Mông Cổ. Như nhiều sắc dân khác trong vùng Trung Á, tiếng nói Uyghur tương tự ngôn ngữ chính của nước Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ. Nhìn vào những quốc gia chung quanh tỉnh Tân Cương chúng ta thấy những người được sử Trung Hoa gọi là “Ðột Quyết” sống rải rác dọc vùng Trung Á, sử Trung Hoa gọi là Tây Vực. Tân Cương giáp giới các nước Nga, Mông Cổ (Mongolia), Ấn Ðộ và những nước tên tận cùng giống nhau: Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan, và Pakistan. Vào năm 1933, đã nổi lên phong trào đòi thành
lập một nước
Uyghuristan, sau đổi là “Turkistan Ðông,” bị quân Trung Quốc xóa bỏ. Ngoài
Afghanistan và Pakistan, ngôn ngữ chính ở các quốc gia kia đều gốc tiếng Thổ;
cũng như dân Ubezkistan. Ðó là các sắc dân sống ở miền Ðồng Cỏ nằm ngang giữa
châu Á, giữa vùng đất rừng taiga lạnh giá và rặng Hy Mã Lạp Sơn. Tỉnh Tân
Cương, diện tích gấp năm lần nước Việt Nam, cũng có các sắc dân Kazakhs,
Tajiks, Kyrgyz, Mông Cổ, và những người gốc Hoa-Tạng theo Hồi Giáo gọi là
“Hồi.”
Dân Uyghur (đọc là Uy Gua), người Trung Hoa gọi là Duy Ngô Nhĩ không sống du mục mà là dòng dõi những thương gia gốc Sogdia, một vương quốc nằm phía Bắc Iran và Afghanistan từ thời thượng cổ. Họ trở thành những thương gia nối liền Con Ðường Tơ Lụa bằng những ốc đảo. Ngôn ngữ của họ được các giống dân khác dùng trong việc thương mại, cho tới thế kỷ thứ 10.
Nhà sư Huyền Trang, vào thế kỷ thứ 7 đã ghi nhận sắc dân này rất sùng Phật giáo, trẻ em thuộc đã biết đọc, biết viết từ khi lên năm tuổi, lớn lên làm nghề buôn bán. Người Uyghur có thời đã lập một vương quốc (gọi là Uyghur Khaganate) vào thế kỷ thứ 8, nhân lúc nhà Ðường bị loạn An Lộc Sơn, và quân Tây Tạng tấn công chiếm kinh đô Tràng An hơn nửa tháng. Nhưng trong lịch sử, người Uyghur từng liên kết với nhà Ðường, nhà Thanh khi có chiến tranh với các sắc dân khác.
Dân Uyghur đổi sang đạo Hồi từ thế kỷ thứ 10, hiện nay đa số sống ở phía Nam Tân Cương. Khi Cộng sản Trung Quốc chiếm được nước Tàu, họ đổi vùng này thành Khu Tự Trị và công nhận sắc dân Uyghur chiếm đa số. Nhưng chính sách thực dân của Trung Cộng vẫn tiếp tục đường lối nhà Thanh, đưa di dân người Hán đến vùng này, vì tài nguyên dầu lửa và hơi đốt phong phú.
Hiện nay, 10 triệu người Uyghur sống ở Tân Cương trở thành thiểu số, ít hơn số di dân người Hán nắm giữ các địa vị chính trị và kinh tế quan trọng. Người Uyghur bị bạc đãi về kinh tế, nhưng cả nền văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo của họ cũng bị đe dọa, giống như người Tây Tạng.
Chữ viết của người Uyghur, dùng mẫu tự giống như chữ Á Rập thông dụng đã có từ thế kỷ thứ 10. Ðại Hãn Genghis Khan từng sử dụng các chuyên viên hành chánh Uyghur và chữ viết của họ vì người Mông Cổ chưa có chữ viết. Ngày nay thứ chữ viết cổ này bị xóa bỏ dần trong các trường đại học. Nhiều khu phố cổ, với các đền thờ Hồi Giáo, bị phá hủy để lấy đất phát triển kinh doanh. Những người làm việc cho nhà nước bị cấm không được nhịn đói ban ngày trong tháng Ramadan, như tục lệ Hồi Giáo đòi hỏi. Chính quyền bổ nhiệm các pháp sư (Imam) và kiểm duyệt các bài giảng pháp. Trước đe dọa văn hóa bị tiêu diệt, người Tây Tạng theo đạo Phật đã phản đối bằng một phong trào tự thiêu, hơn 100 người đã hy sinh. Còn người Uyghur theo Hồi Giáo chọn phản kháng bằng vũ khí.
Chính quyền Bắc Kinh mới đưa lên truyền hình một phim tài liệu nhằm quy kết các hoạt động phản kháng của người Uyghur như nằm trong phong trào Hồi Giáo quá khích trên thế giới. Trong chương trình phát vào ngày Thứ Ba vừa qua, 24 Tháng Sáu, 2014, họ cho chiếu nhiều đoạn phim mà họ nói do chính người Uyghur truyền đi trên mạng Internet cổ động dân Uyghur nổi dậy chống chính quyền Cộng Sản Trung Quốc. Những đoạn phim (video clips) này được giới thiệu là sản xuất ở nước ngoài; truyền đi bằng các máy điện thoại di động, các mạng lưới xã hội, qua nhiều quốc gia, trong đó có Thổ Nhĩ Kỳ, trước khi tới Tân Cương. Trong đoạn phim tuyên truyền vận động này chiếu cả những hình ảnh quay trong nước Trung Hoa, với các chiến sĩ Uyghur mặc đồng phục, tay cầm kiếm, đang luyện tập trong sa mạc được coi là trong vùng Mông Cổ. Trong video này còn chiếu cảnh ba người Uyghur lái xe chạy đâm vào đám đông người Trung Hoa tại Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh trong Tháng Mười vừa qua, nổ bom tự sát.
Chính quyền Trung Cộng tố cáo rằng các phim tuyên truyền này là của hai nhóm cách mạng Uyghur đặt căn cứ tại miền Bắc Pakistan và đòi tái lập Cộng Hòa Turkistan Ðông. Theo chính quyền Trung Cộng, từ 2010 đến 2013 số băng ghi âm và phim đã tăng từ 8 lên tới 109 cuốn. Bắc Kinh còn tố cáo hai nhóm này liên hệ tới tổ chức khủng bố al-Qaeda; nhưng điều này không đáng tin cậy. Các bài trên mạng của người Uyghur đã được in lại trên các tờ báo ở Kazakhstan và Kyrgyzstan, được đưa vào Tân Cương. Năm 2001, khi quân Mỹ tấn công Afghanistan, đã bắt được hàng chục người Uyghur trong đám quân Taliban. Năm 2009, chính phủ Mỹ đã đồng ý với chính quyền Trung Cộng, đặt một tổ chức cách mạng của người Uighur vào danh sách các tổ chức khủng bố quốc tế.
Người Uyghur bắt đầu các vụ tấn công mạnh mẽ vào người Hán ở Tân Cương từ năm 2009. Họ nổi loạn sau khi nghe tin một khu người lao động Uighur ở Quảng Ðông bị người Hán đánh, giết; sau khi di dân Uighur đã bị kỳ thị và bạc đãi ở khắp nơi, do ảnh hưởng tuyên truyền của nhà nước. Vụ bạo động ở Urumqi, thủ phủ Tân Cương làm chết 156 người; đánh dấu tình trạng uất hận đi tới tức nước vỡ bờ.
Ðoạn phim video mới của người Uighur được phát hành sau biến cố tấn công bằng dao nhọn và bom ở Urumqi vào tháng Năm vừa qua, làm chết 43 người, một trong nhiều cuộc tấn công kể từ Tháng Mười năm ngoái.
Một tổ chức chiến tranh bất bạo động của người Uighur đang hoạt động khắp thế giới là Nghị hội Uyghur Thế giới (World Uyghur Congress, WUC), lập ra tại Munich, Ðức quốc, vào năm 2004, được nhiều doanh nhân Uyghur giầu có trong vùng Trung Ðông ủng hộ. Vị chủ tịch từ năm 2006 là bà Rebiya Kadeer, một doanh nhân thành công ở Tân Cương, đã bị chính quyền Trung Cộng bỏ tù sáu năm, xin tị nạn chính trị tại Mỹ từ năm 2005. Nghị hội Uyghur WUC đặt đại diện chính thức tại nhiều nước, như Pháp, Bỉ, Thụy Ðiển, Úc, Nhật Bản, Anh quốc, và Kyrgyzstan. Năm 2006, bà Rebiya Kadeer đã được cựu Tổng Thống George W. Bush tiếp kiến, và Quốc Hội Mỹ yểm trợ tài chánh. WUC tố cáo chính quyền Trung Cộng tìm cách mô tả phong trào của người Uyghhur là khủng bố và liên hệ với nhóm al-Qeada để đánh lừa dư luận thế giới và biện hộ cho chính sách đàn áp dã man của họ.
Nhà Ðường bên Tàu đã lập An Tây Ðô Hộ Phủ, trong thế kỷ thứ 8, để cai trị vùng Tân Cương bây giờ, cùng thời gian đó họ cũng đặt nước ta trong An Nam Ðô Hộ Phủ. Vào thế kỷ 18, quân Nhà Thanh đã xâm lăng nước ta, năm 1788 ba chục năm sau khi tấn công miền Tây Vực, lập tỉnh Tân Cương. Cho nên người Việt có thể thông cảm với nỗi uất hận của người Uyghur, vì họ không được may mắn như dân tộc Việt.
Mặc dù lịch sử hai dân tộc đi về hai hướng khác nhau từ hơn một ngàn năm, nhưng ngày nay người Việt và người Uyghur vẫn đều là nạn của Cộng Sản Trung Quốc. Mặc dù không bị quân Trung Cộng chiếm đóng và trực tiếp cai trị, nhưng người Việt Nam vẫn chịu hậu quả của chính sách bành trướng mới của Mao Trạch Ðông. Họ Mao tiến quân vào vùng đất Tổ tiên của người Uyghur và người Tây Tạng, mang theo danh nghĩa “giải phóng” các dân tộc này khỏi “ách thống trị phong kiến;” dưới ngọn cờ một chủ nghĩa quốc tế. Trong cùng thời gian đó, Mao Trạch Ðông đã huấn luyện một số người Việt Nam theo “chủ nghĩa quốc tế” này, để đưa nước Việt Nam vào vòng lệ thuộc. Mao khôn ngoan hơn các hoàng đế Trung Hoa đời trước, không dụng binh mà vẫn đạt được kết quả.
Một đảng viên cộng sản mới được gọi đi học tập, cho biết một trong những điều “Trung Ương” chỉ thị là “Các đảng viên tuyệt đối không được dùng các mạng xã hội phản đối Trung Quốc.” Họ cũng phải ghi nhớ chủ trương “Bảo vệ quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chế độ cộng sản;” trong khi phải ghi nhớ “kẻ thù lâu dài” của đảng vẫn là nước Mỹ. Tất cả các hành động phản đối Trung Quốc phải do chỉ thị cấp trên đưa ra; chủ yếu chỉ yêu cầu họ rút giàn khoan mà thôi (mà giàn khoan HD-981 thì trước sau cũng sẽ dời đi nơi khác).
Ngày nay người Việt Nam cũng không khác người Uyghur, vẫn phải tranh đấu để thoát khỏi gọng kìm của Trung Cộng. Cuộc tranh đấu của hai dân tộc lại chứng tỏ, một lần nữa, rằng lý thuyết của Karl Marx sai từ nền tảng. Ðộng lực thúc đẩy lịch sử là tình tự dân tộc, thể hiện qua ngôn ngữ, phong tục, tập quán, và được củng cố bằng tôn giáo. Câu Marx viết, “Lịch sử là lịch sử đấu tranh giai cấp.” Ý kiến này đã được Mao Trạch Ðông sử dụng để bành trướng uy quyền. Mao mê hoặc cả người Trung Hoa lẫn người Uyghur và Việt Nam. Cầu mong dân tộc Uyghur sẽ có ngày giành được độc lập, dân tộc Việt vẫn còn phải tiếp tục đấu tranh.
Nguồn:
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=190728&zoneid=7
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment