Nên vận động
thi viết về Cải cách ruộng đất
76 - Cải Cách Ruộng Đất 1
https://www.youtube.com/watch?v=vYH99ucagl0&list=PLfMXS_Ezh_w5Ri3JUpzn34-V9uffY5Ucy
Kami
Cuộc triển lãm “Cải cách ruộng đất 1946-1957″
phải vội vã đóng cửa sau và ba ngày khai trương mà không có lời giải thích lý
do một cách minh bạch và rõ ràng chứng tỏ sự thất bại của công tác tuyên truyền
của Đảng CSVN. Đồng thời nó cũng chứng minh sức mạnh của truyền thông lề trái
và dư luận xã hội, đã buộc cơ quan tuyên truyền của nhà nước đã phải lùi bước.
Cuộc cách mạng Cải cách ruộng đất (CCRĐ) do Đảng
CSVN khởi xướng và thực hiện, với khẩu hiệu “Người cày có Ruộng” nhằm tịch thu
tài sản, đất đai của những thành phần địa chủ bị kết tội Việt gian chia cho bần
nông, cố nông. Đây được cho là không chỉ là mục đích của cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ của Đảng CSVN, mà còn nhằm nâng cao sự ủng hộ của dân chúng đổi với
cách mạng để dồn sức cho công cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở giai đoạn cuối
(1953-1954). Chủ trương như thế ta thường thấy ở các cuộc cách mạng và chắc
chắn nó sẽ nhận được sự hưởng ứng của số đông dân chúng, đặc biệt là nông dân.
Tuy nhiên, cuộc CCRĐ ở miền Bắc Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng CSVN, do áp dụng một cách máy móc và giáo điều từ mô hình
“Cải cách Điền địa” của Trung quốc, đồng thời chịu áp lực từ các cố vấn Trung
quốc. Đặc biệt với chỉ tiêu áp đặt phải đạt chỉ tiêu số người bị quy là địa chủ
chiếm 5% tổng số dân, đã dẫn tới tình trạng truy bức địa chủ, mớm lời cho các
bần cố nông trong đấu tố trở nên phổ biến và ở một số nơi đã xuất hiện hiện
tượng đấu tố tràn lan, mất kiểm soát. Theo Tạp chí Xưa&Nay, Hà Nội, số 297,
2007 thì tổng số người bị đưa vào danh sách đấu tố vào khoảng 172.008 người;
trong đó số người bị oan sai lên tới khoảng 123.266 người. Cuộc cải cách và đấu
tố này đã gây nên biết bao oan sai cho những người nông dân hiền lành và vô
tội, đã khiến rất nhiều gia đình lâm vào cảnh tan cửa nát nhà.
Nếu cuộc CCRĐ nhằm mục đích để cho “Người cày có
Ruộng”, nhưng chỉ một vài năm sau Đảng CSVN lại có chủ trương hợp tác hóa nông
nghiệp, thậm chí cho đến bây giờ đất đai vẫn là sở hữu toàn dân thì người nông
dân hầu như chẳng có lợi ích gì đáng kể. Nghĩa là họ vẫn trắng tay, cho nên
CCRĐ thời đó ở Việt Nam thực ra là cuộc cách mạng mà công thì ít nhưng tội thì
nhiều.
Trên thực tế ban lãnh đạo Đảng CSVN lúc đó đã
phải thừa nhận những sai lầm do họ gây ra và tiến hành sửa sai, đồng thời xử lý
kỷ luật đối với các cá nhân chịu trách nhiệm trong việc chỉ đạo chiến dịch
CCRĐ. Cụ thể là tháng 9 năm 1956 lãnh đạo Đảng CSVN, đã buộc ông Trường Chinh
phải từ chức Tổng Bí thư và cách chức Bộ Chính trị của ông Hoàng Quốc Việt,
cũng như cách chức Ủy viên TW Đảng của ông Hồ Viết Thắng. Đến tháng 10 năm
1956, ông Võ Nguyên Giáp, thay mặt ông Hồ Chí Minh đã phải thừa nhận sai lầm và
phát động chiến dịch sửa sai.
Hậu quả của cuộc CCRĐ ở miền Bắc Việt Nam đã gây
ra nhiều hậu quả vô cùng to lớn cho nền kinh tế và xã hội thời ấy. Có thể nói
CCRĐ đã trở thành một thất bại không chỉ của Đảng CSVN mà là của cả dân tộc
Việt Nam, vì nó đã gây nên bao đau thương tang tóc cho rất nhiều người bị tử
hình một cách vô lý và rất nhiều gia đình do bị đấu tố và xử lý oan sai, với
hơn 70% người đã bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông là do bị quy sai. Và
CCRĐ đã không chỉ giết dã man nhiều người vô tội, kể cả những người đã từng
tham gia hoạt động hay từng hết lòng ủng hộ cách mạng. Điển hình như trường hợp
bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội, người mà trong dịp “Tuần
Lễ Vàng” năm 1946 đã hiến cả trăm lạng vàng cho chính quyền khi mới thành lập.
Không những thế, gia đình bà có con trai một là trung đoàn trưởng một trung
đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam và bản thân bà là mẹ nuôi của các ông Phạm
Văn Đồng, Trường Chinh và Lê Đức Thọ, đã bị mang ra xử lý điểm và bị kết án tử
hình.
Song tội ác lớn nhất của nó là những việc làm mù
quáng của ban chỉ đạo cũng như các cán bộ CCRĐ, như việc khuyến khích con tố
cha, vợ tố chồng, điều đó đã chà đạp lên luân thường đạo lý, phá hoại toàn bộ
nền tảng đạo đức xã hội của người Việt thời ấy đã được xây dựng qua biết bao
thế hệ. Do đó đã có không ít ý kiến cho rằng CCRĐ những năm 1953–1956 ở miền
Bắc là một trong những tội ác chống nhân loại của Đảng CSVN và cần được đưa ra
xét xử ở Tòa án Quốc tế.
Đó chính là lý do trong nhiều chục năm qua, các
thông tin về cuộc CCRĐ hầu như đã bị chính quyền giấu kín, đặc biệt là mặt trái
của cuộc cách mạng long trời lở đất này, hơn thế nữa vấn đề này chỉ được đề cập
đến một cách sơ sài trong hệ thống giáo dục, kể cả sách báo truyền thông của
nhà nước cũng vậy. Vả lại ngay sau khi kết thúc CCRĐ là thời điểm khởi đầu cho
vụ đánh Nhân văn Giai phẩm cũng là một trong những lý do chủ đề CCRĐ rất ít
được sách báo lúc đó đề cập tới. Đó chính là lý do vì sao hiện nay ở Việt Nam,
thế hệ những người ở lứa tuổi 40 trở xuống hầu như rất ít người có hiểu biết về
vấn đề CCRĐ.
Gần đây, sự kiện Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở
Hà Nội khai trương một triển lãm về cải cách ruộng đất, mang tên “Cải cách
ruộng đất 1946-1957″ và vội vã đóng cửa sau và ba ngày khai trương mà không có
lời giải thích lý do một cách minh bạch và rõ ràng. Theo dư luận đánh giá, đây
là lần đầu tiên Việt Nam có triển lãm về sự kiện lịch sử được coi là một trong
những thất bại trầm trọng của Đảng CSVN, với hy vọng để kể công ơn của Đảng
CSVN đối với nông dân. Song do không lường hết được phản ứng của dư luận xã hội
nên cuộc triển lãm này đã gây nên một phản ứng ngược, hại nhiều hơn lợi đối với
Đảng CSVN. Điều mà theo nhà báo Bùi Tín đánh giá rằng, vô tình ban lãnh đạo
Việt Nam đã hé lộ ra tử huyệt của chính bản thân họ và chế độ. Họ đã đánh thức
sự tò mò của dân chúng, để cho quần chúng nhân dân có một lần có dịp để so sánh
tài sản của địa chủ ngày xưa và “đầy tớ nhân dân” thời nay. Và điều quan trọng
là chắc gì đa số người dân hiện nay lại không mong có một cuộc cách mạng long
trời lở đất như CCRĐ lặp lại một lần nữa vào thời điểm bây giờ? Đây chính là lý
do cuộc triển lãm “Cải cách ruộng đất 1946-1957″ phải vội vã đóng cửa.
Vấn đề CCRĐ là vấn đề không ít nhạy cảm mà nhiều
chục năm qua chính quyền Việt Nam không muốn nhắc tới và hầu như nó cũng đã bị
người ta vô tình quên đi. Bây giờ hầu hết những người lớn lên sau CCRĐ, nếu gia
đình họ không có liên quan hoặc không thuộc đối tượng đã bị quy kết, đấu tố
trong thời kỳ CCRĐ thì bản thân họ chẳng mấy quan tâm đến sự kiện lịch sử kinh
hoàng này. Với họ, hầu như những vấn đề về CCRĐ hầu như họ chẳng biết gì, cho
dù trước đây 60 năm trước bản thân ông bà, bố mẹ họ đã từng rất phấn khởi và
ủng hộ cuộc cách mạng này. Song ngược lại, những người là con, cháu của những
người trước đây từng bị quy kết là địa chủ thì lại biết rất rõ và họ không muốn
quên đi sự kiện đau thương này. Đây không chỉ là những ký ức về cuộc đấu tố
kinh hoàng đã xẩy ra với gia đình họ, mà cả những cái đã xảy ra đối với những
người khác cùng cảnh ngộ như họ ở trên mọi miền của đất nước thì họ đều rất
quan tâm và muốn chia sẻ cùng mọi người.
Đó có lẽ là lý do sự ra đời của một loạt các bài
viết về chủ đề CCRĐ gần đây xuất hiện trên mạng internet, đó là các bài như “Mẹ
tôi trong cải cách ruộng đất” của tác giả Trần Mạnh Hảo, “Cải cách ruộng đất
với nhà ông ngoại tôi và nhà tôi ” của tác giả Từ Anh hay “Cuộc hành hình cụ
Nghè Cơ” và “Đám tang Mệ nội tôi, một nghịch lý của CCRĐ” của tác giả Lê Quang
Vinh v.v… đã được các trang mạng đăng tải và loan truyền. Xét về mặt nội dung,
các bài viết mang tính người thật, việc thật như thế đã phần nào giúp làm sáng
tỏ mặt trái của bức tranh CCRĐ mà nhiều người muốn biết, đồng thời cũng giúp
cho ta thấy sự thật và toàn cảnh của cuộc cách mạng đầy kinh hoàng này trong
quá khứ. Đáng chú ý tác giả của những bài viết về chủ đề này là những người
được trực tiếp chứng kiến hoặc nghe kể lại thì tuổi hết thảy cũng đã cao, nếu
như không được nhanh chóng làm công việc này e rằng sẽ lỡ và không có dịp khác
để thực hiện.
Tuy nhiên, các câu chuyện như thế còn quá ít,
chưa thể phản ảnh hết được đầy đủ mặt thật của CCRĐ tại miền Bắc Việt Nam. Do
đó nhân dịp này, thiết nghĩ một số tổ chức XHDS ở trong nước như Phong trào Con
đường Việt Nam, Hội nhà báo Độc lập, Văn đoàn Độc lập… nên biết tranh thủ dư
luận để phát động một cuộc vận động thi viết về chủ đề CCRĐ, trong đó có xếp
hạng và trao giải thưởng cho các bài viết, các tư liệu phản ảnh trung thực các
sự việc, con người đã xảy ra trong giai đoạn CCRĐ 1946-1957 ở Miền Bắc Việt
Nam. Việc làm này không chỉ sẽ giúp cho người dân hiểu rõ hơn về sự thật, đặc
biệt là thấy rõ đâu là mặt trái của cuộc cách mạng long trời lở đất này. Mà nó
còn là nguồn tư liệu mới làm phong phú thêm bức tranh về cuộc CCRĐ. Về nguồn
quỹ để trao giải thưởng sẽ do các tổ chức và cá nhân có hảo tâm đóng góp.
Đây là một việc làm hết sức hữu ích và sẽ gây
tác dụng lớn nếu xảy ra vào thời điểm này, là thời điểm trong lúc chính quyền
đang hết sức lúng túng và bối rồi sau sự kiện triển lãm CCRĐ phải vội vã đóng
cửa. Đặc biệt nó sẽ diễn ra và đáp ứng cuộc vận động “Chúng tôi muốn biết” do
Mạng lưới bloggers Việt Nam vừa phát động.
Nguồn: http://www.ijavn.org/2014/09/nen-van-ong-thi-viet-ve-cai-cach-ruong.html
Xin đừng quên!
Nửa Thế kỷ trước...
Nguyễn Minh Cần -
Có thể bạn đọc sẽ trách tôi: trong dịp đầu năm (1) mà nhắc đến
chuyện quá buồn. Xin các bạn lượng thứ cho! Nhưng chuyện này không
thể không nói đến! Nó cũng khủng khiếp không kém gì chuyện Tết Mậu
Thân (1968). Vậy mà chuyện Tết Mậu Thân chúng ta vẫn phải đành lòng
nhắc đến trong dịp Tết cơ mà!
Cần
phải nhắc đến các tấn bi kịch, các thảm hoạ dân tộc đã qua và hiện
còn đang tiếp diễn dưới nền chuyên chính của Đảng cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN), để mọi người yêu nước thương dân thắp một nén hương cho vong
linh biết bao người vô tội đã ngã xuống, để tưởng nhớ đến bao nhiêu
người oan ức đã chịu những cực hình man rợ phải ngậm hờn mãi mãi,
để nhớ lại biết bao bạo hành của một đảng độc tài đã gây ra trong
quá khứ và trong hiện tại, để mọi người hun đúc ý chí đấu tranh cho
công cuộc dân chủ hoá đất nước. Âu cũng là việc cần lắm thay!
Hơn nữa, ngày nay tập đoàn cầm quyền đang
cố xuyên tạc lịch sử, cố làm mọi cách để dân tộc ta quên đi các tội
ác tày trời của họ, nhất là để các thế hệ mới lớn lên không hề
hay biết gì đến các tội ác đó và những kẻ tội phạm chính danh!
Chuyện tôi muốn nói đến hôm nay là cuộc
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (CCRĐ) đầy kinh hoàng ở miền Bắc Việt Nam, thảm
hoạ khủng khiếp chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Cuộc CCRĐ đã
thực tế bắt đầu diễn ra từ năm 1953, đúng 50 năm trước đây, và kết
thúc năm 1956. Nhưng dư âm và hậu hoạ của nó vẫn còn mãi cho đến tận
ngày nay. Hồi đó, CCRĐ chẳng khác nào một trận bão táp ác liệt đổ
ập xuống miền Bắc Việt Nam gây ra biết bao tàn phá khủng khiếp, biết
bao đảo lộn kinh người, biết bao tang tóc, đau thương cho người dân lương
thiện.
Xuất phát từ đâu mà trận bão táp ghê rợn
đó đã tràn đến cái xứ sở đau thương này? Số là trong chuyến đi bí
mật của ông Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc (hồi cuối năm 1950) đến
Moskva (đầu năm 1951), ông đã gặp Stalin và Mao Trạch Đông (lúc đó đang
có mặt tại Moskva). Hai ông này đã nhận xét là Đảng Việt Nam coi nhẹ
nhiệm vụ phản phong (ý nói hữu khuynh), và chỉ thị phải tiến hành
cách mạng phản phong để “bồi dưỡng động lực cách mạng là nông dân
lao động”, nói cụ thể là phải làm CCRĐ ở các vùng gọi là “giải
phóng”. Sau khi về nước, ông Hồ đã cùng Thường vụ Trung ương (Bộ chính
trị sau này) ĐCS trong hai năm trời bí mật và tích cực chuẩn bị tiến
hành CCRĐ. Chuẩn bị cả về mặt tư tưởng, cả về mặt chính sách, đường
lối, lẫn về mặt tổ chức. Theo sự phân công của Stalin, Trung Quốc sẽ
giúp đỡ cho Việt Nam, nên ông Hồ đã mời các đoàn cố vấn Trung Quốc
đến miền Bắc Việt Nam – tổng cố vấn là La Quý Ba đồng thời là đại
sứ Bắc Kinh tại Việt Nam dân chủ cộng hoà (VNDCCH). Vi Quốc Thanh đứng
đầu đoàn cố vấn quân sự, còn đứng đầu đoàn cố vấn CCRĐ là Kiều
Hiểu Quang, vốn là phó bí thư tỉnh uỷ Quảng Tây. Đó là chưa kể đủ
loại cố vấn khác, như cố vấn chỉnh huấn, cố vấn công an, cố vấn tổ
chức, cố vấn tuyên truyền… Để chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên và quân đội, năm 1952, Bộ chính trị (BCT) Trung ương (TW) Đảng
thực hiện “cuộc chỉnh huấn” trong Đảng và “cuộc chỉnh quân” trong quân
đội, theo đúng mẫu mã “cuộc chỉnh phong” của ĐCS Trung Quốc, chỉ có
cái tên hơi khác một chút mà thôi. Chuẩn bị về mặt tổ chức, BCT TW
đã thành lập Uỷ ban CCRĐ Trung ương (UBCCRĐTW), gồm có Trường Chinh,
Tổng bí thư ĐLĐVN làm chủ nhiệm, hai phó chủ nhiệm là Hoàng Quốc
Việt, uỷ viên BCT và Lê Văn Lương, uỷ viên BCT, còn uỷ viên thường trực
là Hồ Viết Thắng, uỷ viên TW Đảng. Dưới UBCCRĐTW là các đoàn CCRĐ,
dưới các đoàn là các đội CCRĐ. Cả một đạo quân hùng hậu để làm
“chiến dịch” đánh phong kiến!
ĐCS coi CCRĐ là “một cuộc cách mạng long
trời lở đất”, cho nên cần phải “phóng tay phát động quần chúng” để
thực hiện, có nghĩa là phải làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không
khoan nhượng, không thương xót, cho dù có những hành động quá trớn,
quá tả cũng không đáng sợ. Nhiều lãnh tụ cộng sản thường nhấn mạnh
ĐCS là đảng cách mạng thì nhất định phải làm CCRĐ theo tinh thần
“cách mạng”, “cách mạng long trời lở đất”! Họ cao ngạo phê phán các
cuộc CCRĐ hoà bình ở nhiều nước là cải lương chủ nghĩa, tư sản và
phản cách mạng: vì tại các nước đó, chính quyền hạn định mức ruộng
đất tối đa cho điền chủ được có, còn phần thừa thì nhà nước mua lại
để chia cho người ít hay không có ruộng đất. Còn khi giải thích cho cán
bộ mấy chữ “phóng tay phát động quần chúng” khó hiểu này, ông Hồ
đã dùng hình ảnh dễ hiểu sau: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra,
phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới
thẳng được. Hình như ông cũng khoái cái lối giải thích hóm hỉnh ấy,
không nghờ rằng cái tinh thần “quá đi một tí” sau này chính là mối
hoạ lớn cho dân! Các đội, các đoàn CCRĐ được tung về nông thôn. Họ
tung hoành gần như với quyền hạn không hạn chế, họ cảm thấy mình nắm
trong tay quyền sinh quyền sát. Cấp trên đã “phóng tay” cho họ và họ
cũng tự “phóng tay”… Vì thế, trong dân gian thường nói “nhất đội, nhì
Trời”, và các “anh đội” cũng khoái tai khi nghe như thế! Tôi còn nhớ
một lần, thiếu tướng Vương Thừa Vũ, chủ tịch uỷ ban quân quản thành
phố Hà Nội, về quê thăm nhà ở làng Tó (Thanh Oai) thuộc ngoại thành
Hà Nội. Ông bị đội CCRĐ bắt giữ cùng với anh cần vụ (lính hầu) và
xe ô tô, van xin gì cũng không được thả ra. Về sau do một sự tình cờ, chính
quyền Hà Nội biết được mới cho người đến nhận ông về. Đại thần của
chế độ mà còn bị như thế huống hồ dân đen!
Trong năm 1952, BCT TW Đảng lao động Việt Nam
(ĐLĐVN), tức là ĐCS khoác tên mới từ năm 1951, cho làm thí điểm CCRĐ ở
sáu xã thuộc huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Trong lần thí điểm này
có một sự kiện “động trời”: toà án CCRĐ xử tử hình bà Nguyễn Thị
Năm, tức là Cát Thành Long, người mà thời trước cách mạng đã từng
che giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê
Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị, Lê Giản… Còn trong Tuần lễ
Vàng, gia đình bà đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới. Bà đã
hoạt động trong Hội Phụ nữ, lại có con trai đi bộ đội làm trung đoàn
trưởng. Thế mà bà đã bị quy là địa chủ cường hào ác bá, bị đoàn
CCRĐ xử án tử hình, UBCCRĐ TW duyệt y và BCT TW ĐLĐVN cũng chuẩn y!
Những người lãnh đạo cộng sản trong BCT và đứng đầu chính phủ đã
từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch
nước, Tổng bí thư, uỷ viên BCT, Thủ tướng, phó thủ tướng đã lạnh
lùng chuẩn y một cái án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ
nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những
người cộng sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các
lãnh tụ cộng sản! Nó báo hiệu trước những tai hoạ khôn lường cho
toàn dân tộc!
Năm 1953, thực tế là năm bắt đầu tiến
hành CCRĐ, năm ĐCS chuẩn bị toàn bộ đường lối, chính sách và “luật
pháp hoá” các chính sách của Đảng bằng quyết nghị của Quốc hội,
sắc lệnh và nghị định của Chính phủ, thông tư của các bộ. Dựa trên
tài liệu chính thức của ĐCS, tôi xin ghi lại những cái mốc lịch sử
đau thương của dân tộc ta trong cuộc CCRĐ đẫm máu và nước mắt này:
- Cuối tháng 01.1953 – hội nghị lần thứ tư
của TW ĐLĐVN để thông qua bản Dự thảo cương lĩnh Đảng về chính sách
ruộng đất. Tại hội nghị, ông Hồ đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ triệt
để giảm tô, tiến tới CCRĐ.
- Đầu tháng 03.1953 – Hội đồng Chính phủ
họp thảo luận báo cáo của Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng về mục đích,
phương châm, kế hoạch phát động quần chúng. Hội đồng Chính phủ đã
thông qua các văn bản về chính sách ruộng đất và phát động quần
chúng, tức là đã “luật pháp hoá” nghị quyết của TW Đảng.
- 01 – 05.03.1953 – báo Nhân Dân đăng tải bài
“Chỉnh đốn chi bộ” của uỷ viên Bộ chính trị ĐLĐVN, trưởng ban tổ chức
TW Lê Văn Lương, người trực tiếp phụ trách cuộc Chỉnh đốn tổ chức
trong CCRĐ, và ngày 16.03.1953 – Chính phủ VNDCCH ra thông tư về việc
chỉnh đốn chính quyền cấp xã qua việc phát động quần chúng. Đây là
những hướng dẫn cho việc gắn liền cuộc Chỉnh đốn tổ chức với CCRĐ,
với tinh thần “không dựa vào (thực tế là đánh vào – Người viết) tổ
chức cũ mà lập nên tổ chức mới” ở nông thôn!
- 12.04.1953 – Chính phủ VNDCCH ra ba sắc
lệnh: 1/ sắc lệnh quy định chính sách ruộng đất, trong đó có việc
tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất chia cho nông dân; 2/ sắc lệnh
quy định việc thành lập Toà án nhân dân ở những nơi phát động quần
chúng; 3/ sắc lệnh quy định việc trừng trị những địa chủ ở những
nơi phát động quần chúng tiến hành CCRĐ.
- 01.06.1953 – báo Nhân Dân đăng bài về
Chương trình CCRĐ.
- Tháng 06.1953 – ĐLĐVN tổ chức cái gọi là
“đợt chỉnh huấn chính trị” để nâng cao lập trường giai cấp cho cán bộ
đảng viên trong cuộc đấu tranh CCRĐ.
- 14.11.1953 – hội nghị TW lần thứ năm và
Hội nghị toàn quốc của ĐLĐVN để quyết định tiến hành CCRĐ. Ông Hồ
đã phát biểu ý kiến tại hội nghị nhấn mạnh phải “phóng tay phát
động quần chúng tiến hành CCRĐ”.
- 01–04.12.1953 – kỳ họp thứ ba của Quốc
hội khoá 1, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo “Tình hình trước mắt và
nhiệm vụ CCRĐ” và ngày 04.12.1953 – Quốc hội nhất trí thông qua Luật
CCRĐ. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh ban hành Luật CCRĐ
do Quốc hội thông qua.
Từ đó, bắt đầu các đợt CCRĐ, mà đợt đầu
tiến hành ở 47 xã tỉnh Thái Nguyên và 6 xã tỉnh Thanh Hoá, sau đó
lan tràn trên khắp miền Bắc, trừ các vùng miền núi. Đợt năm là đợt
cuối cùng, phần lớn diễn ra ở các xã đồng bằng Bắc bộ và các
vùng bị Pháp chiếm trước đây. May mắn cho đồng bào miền núi, vì ĐLĐVN
chủ trương sau khi hoàn thành CCRĐ ở vùng đồng bằng mới làm ở miền
núi. Do sự phẫn nộ của quần chúng đã bùng lên dữ dội, nhiều cuộc
nổi dậy của nông dân đã nổ ra ở Quỳnh Lưu, Phát Diệm, nên về sau, TW
ĐLĐVN chỉ tiến hành cái gọi là “cải cách dân chủ” ở miền núi,
nghĩa là dẹp bỏ phong kiến địa phương (tức là các phía tạo) mà không
dùng bạo lực quá mạnh vì sợ dân chúng chạy sang Trung Quốc, Lào… Còn
ở huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị, vì nằm sát giới tuyến, tiếp giáp
Việt Nam Cộng hoà, nên cũng được chiếu cố, nghĩa là dùng bạo lực
vừa phải “để không gây ảnh hưởng xấu đến miền Nam”.
- Tháng 09.1956 – hội nghị lần thứ 10 của
TW ĐLĐVN kiểm điểm tình hình CCRĐ. Do ảnh hưởng của đại hội lần thứ 20
ĐCS Liên Xô vạch trần những tội ác của Stalin, do sự bất mãn trong dân
chúng, cộng thêm sự phản ứng khá mạnh của cán bộ, TW Đảng buộc
phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ và chủ trương sửa
sai. Tại hội nghị, TW đã thi hành kỷ luật như sau: Trường Chinh mất
chức Tổng bí thư, chỉ còn làm uỷ viên BCT, còn Hoàng Quốc Việt và Lê
Văn Lương mất chức uỷ viên BCT, Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi TW ĐLĐVN.
Ông Hồ Chí Minh kiêm nhiệm Tổng bí thư, còn Lê Duẩn làm bí thư TW,
thường trực BCT.
- 29.10.1956 – mít tinh lớn tại Nhà Hát Nhân
dân Hà Nội, uỷ viên BCT đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch
Hồ Chí Minh và TW ĐLĐVN chính thức công nhận những sai lầm nghiêm trọng
trong CCRĐ. Nhân đây, xin nói rõ: một vài người viết không đúng là
cuộc mít tinh tổ chức tại sân vận động Hàng Đẫy và ông Hồ đã đến
dự và khóc trước dân chúng. Hà Nội được giao cho việc tổ chức mít
tinh nên tôi biết rõ. Hồi đó, chúng tôi được giải thích: “Bác đến
không tiện”, nhưng chúng tôi đều hiểu là ông Hồ muốn đưa ông Giáp ra
“chịu trận” thay mình, nên không hề có việc ông Hồ khóc trước dân
chúng.
*
Ở hải ngoại, cho đến nay cũng đã có một
số tài liệu nói đến những bạo hành, những tội ác trong CCRĐ, cuốn
sách nói về đề tài này khá kỹ ra mắt sớm nhất (1964, bằng tiếng
Anh) là cuốn “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản” của ông Hoàng Văn Chí. Còn ở trong nước
thì đến nay, chưa có một công trình nghiêm túc nào nghiên cứu, chưa ra
một tiểu thuyết nào viết riêng về đề tài CCRĐ. Tại sao? Dễ hiểu là
sau khi bị bắt buộc phải thừa nhận những sai lầm trong CCRĐ, BCT TW
Đảng ra lệnh miệng tuyệt đối cấm không được nói đến đề tài này.
Người đầu tiên “vi phạm” tabou “thiêng liêng” đó là nhà văn Hà Minh Tuân
– anh đã viết lướt qua rất nhẹ nhàng đến đề tài cấm kỵ đó trong
tác phẩm “Vào Đời”. Tức thì Nguyễn Chí Thanh hô hoán lên là
“tư tưởng địa chủ ngóc đầu dậy”, và anh bị hành hạ hết nước. Từ
đó mọi người ai cũng im re, “lo giữ cái đội nón của mình” (nhóm từ
thông dụng hồi đó có nghĩa là giữ đầu mình)… Mãi sau này, chỉ có
vài nhà văn rụt rè mon men đến đề tài đó mà thôi. Hy vọng rồi đây
sẽ có nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu trong nước vượt qua nỗi sợ
“truyền kiếp”, dám đề cập đến đề tài đau thương này một cách nghiêm
túc và toàn diện.
Nếu nói về những tội ác trong CCRĐ, theo
tôi, cần nêu bật mấy loại chính sau đây.
Thứ nhất. Tội tàn sát thường dân vô tội –
tội ác chống nhân loại. Người nông dân Việt Nam hiền hoà,
chất phác đang làm ăn sinh sống và hết lòng đóng góp vào cuộc kháng
chiến chống Pháp, bỗng dưng ĐCS giáng cho họ một đòn chí mạng. ĐCS
nói rằng CCRĐ là một cuộc cách mạng để thực hiện ước mơ muôn đời
của nông dân: “người cày có ruộng” – nhưng thực tế thì không phải như
vậy, thực tế là nông dân bị đánh đòn chí mạng! Tầng lớp năng nổ,
giỏi giang biết làm ăn nhất ở nông thôn thì bị quy là địa chủ, phú
nông, thậm chí cường hào ác bá, bị triệt hạ hết đường sinh sống,
còn một loạt cán bộ ở nông thôn đã từng chịu đựng gian khổ làm
nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến, sản xuất thì bỗng nhiên bị quy là
phản động, gián điệp, Việt gian, v.v… bị trừng trị, nhiều người bị
bắn giết vô cùng man rợ. Ngay cả nhiều người trung nông, thậm chí một
số bần nông cũng “bị kích lên” làm địa chủ cho đủ cái tỷ lệ quái
gở 5% địa chủ (so với dân số thôn xã!) và họ phải cam chịu cái số
phận mà ĐCS dành cho địa chủ. Cái tỷ lệ quái gở 5% đó lại kèm thêm
những “kết luận” quái đản khác: đã có địa chủ, tất phải có cường
hào ác bá! Thế là người dân chịu chết! Biết bao nỗi oan khuất không
thể nào kể hết. Cái phương châm “thà sai hơn là bỏ sót”, cộng thêm
với việc “thi đua lập thành tích đánh phong kiến” đã gây ra tình trạng
“kích thành phần”, “nống thành tích” cố tìm ra nhiều địa chủ, phản động,
xử tử nhiều ác bá… để có được bằng khen, huân chương, để ngoi lên
địa vị cao hơn… càng làm cho nỗi khổ đau của người dân tăng lên nhiều
gấp bội! Chỉ xin dẫn vài chuyện mà thôi.
Một anh bạn đi làm CCRĐ ở Khu Bốn kể lại.
Ở Khu Bốn, hồi đó ai cũng biết danh Chu Văn Biên, bí thư Khu uỷ, và
Đặng Thí, phó bí thư khu uỷ, khét tiếng hiếu sát trong CCRĐ, họ đều
là trưởng và phó đoàn CCRĐ. Thậm chí trong dân gian lưu truyền bài vè
có câu “Giết người nổi tiếng gã Chu Biên”. Anh bạn tôi kể chuyện Đặng Thí ký hai án
tử hình trên ghi đông (guidon) xe đạp! Chuyện như sau: một đội tới làm CCRĐ
ở một xã nghèo ở Nghệ An, quê hương của ông Hồ Chí Minh và Hồ Viết
Thắng, tìm mãi mà không thể quy ai là địa chủ được (những ai đã từng
đến tỉnh này đều biết cảnh nghèo chung của dân chúng ở đây). Đặng
Thí “đả thông tư tưởng” là cố vấn Trung Quốc dạy rồi phải có 5% địa
chủ. Đội sợ trên “đì”, tính ra cả làng từng này hộ, từng ấy nhân
khẩu, thôi thì cũng buộc phải kiếm ra năm địa chủ. Tưởng thế là xong,
nào ngờ khi báo cáo lại cho Đặng Thí thì… Liếc mắt qua không thấy có
danh sách “lên thớt”, bực mình Thí mới xạc cho “anh đội” một trận: “Có
địa chủ mà không bắn thằng nào cả à?” và ném cả tập giấy vào mặt
đội trưởng. Cuối cùng thì đội cũng lọc ra được “hai địa chủ để bắn”
vội chạy lên đoàn báo cáo. Giữa đường gặp Đặng Thí đang đi xe đạp,
tay đội trưởng đưa báo cáo và danh sách bắn hai người. Thí còn đang
vội, vẫn ngồi trên yên xe, chẳng thèm xem hết nội dung, đặt “đơn đề
nghị bắn hai người” lên ghi đông xe đạp, mở vội xà cột (sacoche), rút
bút ký toẹt vào. Xong rồi Thí đạp xe đi thẳng.
Một ông bạn làm việc ở Viện Khoa học
Việt Nam đã đi làm CCRĐ kể lại chuyện thương tâm này. Đội mà ông bạn
có chân về một làng nghèo ở Thái Bình, không thể nào tìm đâu ra đủ
số địa chủ, và cũng không thể nào tìm ra địa chủ ác bá để bắn. Họ
lo lắm. Thế là họ đưa một ông chăn vịt vào danh sách bị bắn! Làng
nào cũng thế thôi, mấy ông “gột vịt” (ấp trứng nuôi vịt con) chẳng
bao giờ được dân làng ưa cả, vì lùa vịt con xơi thóc lúa của dân, thế
mà lại hay to mồm cãi lại, gây gổ. Thế là “đủ yếu tố cấu thành
tội”, trong đó có tội “bị dân làng ghét cay ghét đắng”. Địa chủ bóc
lột thóc của nông dân, vịt cũng ăn cướp thóc của nông dân, vịt không
thể bắn được thì chủ nó phải chịu thay! Ai cũng vui vẻ cả. Ông bạn
biết là sai nhưng không dám mở miệng khi “cỗ máy nghiền thịt” của
Đảng đã khởi động rồi!
Cho đến nay, không ai biết số người bị quy
oan, bị tù oan và bị giết oan là bao nhiêu vì ĐCS giấu tịt. Những con
số mà nhiều người đưa ra chỉ là ước đoán. Hồi cuối năm 1956, khi tôi
được Thành ủy Hà Nội giao cho trách nhiệm sửa sai CCRĐ ở ngoại thành
Hà Nội. Vì tính chất quan trọng của việc đó ở thủ đô, nên ông Võ
Nguyên Giáp được BCT phân công giúp đỡ việc sửa sai ở Hà Nội. Vì thế,
thỉnh thoảng tôi đến nhà ông Giáp làm việc. Đôi khi chúng tôi cũng
nói chuyện với nhau về những vấn đề chung. Một hôm tôi hỏi thẳng ông:
trong CCRĐ có bao nhiêu người bị oan. Ông Giáp nói hai vạn. Lúc đó tôi
không dám hỏi thêm cụ thể hơn – thế thì bao nhiêu người bị chết oan, vì
tôi biết là mình đã đụng đến vấn đề cấm kỵ nhất của Đảng. Cho đến
nay, tôi không biết con số mà ông Giáp nói với tôi có thật hay không,
nhưng hôm đó ông trả lời tôi tức thì, không nghĩ ngợi gì, nên tôi cũng
có phần tin. Còn số người bị hành quyết trong CCRĐ và Chỉnh đốn tổ
chức thì tôi ước đoán là chừng năm-sáu nghìn người (2). Đó là chưa kể
nhiều người bị chết vì các lý do khác, như tự tử trước khi xét xử,
chết khi bị tra của hay bị giam cầm ở xã, chết trong tù, người nhà
địa chủ chết đói do bị bao vây, v.v… Tại cuộc mít tinh tối 29.10.1956,
ông Võ Nguyên Giáp chỉ cho biết con số 12 nghìn cán bộ và đảng viên
đã được trả tự do mà thôi! Con số đó đúng hay không, ai mà biết
được! Tóm lại, những con số về người bị thiệt mạng trong CCRĐ vẫn
chưa xác định được. Dù thế chăng nữa, với những con số ước tính đã
cho thấy đây là một tội ác tày trời. Tội ác này chính là tội ác
chống nhân loại!
Còn chuyện “sửa sai” thì cũng chỉ là một
lối “tung hoả mù” chủ yếu để làm dịu đi phần nào nỗi công phẫn dữ
dội của dân chúng, tránh những cuộc bùng nổ bất lợi cho Đảng mà
thôi. Chúng tôi đã từng đi làm sửa sai nên biết khá rõ. Có nhiều cái
sai không thể nào “sửa” được. Bắn giết người ta, làm què quặt thân
thể, làm tổn hại tâm thần người ta (có không ít người bị điên, bị
mất trí, bị lẩn thẩn), làm gia đình người ta tan vỡ… thì chỉ có Trời
mới sửa được! Ngay cả những việc tưởng chừng không khó sửa lắm,
nhưng cũng không thể sửa nổi, chẳng hạn, gia đình bị quy là địa chủ,
nhà cửa bị tịch thu chia cho mấy hộ nông dân, khi được xét là quy oan
phải trả lại nhà cho người chủ cũ. Nhưng, khi biết là phải trả lại nhà,
các ông bà nông dân bèn cạy gạch, cạy cửa, dỡ ngói, rút rui mè, cất
giấu hết, phá phách gần như tan nát cả ngôi nhà họ đang ở. Nên cái
nhà được trả lại đâu còn nguyên vẹn như trước. Còn các “quả thực”
khác khi đã chia rồi thì sửa sai làm sao được! Thóc lúa, nông dân ăn
hết, bán hết rồi (hoặc khai như thế), nông cụ bị tiêu tán hết (hoặc
khai hư hỏng rồi), thì lấy gì mà trả lại cho người ta. Đó là không
nói đến những quan hệ tình cảm đã bị tổn thương, giữa vợ chồng,
giữa anh em, giữa họ hàng, giữa thầy trò, giữa hàng xóm, láng giềng
thì chẳng làm gì được, ngoài việc khuyên nhủ chung chung. Trong sửa sai
chỉ có việc này làm được là trả tự do cho những người bị tù oan.
Còn việc khôi phục lại chức vụ cho một số cán bộ đã bị đấu tố
cũng đã thực hiện, nhưng cũng không giản đơn vì quan hệ khá phức tạp
giữa cán bộ mới với cán bộ cũ.
Nhân thể cũng xin nói thêm, khi hội nghị
lần thứ 10 của TW ĐLĐVN hồi tháng 09.1956, TW buộc phải thừa nhận
những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ, người ta cũng đổ lỗi một phần
cho cấp dưới đã thi hành sai, chứ TW Đảng không nghiêm khắc tự phê
phán mình, họ vẫn coi “đường lối của TW về cơ bản là đúng”, chỉ có
“việc tổ chức thực hiện không đúng” mà thôi. Họ vẫn khư khư khẳng
định: CCRĐ dù có sai lầm “nhưng về cơ bản vẫn giành được thắng lợi
lớn”. Điều đó nói lên sự giả dối, nguỵ biện, sự không thực lòng
hối hận của họ. Thế thì làm sao mà Đảng sửa sai được?! Còn cái gọi
là thi hành kỷ luật với các ông lãnh đạo CCRĐ cũng chỉ là trò hề
“giơ cao đánh khẽ” để lừa dối dư luận mà thôi. Trường Chinh mất ghế
Tổng bí thư, nhưng lại vẫn là uỷ viên BCT, chuyển sang ngồi ghế Chủ
tịch Quốc hội, lại phụ trách công tác tư tưởng, rồi chính ông ta đã
cùng Tố Hữu bày ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm đàn áp quyết liệt anh chị
em trí thức ưu tú, khao khát tự do, làm bao văn nghệ sĩ tài ba bị tù
đày, bị đàn áp, bị treo bút trong hàng mấy chục năm trời, đánh một
đòn nặng nề vào nền văn học miền Bắc, làm nó bị thui chột trong
nhiều thập niên. Hoàng Quốc Việt (một người nổi tiếng “ác liệt
nhất” chẳng những trong CCRĐ mà trong nhiều vụ trước nữa, chẳng hạn,
vụ H122 xảy ra trong kháng chiến chống Pháp, ông phụ trách xét vụ
này, đã bắt giam nhiều cán bộ, phần đông là cán bộ quân đội, và
làm chết oan nhiều người), bị đưa ra khỏi BCT thì lại trao chức vụ
Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao là chức vụ nắm quyền sinh quyền
sát con người, Lê Văn Lương chịu trách nhiệm về Chỉnh đốn tổ chức đã
làm cho nhiều cán bộ đảng viên ở xã bị bắn giết, bị tù đày, phải
ra khỏi BCT thì sau này lại được đưa về làm bí thư Thành uỷ Hà Nội,
còn Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi TW Đảng thì lại cho làm uỷ viên
thường trực Uỷ ban Kế hoạch nhà nước! Trái lại, người ngoài Đảng
mà dám thẳng thắn phát biểu ý kiến với ĐCS, cho dù nhẹ nhàng chăng
nữa, như trường hợp luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài tham luận tại
hội nghị Mặt trận Tổ quốc phê phán cuộc CCRĐ và đưa ra những đề
nghị hợp lý thì Đảng trù dập ông, dồn ông vào cảnh khốn cùng cho
đến chết! Và thử hỏi có bao giờ TW Đảng thành thực sám hối về
những sai lầm, những tội ác của mình hay không?
Chẳng những không sám hối mà cả cho đến
ngày nay, ĐCS vẫn cứ nói lấy được là CCRĐ đã giành được thắng lợi
lớn: “thực hiện ước mơ nghìn đời” của nông dân - đem lại ruộng đất cho
người cày. Đây là một sự dối trá trắng trợn. Vì ruộng đất nông dân được
chia thì một phần đáng kể là của những người bị quy oan, khi sửa sai
cuối cùng phải trả lại. Phần ruộng đất chia còn trong tay nông dân,
họ chưa kịp được hưởng gì trên mảnh đất được chia đó thì năm 1957-1958,
ĐCS đã bắt đầu lùa họ vào hợp tác xã để tập thể hoá nông nghiệp,
nghĩa là họ không còn làm chủ ruộng đất của họ! Vả lại, xét cho
cùng, “đem lại ruộng đất cho người cày” đâu có phải là mối quan tâm
chính yếu hay là mục đích tối hậu của Đảng? Cho nên đến khi sửa đổi
Hiến pháp sau ngày thống nhất đất nước, bằng một điều khoản mới
trong Hiến pháp, Đảng đã nhẹ nhàng quốc hữu hoá toàn bộ ruộng đất
trong cả nước! Thế thì làm sao có thể nói là Đảng “đem lại ruộng
đất cho người cày” được?! Quả thật là người nông dân chịu bao nhiêu
đau thương tang tóc cuối cùng chẳng được gì cả!
Thứ hai. Tội phá hoại truyền thống tốt
đẹp mấy nghìn năm của dân tộc. Truyền thống hòa hiếu, thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau ở nông thôn Việt Nam được dân tộc ta xây dựng hàng
nghìn năm đã bị ĐCS phá vỡ trong vòng ba-bốn năm CCRĐ. Nếu ai đã từng
sống ở nông thôn Việt Nam trước “cách mạng”, trước CCRĐ đều cảm nhận
cái tinh thần “đùm bọc nhau”, “lá lành đùm lá rách” còn khá đậm đà
trong mối quan hệ giữa người với người. Cố nhiên, không ai nói là ở
các làng quê không có những kẻ bóc lột, nhưng tinh thần chung ở nông thôn
ta là như vậy. Với cái chính sách “phân định thành phần giai cấp”, ĐCS
chia cư dân nông thôn thành cố nông, bần nông, trung nông (có ba loại,
trung nông yếu, trung nông vừa, trung nông cứng), phú nông (có hai loại,
phú nông thường, phú nông ngấp nghé địa chủ – đây là “sáng kiến” của
người chấp hành để khi cần thì dễ “kích” họ lên địa chủ, chứ trong
chính sách thì không chia ra), địa chủ (có mấy loại, địa chủ yêu nước
và kháng chiến, địa chủ thường, địa chủ cường hào ác bá, địa chủ
phản động). Sự phân chia có vẻ “khoa học” lắm, nhưng khi thực hiện thì
tất cả đều do cảm tính chủ quan, do nhu cầu của “đội” (khi trên bắt
phải đủ 5% địa chủ, bắt phải có ác bá, phản động để bắn, thì cứ
phải “kích” lên cho đủ số), do ý muốn chủ quan của “ông đội” (nhiều
khi ý muốn đó rất quái đản, như khi thấy thái độ của đương sự có
vẻ ngang bướng thì cứ “kích” lên cho bõ ghét). Về nguyên tắc, muốn phân
định thành phần thì phải “tố khổ”, phải “tố” nhau, vạch nhau ra để
“xếp” thành phần. Với lối xúi giục, cưỡng ép người dân tố giác lẫn
nhau rất phổ biến trong CCRĐ, nên từ đó họ chia rẽ nhau, thù ghét
nhau. Cũng có nhiều người lúc đầu không muốn “tố” ai hết vì không
muốn làm trái lương tâm, nhưng ai không chịu “tố” thì bị đội CCRĐ coi
là chưa “dứt khoát”, “có liên quan”, v.v… cuối cùng thì ai cũng tham gia
vào cuộc “tố” lẫn nhau để giữ mạng mình. Đây là số đông. Nhưng cũng
có không ít những kẻ hoặc vì tư thù, hoặc vì muốn trục lợi, “tố
điêu”, “tố láo” để ngoi lên làm “rể”, làm “cốt cán”, làm cán bộ, để
được chia “quả thực” nhiều hơn. Mà thường cái đám người này nghèo
túng vì lười biếng, vì rượu chè, cờ bạc, có khi là những phần tử
lưu manh, nhưng thường lại được đội coi như là bần cố nông để dựa, o
bế, sử dụng nhằm… hoàn thành nhiệm vụ của đội. Một điều kỳ quái
cần nói nữa là: mọi lời “tố” của nông dân đều không cần bằng chứng,
hơn nữa mọi lời “tố” của họ đều được coi là bằng chứng, đều được
ghi vào hồ sơ tội trạng! Không cần có bất cứ một sự kiểm chứng nào
hết! “Lý luận” chung hồi đó là “phải tin tưởng ở quần chúng”, “nông
dân lao động đã nói là đúng”. Thế là không còn ai cãi được nữa!
Chính vì thế, khi đội cần “đánh vào” bí thư hay chủ tịch uỷ ban kháng
chiến trước ở vùng tạm bị chiếm, nay bị coi là tổ chức cũ, mà có
một ai đó “tố” là “chúng nó họp Quốc Dân Đảng” thì bị “lên hồ sơ”
ngay là “bí thư Quốc Dân Đảng”, và anh ta khó tránh khỏi cái án tử
hình! Một nông dân “tố” một người bị “kích” lên địa chủ là “hồi kháng
chiến, khi máy bay địch tới, tôi thấy hắn nhìn lên trời và chỉ chỏ
cái gì đó”, tức thì bị quy ngay là “gián điệp” và số phận anh ta coi
như là “đi đứt”! Có thể là thế hệ mới lớn lên, nhất là những người
đang sống ở các nước dân chủ tiên tiến, thì khó mà tin là đã có
những chuyện như thế. Khốn thay đó lại là sự thật đắng cay đã từng
xảy ra trong lịch sử nước nhà!
Tóm lại, CCRĐ làm cho nội bộ nông dân chia
rẽ trầm trọng, làng xóm đảo lộn lung tung! Đến khi ĐCS tuyên bố sửa
sai thì tình hình nông thôn lại cực kỳ hỗn loạn: những vụ ẩu đả, đâm
chém, trả thù nhau giữa những người bị “tố oan” với những kẻ “tố
điêu”, giữa những người bị tước đoạt tài sản với những người được
hưởng “quả thực”, giữa cán bộ cũ bị quy kết phản động và bị tù
tội với cán bộ mới “ngoi lên” trong CCRĐ… Di sản nghìn năm rất đáng
quý mà cha ông ta đã để lại là tinh thần đùm bọc, hòa hiếu nhau của
người dân nông thôn miền Bắc đã bị phá huỷ từ ngày CCRĐ. Lẽ nào đó
không phải là một tội ác?
Thứ ba. Tội phá hoại đạo lý, luân thường
của dân tộc. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chưa bao giờ đạo lý làm
người bị đảo điên một cách quái đản như trong CCRĐ. Các đội CCRĐ không
từ một cách nào hết để “tìm ra địa chủ”, “tìm ra phản động”, “tìm ra
của chìm”, họ ép buộc con cái “đấu tố” cha mẹ, con dâu “đấu tố” bố
mẹ chồng, con rể “đấu tố” bố mẹ vợ, vợ “đấu tố” chồng, anh em “đấu
tố” lẫn nhau, trò “đấu tố” thầy, kẻ hàm ơn “đấu tố” người đã làm
ơn, láng giềng hàng xóm “đấu tố” lẫn nhau! (Cũng có trường hợp cha
mẹ bấm bụng khuyên con cái “đấu tố” mình để mong cứu mạng cho con
cái). Thật là một tấn bi kịch hãi hùng! Những người bị quy là địa
chủ ngay lập tức bị tước mọi quyền làm người, bị hạ nhục, bị chà
đạp, ngay lập tức phải thay đổi cách xưng hô trước nông dân, phải cúi
đầu lễ phép “thưa các ông, các bà nông dân”, phải xưng “con” trước mặt
nông dân, dù đó chỉ là một đứa trẻ con. Còn nông dân thì tha hồ gọi
người kia là “thằng kia”, “mụ kia”, “con kia”, là “mày”, “chúng bay” và
tự xưng là “tao”, “chúng tao”, thậm chí có thể chửi mắng, xỉ vả.
Chẳng ai dám làm trái lại cái “lệ mới” đó – đội tuyên bố phải đối
xử như thế mới “nâng cao uy thế nông dân”, mới “đánh gục giai cấp địa
chủ” được! Không làm thế là “bênh địa chủ”, “mất lập trường giai
cấp”, thậm chí “có liên quan với địa chủ”! Ngay cả đứa bé con cũng
có thể mắng mỏ, sỉ nhục người lớn đã bị quy là địa chủ. Những
người này, dù là thứ bậc thế nào trong họ tộc cũng đều bị bà con họ
tộc xa lánh, để không “bị liên quan”. Còn khi hành quyết người bị án
tử hình thì những người thân thích, ruột thịt của người ấy, từ già
cả cho đến trẻ con, đều bắt buộc phải có mặt để chứng kiến tận
mắt cảnh tượng hãi hùng đó! Đúng là sự khủng bố tinh thần cực kỳ
vô nhân đạo!
Một tình trạng thương tâm nữa là nhiều gia
đình ở nông thôn (và cả ở thành phố có liên hệ với nông thôn) đã tan
vỡ, con cái bơ vơ, vì khi một trong hai người có gia đình bị quy (hoặc
bị kích lên) thành phần địa chủ, bị gán tội phản động, thì bên kia,
tức là vợ hay chồng, sợ liên luỵ phải bỏ nhau. Nhiều người đi lập
gia đình khác, có con hoặc chưa có con với chồng hay vợ mới. Đến sau
này thấy sai, người bị bắt đi tù này được trở về, thế là bao nhiêu
chuyện rắc rối xảy ra đến nỗi Bộ tư pháp VNDCCH phải ra thông tư ngày
19.04.1956 để “giải quyết những vụ vợ chồng bỏ nhau”. Thật là mỉa
mai, người ta cho rằng có thể hàn gắn được tình cảm yêu thương trong
gia đình đã bị thương tổn nặng nề bằng một tờ thông tư vô hồn của Bộ
tư pháp! Tình yêu của nam nữ cũng bị xâm phạm nghiêm trọng giống hệt
như thế – để giữ lập trường giai cấp ai cũng phải cắt đứt với người
yêu thuộc thành phần địa chủ, phản động!
Đây cũng là một nét về đạo đức nữa cần
phải nói đến. Chưa bao giờ sự giả dối trắng trợn được đề cao như
trong CCRĐ. Chẳng cần phải nói tới việc các “anh đội”, “chị đội” báo
cáo láo cho đoàn, vì nó quá thường, mà cái cần vạch ra ở đây chính
là người ta ép buộc, khuyến khích người nông dân nói dối, làm láo.
Dần dà rồi người nông dân cũng thấy cần phải nói dối, làm láo để
“qua khỏi cái đận CCRĐ”, họ cũng “tố bậy”, “tố điêu” dù trong thâm tâm
biết mình đang nói dối, vu khống. Cũng có người cố giữ lương tâm trong
sạch, nhưng thường họ phải trả giá đắt cho điều đó. Cho nên cơn dịch
dối trá cứ lan tràn. Đội cũng dạy thêm cho nông dân quen làm những
việc giả dối, chẳng hạn như dặn họ: khi thấy trên màn ảnh xuất hiện
hình địa chủ thì phải hô “đả đảo”, hay vừa hô vừa ném đá vào hình
địa chủ để tỏ lòng uất hận của mình. Thế là nông dân cũng làm theo.
Tất nhiên, cũng không loại trừ cái hiện tượng gọi là “tâm lý đám
đông”, khi người ta hành động như trong một cơn lên đồng tập thể. Chẳng
hạn, mỗi lần chiếu phim “Bạch Mao Nữ” của Trung Quốc, thì có nhiều
người khóc nức nở, và khi xuất hiện hình địa chủ là bên dưới ào ào
ném đá vào màn ảnh. Chính vì thế, các diễn viên kịch thường từ chối
lên sân khấu đóng vai địa chủ vì sợ vỡ đầu sứt trán.
Chủ trương của UBCCRĐTW là trong các cuộc
đấu địa chủ, nhất là địa chủ cường hào ác bá đều phải chuẩn bị
rất chu đáo để ra “đấu trường” không được vấp váp. Thế là trước
ngày đấu, mọi “rễ”, “chuỗi”, dân quân, công an, toà án, chủ tịch
đoàn… đều phải “diễn tập” như thật, ai lên “đấu” trước, ai lên “đấu”
sau, “tố” thế nào, xỉa xói ra sao, nói gì, khi nào người “tố” phải
cảm động khóc lóc, khi nào người dân phải hô “đả đảo” (khi người bị
“tố” không nhận tội…), lúc nào thì bắt địa chủ quỳ (quỳ là biểu
hiện của sự “bị đánh gục”!), lúc nào thì “hoan hô” (khi toà tuyên án
tử hình, tịch thu tài sản…). Chủ tịch đoàn những cuộc đấu lớn đều
là “rễ”, “chuỗi”, cốt cán mới đào tạo trong vài tháng, nói năng
ngượng nghịu, lúng ta lúng túng, điều khiển thế nào nổi, nên khi ra
“đấu trường”, thường “anh đội”, “chị đội” phải ngồi sau lưng nhắc, như
người nhắc tuồng (souffleur) ở rạp hát! Cũng có khi nhắc mãi không
được, chủ tịch đoàn cuống lên, thì “anh đội” giật micro và điều khiển
luôn. Tóm lại, một sự diễn kịch, một trò giả dối lố bịch, trắng
trợn, mà không hề biết ngượng! Nhưng cái nguy hại chính là sự giả
dối đó cứ thấm dần vào tiềm thức cán bộ và người dân, tạo nên một
nếp sống giả dối vô đạo đức của nhiều người!
Thứ tư. Tội phá huỷ truyền
thống tâm linh và văn hoá của dân tộc. Bằng cuộc CCRĐ, ĐCS cố tình triệt hạ các
tôn giáo và truyền thống tâm linh của dân tộc. Trước CCRĐ, các nhà
thờ Thiên Chúa giáo, các tu viện, nhà cô nhi… đều có ruộng đất riêng,
các Chùa có ruộng hậu do tín chủ cúng cho chùa, các nhà thờ họ có
ruộng họ, các đình có ruộng làng… để lo việc sửa sang, tu bổ nhà
thờ, chùa, đình, cúng tế hàng năm, việc từ thiện, v.v… và để nuôi
sống các linh mục, tu sĩ, tăng ni và những người chuyên lo việc trông
nom, thờ phụng… Nhờ thế hoạt động tôn giáo, tâm linh, từ thiện được
tiến hành bình thường không có trở ngại. Nhưng với chính sách CCRĐ của
ĐCS, tất cả các ruộng đất đó đều nhất loạt bị coi là ruộng đất
phong kiến và bị trưng thu để chia cho nông dân. Với cái đòn độc địa
đó, tất cả các nhà thờ, tu viện, nhà cô nhi, chùa chiền, điện thờ,
miếu mạo, nhà thờ họ, đình… đều trở nên điêu đứng và dần dần tàn
tạ. Riêng đối với nhà thờ Thiên chúa giáo, do phong trào giáo dân ồ
ạt di cư vào Nam, nên về sau Đảng đã phải để lại cho các nhà thờ
một ít ruộng đất. Người ta công nhiên dùng các cơ sở thờ cúng vào
việc họp hành, đóng quân, làm hội trường, làm kho hợp tác xã mua
bán, kho hợp tác xã sản xuất, v.v… Có nơi thậm chí người ta cho các
tượng Phật trôi sông. Nhiều nơi bà con tín đồ bí mật cứu các tượng
Phật, đem chôn, đem giấu hầm kín, sau này phần lớn các tượng gỗ đều
mục nát, thế nhưng cũng có ít tượng còn giữ được, vào thập niên 80
bà con mới đưa lại vào chùa. Tóm lại, cuộc sống tâm linh hoàn toàn
bị xoá bỏ. Chữ “thiện”, chữ “nhân” một thời gian dài chẳng ai dám
nói đến, vì giữa lúc cái ác tràn đầy mà nói đến chữ “thiện”, chữ
“nhân” thì có thể bị coi là biểu hiện sự phản đối!
Trong lúc đó, người ta lại đề cao bạo
lực, cổ vũ đấu tranh giai cấp, khuyến khích điều ác, điều bất nhân,
điều vô đạo. Một điều rất quái dị trong CCRĐ mà ĐCS lại coi là tự nhiên
hoặc là cần thiết: người ta thường xuyên huy động các cháu thiếu niên
từ 9-10 tuổi trở lên tham gia CCRĐ. Bắt chúng mang trống ếch đi cổ
động, đi “đả đảo”, “hoan hô”, tham dự các cuộc đấu tố, các phiên toà
CCRĐ, các buổi hành quyết công khai. Nhiều cháu, nhất là các cháu
gái, vốn có tâm lý hiền lành bị bắt buộc phải tham gia, đã không
chịu nổi, run sợ, khiếp đảm, có cháu ngất xỉu trước cảnh hãi hùng,
súng bắn, máu đổ… Còn các cháu vốn có tâm lý hung dữ thì lại thích
thú hoan hô, thậm chí sau khi “được” tham dự những cảnh tượng đó, có
nơi chúng lại bày trò chơi “đấu tố”, bắt con cái địa chủ quỳ để con
cái nông dân lên đấu, cũng xỉa xói vào mặt, cũng xỉ vả, vạch tội…
Chẳng biết có ai xúi giục không, nhưng nhiều nơi đã xảy ra những “trò
chơi” quái đản đó! Khi cái thiện bị nén xuống mà cái ác được cổ
vũ, thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên là đạo đức bị suy đồi, băng hoại
dưới chế độ của những người cộng sản. Tôi còn nhớ trong thời kỳ
“cởi trói”, đã được đọc truyện ngắn “Bước Qua Lời Nguyền” của Tạ
Duy Anh đăng trên tuần báo “Văn Nghệ” (1989) ở Hà Nội, truyện đó phản
ánh phần nào tấn bi kịch của giới trẻ nông thôn đã lớn lên trong và
sau cuộc CCRĐ đầy kinh hoàng.
Không những CCRĐ đánh một đòn rất mạnh
vào nền đạo lý và truyền thống nhân bản, mà nền văn hoá dân tộc
cũng vì nó mà bị tổn hại rất nặng nề. Nhiều miếu đền uy nghiêm bề
thế, nhiều bia đá là những di tích văn hoá lâu đời của dân tộc đã bị
huỷ hoại trong CCRĐ. ĐCS giấu kín những chuyện này, nhưng cũng có thể
nêu ra vài trường hợp. Mong rằng các bạn xa gần, trong và ngoài nước
sưu tầm và bổ sung thêm. Chẳng hạn, cụ Nguyễn Mai (1876-1954) là hậu
duệ đời thứ 14 của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, gọi thi hào Nguyễn Du
(1765-1820) đời thứ 11 là bác. Đầu năm 1954, lúc 78 tuổi cụ bị đội
và đoàn CCRĐ quy là địa chủ (vì có vài mẫu cho phát canh để sống)
lại bị “kích” lên thành phần phong kiến cường hào (vì cụ từng đỗ cử
nhân khoa Canh Tý (1900) lúc 24 tuổi, lại đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn
(1904) lúc 28 tuổi), mà thật ra cụ không hề nhận chức tước, phẩm hàm
gì, chỉ cam phận sống thanh nhàn ẩn dật. Cụ bị đấu ba đêm liền, bị
kết án 15 năm tù khổ sai, bị giam ở trại Đâng, tỉnh Hà Tĩnh, là nơi
nước rất độc, nên ngay mùa thu năm ấy, cụ bị phù thũng chết trong
trại tù, vùi xác ở ven rừng. Cụ Nghè Nguyễn Mai từ trần trong uất
hận là nỗi đau lớn, nhưng nỗi đau còn lớn hơn nữa cho dân tộc là do
cụ bị quy oan như vậy, mà đội CCRĐ đã phá huỷ nhiều đền đài, bia,
miếu thờ của các danh nhân họ Nguyễn Tiên Điền và nghiêm trọng hơn
nữa đã đốt cháy ngôi nhà năm gian chứa đầy thư tịch quý giá của
dòng họ Nguyễn Tiên Điền, trong đó có di cảo của thi hào Nguyễn Du.
Một sự mất mát lớn lao về văn hoá không có gì bù lại được! (Xem
sách “Bể Dâu Trong Dòng Họ Nguyễn Du” của Đặng Cao Ruyện, NXB Miền
Đông Hoa Kỳ, 2002, tr. 200, 201).
Còn một chuyện này nữa. Trong cuộc hội
nghị cán bộ do TW Đảng triệu tập sau khi có nghị quyết sửa sai trong
CCRĐ hồi tháng 09.1956, tôi được nghe ông Cù Huy Cận, lúc đó là thứ
trưởng Bộ văn hoá, nói ở cuộc họp tổ là tấm bia đá của Lê Lợi đã
bị đội CCRĐ phá huỷ. Bộ văn hoá phải cấp tốc thuê làm bia khác
giống hệt bia cũ rồi đặt vào chỗ cũ và phải tuyệt đối giữ bí mật
để không ai biết là bia mới! Tôi không có điều kiện kiểm chứng, nhưng
chẳng lẽ ông thứ trưởng văn hoá lại nói sai?!
*
Như trên tôi đã viết, tuy là chuyện CCRĐ đã
qua từ lâu rồi, nhưng ngày nay, vẫn cần phải nói đến, vì ngày nay tập
đoàn lãnh đạo ĐCS đang cố viết lại lịch sử, đang cho bọn bồi bút
xuyên tạc lịch sử để chạy tội cho ông Hồ Chí Minh và cho ĐCSVN trong
CCRĐ và cả trong nhiều việc khác nữa.
Cần phải nói công bằng là trước năm 1950,
ông Hồ và ĐCSVN không nói đến CCRĐ, chỉ nói đến giảm tô, mà cũng chỉ
trên giấy tờ và rất coi nhẹ việc thực hiện. Chỉ từ năm 1952, vấn đề
giảm tô và CCRĐ mới đặt ra một cách gắt gao. Như vậy có thể nói là
việc CCRĐ là do sức ép của Stalin và Mao Trạch Đông. Nhưng khi ông Hồ
đã nhận làm CCRĐ là ông và ĐCSVN đã làm một cách tin tưởng và tích
cực. Cũng có thể do yếu tố tâm lý của một người trước đây đã từng
bị Stalin và Quốc tế Cộng sản coi là hữu khuynh, thậm chí bị nghi
ngờ, không giao việc trong thời hạn dài, nay lại bị nhận xét là coi
nhẹ nhiệm vụ phản phong, thì ông càng phải cố tỏ rõ tinh thần mẫn
cán, kiên quyết của mình. Quả là hồi đó, ông Hồ và ĐCSVN cũng thật
tình rất tin tưởng vào Stalin và Mao Trạch Đông. Chẳng thế mà ông đã
công khai nói trước hội nghị cán bộ (1950) tại chiến khu Việt Bắc để
chuẩn bị cho đại hội 2 của ĐCS sẽ họp năm sau là: “Các cô các chú
nên biết rằng: ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí
Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được”. Chính tôi có mặt trong cuộc
hội nghị đó, tôi nghe rõ, nhiều người khác cũng nghe rõ như thế, có
điều bây giờ họ không muốn hay không dám nhắc lại mà thôi. Đến đại
hội 2 của Đảng (tháng 03.1951), ông Hồ lại cũng nói đúng như thế, và
cụ Nguyễn Văn Trấn cũng đã kể lại chuyện đó trong sách của cụ
“Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội”. Cho nên ông Hồ làm CCRĐ rõ ràng với sự
tin tưởng và tích cực. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà cụ Vũ Đình
Huỳnh, người gần gũi ông nhất thời gian đó sau này đã “khẳng định
người chịu trách nhiệm chính trong sự gây ra những sai lầm trong CCRĐ
là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải ông Trường Chinh, như đã có sự ngộ
nhận kéo dài nhiều năm. Trường Chinh là con dê tế thần cho sai lầm
của ông Hồ” (xem “Đêm Giữa Ban Ngày” của nhà văn Vũ Thư Hiên). Theo tôi,
đúng là ông Hồ phải chịu trách nhiệm chính, như cụ Vũ đã nói, nhưng
Trường Chinh chẳng phải là “con dê tế thần” với cái nghĩa “oan dương”
đâu, vì ông ta vừa là Tổng bí thư, vừa là chủ nhiệm UBCCRĐTW, ông ta là
người điều hành mọi việc CCRĐ hồi đó, cho nên, nếu Trường Chinh không
phải là thủ phạm số một thì cũng phải là thủ phạm số hai. Cái ý
của cụ Vũ, theo tôi hiểu, là TW Đảng trong hội nghị lần thứ 10
(09.1956) đã không đả động gì đến Hồ Chí Minh, đã không dám nói đến
trách nhiệm của ông Hồ (vì thi hành kỷ luật Chủ tịch Đảng, Chủ tịch
nước thì… ôi thôi, ĐCS còn gì nữa!) mà chỉ đưa Trường Chinh và các ông
khác ra “chịu trận” mà thôi.
Sau này, trong giới thân cận với giai cấp
cầm quyền, có những người hay tung ra những câu chuyện về Hồ Chí Minh
không tán thành chủ trương CCRĐ, không tán thành việc xử tử bà Nguyễn
Thị Năm, không tán thành làm Chỉnh đốn tổ chức trong CCRRĐ, v.v… Nhưng,
xét cho cùng, loại chuyện đó chỉ là những huyền thoại không hơn không
kém. Những huyền thoại ấy nhằm đánh lừa những người không biết tình
hình thực tế hồi thập niên 50 ở miền Bắc và những thế hệ trẻ hậu
sinh, nhằm chạy tội cho ông Hồ để vớt vát cái gọi là “tư tưởng Hồ
Chí Minh” làm phao cứu mạng cho tập đoàn thống trị cộng sản. Hoàng
Tùng, nguyên tổng biên tập báo Nhân Dân, nguyên bí thư TW ĐCSVN, nhiều năm
làm tuyên huấn, v.v… là một trong số những “chuyên gia” sáng tác huyền
thoại kiểu đó. Trong hồi ký “Những Kỷ Niệm Về Bác Hồ”, ông ta có
kể lại về thái độ của ông Hồ đối với án tử hình bà Nguyễn Thị Năm
như sau: “Họp Bộ chính trị Bác nói: “Tôi đồng ý người có tội thì
phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên
lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy cũng giúp đỡ cho cách mạng.
Người Pháp nói không nên đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành
hoa”. Sau cố vấn Trung Quốc La Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: “Thôi tôi
theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải”. Và họ cứ thế làm”
(xem đoạn trích, đăng trên tờ “Diễn Đàn Forum” ở Paris, số 123/11.2002,
tr.15). Khi kể chuyện này, Hoàng Tùng đã cố lờ đi mấy điều thực tế
lịch sử rất quan trọng: 1/ vào thời điểm nửa đầu thập niên 50, uy
thế của ông Hồ trong Đảng là tuyệt đối, một lời của ông đã nói ra
thì không một ai, kể cả các ông trong BCT, dám làm trái ý ông hết; 2/
tất cả các ông trong BCT TW, không trừ một ai hết, đều răm rắp giữ
đúng tư cách một người học trò khiêm tốn, không bao giờ được phép
quyết định những chủ trương lớn mà không có ý kiến ông, huống hồ là
việc làm trái ý ông. Hồi 1952-1953 thì không thể nào có chuyện “Thôi
tôi theo đa số” và “Và họ cứ thế làm” được! Nếu thật sự ý thức
được là “không nên đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa”, mà
ông Hồ chỉ lắc đầu một cái thôi, chứ không cần phải nói nhiều lời
như Hoàng Tùng kể, thì chắc chắn là ông đã cứu được bà Nguyễn Thị
Năm! Mà không chỉ một mình bà Năm! Thêm nữa, cái chữ “họ” trong câu
của Hoàng Tùng “Và họ cứ thế làm” rất mập mờ: “họ” là ai? Các ông
trong BCT hay các cố vấn? Các ông trong BCT thì chắc chắn là không. Còn
các ông cố vấn có thể họ trái ý với ông Chủ tịch nước, Chủ tịch
Đảng của Việt Nam, nhưng họ không thể bắt ép ông được, họ chỉ là cố
vấn, chứ không có quyền biểu quyết, quyết định. Những cơ quan nào đã
từng làm việc với cố vấn Trung Quốc hồi đó đều biết cái nguyên tắc
đó. Cho nên có thể khẳng định rằng: Trong vụ án Nguyễn Thị Năm, đúng
là ông Hồ đã không cứu bà Năm. Cũng như sau này, trong vụ án Xét lại
– chống Đảng, ông đã không cứu ông Vũ Đình Huỳnh. Dù rằng ông biết rõ
về họ.
Hơn nữa, một câu hỏi hoàn toàn chính đáng
được đặt ra: trong suốt ba-bốn năm đằng đẵng lẽ nào ông Hồ và BCT
không hề hay biết gì hết đến những thảm hoạ của người dân ở nông thôn
mà họ cai trị hay sao? Lẽ nào ông Hồ, Trường Chinh và các ông khác
trong BCT không biết rằng ở quê hương mình những người đồng hương của
họ đang khốn khổ ra sao? Lẽ nào trong giới thân cận của ông Hồ và
các uỷ viên BCT không có một ai dám phản ánh tình trạng bi đát của người
dân cho họ biết hay sao? Câu trả lời dứt khoát là: các ông ấy đều có
biết, nhưng các ông đều im lặng! Im lặng đến nỗi ông Vũ Đình Huỳnh
một lần đang ốm cũng cố chống gậy lên Chủ tịch phủ gặp ông Hồ và
nói toạc vào mặt ông: “Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà Bác ngồi
yên được à? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải
vừa làm vừa xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi sai
lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng
bào, đồng chí!” (Xem “Đêm Giữa Ban Ngày”). Hoàng Tùng cũng đã lờ tịt
cái thực tế lịch sử phũ phàng này: Trong suốt thời gian CCRĐ, ông
Hồ, với tư cách là Chủ tịch nước, chưa hề ký một lệnh ân xá nào
cho một ai bị án tử hình. Chỉ từ sau Đại hội lần thứ 20 ĐCS Liên Xô
và nhất là sau hội nghị cán bộ cao cấp và trung cấp của Đảng (từ
28.04 đến 03.05.1956), do phản ứng rất mạnh của cán bộ thì mới có
lệnh tạm thời chưa thi hành các án tử hình. Nhưng, than ôi, lúc đó
thì… CCRĐ về cơ bản đã gần xong rồi! Lúc đó các đoàn và UBCCRĐTW đang
bắt tay làm báo cáo tổng kết để chuẩn bị cho hội nghị TW Đảng kiểm
điểm CCRĐ (tháng 09.1956).
Ngay cả việc Chỉnh đốn tổ chức trong CCRĐ,
Hoàng Tùng cũng cố tình đổ lỗi cho cố vấn Trung Quốc là chính, chứ
không phải lỗi của ông Hồ và ĐCSVN. Ông Tùng viết: “Thuyết của họ là
không dựa vào tổ chức cũ mà tổ chức lại một số tổ chức của Đảng,
họ phủ nhận hết các tổ chức khác, như chính quyền, các đoàn thể. Ai
lãnh đạo cách mạng tháng tám thành công, ai lãnh đạo cuộc kháng
chiến từ năm 1945 đến năm 1953. Thế mà họ thẳng tay bỏ hết, trong đó
có mấy ngàn người bị xử tử. Mục đích của họ không phải là CCRĐ mà
là đánh vào Đảng ta. May mà đến năm 1956 ta kịp dừng lại (bao nhiêu
đầu rơi, máu đổ và CCRĐ cũng đã gần xong, thế mà bảo là “kịp”! –
Người viết), nếu không thì tan nát hết”. Một đoạn khác: “Đánh thuế
công thương nghiệp, cải tạo tư sản cũng là do Trung Quốc đề ra. Hậu
quả là hơn một triệu người di cư vào Nam. Ta đổ tội cho Pháp, Mỹ,
điều đó chỉ đúng phần nào, còn là do ta vội, làm ẩu, đánh tràn
hết. Không phải địa chủ mà phú nông, thậm chí trung nông cũng đánh.
Đảng viên tốt cũng bị đánh. Kết quả của những chính sách, cải cách
lúc đó là như thế” (xem tờ “Diễn Đàn Forum” nói trên). Đúng là các
cố vấn Trung Quốc chỉ biết có kinh nghiệm CCRĐ ở Hoa Nam, khi Hồng
quân tiến xuống phía Nam, hầu như không có cơ sở tổ chức của ĐCS, nên
có nhiều người không phải cộng sản cũng đã đứng ra lập tổ chức,
lập chính quyền, vì thế khi làm CCRĐ thì ĐCS Trung Quốc cố tình nhân cơ
hội ấy quét sạch các tổ chức đó đi lập những tổ chức mới của họ.
Còn ở miền Bắc Việt Nam, tình hình hoàn toàn khác hẳn. Không thể làm
rập khuôn theo kinh nghiệm Hoa Nam được. Tôi cũng chẳng thích gì các cố
vấn Trung Quốc, nhưng tôi nghĩ rằng cần phải xét vấn đề khách quan
theo đúng sự thật lịch sử, chứ không thể đổ lỗi, đổ tội tùm lum cho
họ tất cả được. Ông Hồ và BCT TW ĐLĐVN sống và làm việc ở Việt Nam,
có phải là trẻ con đâu mà bảo các ông cố vấn Trung Quốc xúi gì là
làm nấy? Chẳng qua chỉ vì khi đã say men “lập trường giai cấp đấu
tranh”, say men Marxisme-Leninisme, Stalinisme, Maoisme... trong cuộc lên đồng
tập thể, thì chính các ông lãnh tụ cộng sản Việt Nam cũng “hăng hái”
không kém gì người ta. Tôi còn nhớ, có lần đọc bài nói chuyện của
ông Hồ với cán bộ CCRĐ đăng trên tờ nội san “Cải cách Ruộng đất”
(tạp chí lưu hành trong nội bộ), trong đó ông giải thích rất mộc mạc
chủ trương không được dựa vào tổ chức cũ như sau: “Tổ chức cũ là
“tổ kén”, các cô, các chú không được dựa vào…”. Lại cũng cái lối
dùng hình ảnh như việc uốn tre đã nói trên! Năm 1962, khi nói chuyện
về Tuyển tập Hồ Chí Minh với anh Nguyễn Kiến Giang, lúc đó là phó
giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật, anh kể rằng: “Làm tuyển tập đó
chúng tôi mệt lắm, phải rà soát lại cả, bao nhiêu bài nói của ông
cụ trong CCRĐ phải loại bỏ hay thu gọn lại”. Tôi hỏi anh có nhớ bài
ông cụ nói “Tổ chức cũ là “tổ kén” không? Anh trả lời: “Có chứ!
Bài đó phải loại bỏ. Cán bộ đảng viên nông thôn người ta đang oán
giận đùng đùng, đưa vào tuyển tập thế nào được!”. Nếu ông Hồ không
tán thành chủ trương của các cố vấn đối với tổ chức cũ ở nông thôn
thì có ai bắt ông phải nói thế đâu?
Tôi kể lại những chuyện đó chỉ để đi đến
kết luận này: ĐCSVN chớ nên đổ lỗi, đổ tội cho ai cả, mà cần thấy
hết cái trách nhiệm lớn lao của mình trong CCRĐ. Chừng nào ĐCSVN chưa
sám hối được về những tội ác đã gây ra, thì người dân chớ có hy
vọng là Đảng sẽ sửa đổi, sẽ đổi mới và sẽ không tái diễn lại
những tội ác trước đây.
Cũng xin mọi người đừng quên: CCRĐ không
phải là thảm hoạ đầu tiên, cũng chẳng phải là thảm hoạ cuối cùng
mà tập đoàn thống trị cộng sản Việt Nam đã gây ra cho dân tộc ta! Tôi
không kể những thảm hoạ trước CCRĐ, mà chỉ nói ngay liền sau CCRĐ là
vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, vụ án Xét lại – chống Đảng, rồi Cải tạo
công thương nghiệp, đánh đổ tư sản ở miền Bắc, rồi cái nghị quyết
số 49/NQ/TVQH của Thường vụ Quốc hội do Trường Chinh ký ngày
20.06.1961, nhốt hàng chục vạn người vô tội ở miền Bắc vào các trại
tập trung khủng khiếp, rồi Tết Mậu Thân, v.v… và v.v… Nếu kể hết thì
ta thấy cả một chuỗi dài tội ác khủng khiếp đã qua và đang tiếp
tục mãi cho đến tận ngày nay. Cố nhiên, ngày nay người ta dùng thủ
đoạn tinh vi hơn, nhưng bản chất tội ác vẫn thế.
Tội ác mới gần đây nhất là vụ án Lê Chí
Quang, xử một nhà yêu nước chân thành, một chí sĩ đáng kính dù chỉ
mới ngoài ba mươi tuổi! Cái “tội” của anh là đã dũng cảm dấn thân vì
nước, đã dám kêu gọi đám cầm quyền hiện nay hãy cảnh giác kẻo mang
tội bán nước cho Bắc triều, đã dám đứng chân vào “Hội Nhân Dân Chống
Tham Nhũng” những mong trừ được quốc nạn cho dân tộc. Tập đoàn thống
trị cộng sản Việt Nam đã trắng trợn bày trò xử án để tống người
thanh niên yêu nước vào tù, người thanh niên đã từng tuyên bố đanh thép
chí hướng của anh trong bài tiểu luận nổi tiếng “Hãy Cảnh Giác Với
Bắc Triều”: “Tôi viết bài này khi đang bị kìm kẹp trong vòng nghiệt
ngã của các lực lượng bảo thủ và tay sai cho Bắc Triều. Biết rằng,
bài viết này không làm cho hào quang lấp lánh trên đầu tôi mà trái
lại, càng đẩy tôi sâu thêm vào vòng nguy hiểm. Ngay như đối với một
công thần của cách mạng, mà họ còn ngang nhiên tuyên bố xanh rờn:
"… Sẵn sàng hy sinh Hoàng Minh Chính để bảo vệ chế độ".
Huống chi tôi chỉ là con tốt đen dễ dàng bị biến
thành vật tế thần cho bàn thờ Bắc Triều. Dẫu sao trước hiểm hoạ khôn lường
của tồn vong đất nước, tôi đâu dám nề hà xả thân, bởi tôi tâm niệm
câu nói của Hàn Phi Tử: "Nước mất, mà không biết là bất tri. Biết
mà không lo liệu, là bất trung. Lo liệu, mà không liều chết là bất
dũng".
Chỉ mong sao tấc lòng nhỏ mọn này, được lương tri dân tộc trong và
ngoài nước soi thấu, và hết lòng, hết sức chỉ giáo” (01.10.2001).
Rất mong rằng trong dịp nhớ lại thảm hoạ
CCRĐ, “lương tri dân tộc trong và ngoài nước”, nhất là lương tri giới
trẻ nhận thức rõ rằng chế độ độc tài đảng trị mà còn thì những
thảm hoạ tương tự vẫn sẽ còn tiếp tục, vì tập đoàn thống trị cộng
sản không tôn trọng con người, không tôn trọng sinh mạng và quyền tự do
của con người, không tôn trọng luật pháp mà chỉ coi trọng quyền lực
của họ là tối thượng mà thôi. Nhắc lại thảm hoạ CCRĐ, chúng tôi rất
mong mọi người, nhất là giới trẻ, noi gương Lê Chí Quang, thêm quyết tâm
tranh đấu sớm xoá bỏ chế độ độc tài nhằm chuyển hoá đất nước ta
thành một xã hội dân chủ đích thực, tạo điều kiện cho sự phát triển
và phồn vinh của Tổ quốc chúng ta.
15.12.2002
____________________________
Tác giả gửi về Dân Làm
Báo
Chú thích:
1. Bài này được viết để đăng báo Thế Kỷ
21 số Xuân Quý Mùi 2003.
2. Sau này, tôi nhận thấy con số ước đoán
này là sai (xin xem ghi chú ngày 10.12.2005).
Ghi chú ngày 10.12.2005: Trên báo Thông Luận
số 197 (tháng 11.2005), ông Võ Xuân Minh đã phát hiện một điều rất
đáng chú ý, mà chúng tôi muốn ghi thêm để bạn đọc tham khảo. Điều
phát hiện này chứng tỏ rằng vì không có tổng kết toàn miền Bắc nên
ước đoán trước đây của chúng tôi chừng năm-sáu nghìn người bị hành
quyết là quá thấp so với thực tế.
Trong cuốn “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam
1945-2000” do Viện Kinh tế Việt Nam xuất bản, tập I viết về giai đoạn
1945-1954 (dày 662 trang), tập II, giai đoạn 1955-1975 (177 trang), (tập
III chưa ra), có đưa ra con số rõ rệt nhất từ trước tới nay: có
172.008 người là nạn nhân trong CCRĐ, trong số đó có 123.266 người sau
này được chính thức xác nhận là oan (chiếm 71,6%). Có điều là trong
sách đã không ghi rõ con số 172.008 nạn nhân này là bị giết hay bị
xét xử.
Ông Võ Xuân Minh đưa ra giả định rất có cơ
sở: con số 172.008 nạn nhân này là những người bị giết trong CCRĐ. Ông
lập luận rằng: cuốn sách nói trên có cho biết CCRĐ được thực hiện ở
3.563 xã trên miền Bắc với 10 triệu dân số, mà tỷ lệ địa chủ được
quy định trước là 5,68% (trang 85, tập II), và các đoàn và đội CCRĐ đều
cố truy bức để đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như một quy định bắt buộc
(trang 86, tập II), như vậy thì tổng số người bị coi là địa chủ để
đưa ra xét xử phải là trên 500.000 người, chứ không phải 172.008. Thế
thì phải hiểu rằng con số 172.008 người này là bị giết trong số trên
500.000 bị xét xử.
Ông Võ Xuân Minh cũng vạch ra rằng trong số
172.008 nạn nhân đưa ra trong bảng thống kê thì có ghi rõ 586 người
thuộc thành phần kháng chiến, nếu so với báo cáo của Bộ chính trị
thì số đảng viên “bị xử trí” lên tới 84.000 người, như thế rõ ràng là
con số 586 người thuộc thành phần kháng chiến là số bị giết, và con
số 172.008 người đưa ra trong bảng thống kê cũng là số người bị giết.
Báo cáo của Bộ chính trị có xác nhận: “hàng vạn đảng viên có nhiều
công lao bị xử oan, phải chịu những nhục hình rất tàn khốc dã man”.
Bảng thống kê đưa ra trong “Lịch Sử Kinh Tế
Việt Nam 1945-2000” ghi rõ: trong số 172.008 nạn nhân thì:
- Địa chủ cường hào gian ác – 26.453
người, trong đó bị oan 20.493 người (77,4%)
- Địa chủ thường – 82.777 người, trong đó
bị oan 51.480 người (62,1%)
- Địa chủ kháng chiến – 586 người, trong
bị oan 290 người (49,4%)
- Phú nông – 62.192 người, trong đó bị oan
51.003 người (82%)
Tổng cộng: 172.008 nạn nhân, trong đó bị
oan 123.266 người (71,6%).
N.B. Chúng tôi ghi lại những con số đưa ra
trong bảng thống kê này chỉ là để chúng ta hình dung được quy mô to
lớn của tội ác đã diễn ra, chứ không phải vì thế mà mặc nhiên xác
nhận là 48.742 người trong số 172.008, tức là 28,39%, (gồm 5960 cường
hào gian ác, 31.297 địa chủ thường, 296 địa chủ kháng chiến, 11.189
phú nông) là không bị oan, tức là “đáng tội”. Vì toàn bộ chính sách
CCRĐ, cũng như những nguyên tắc, tiêu chuẩn quy định thành phần do Uỷ
ban CCRĐ Việt Nam đưa ra đều rập khuôn theo CCRĐ của Trung Quốc hoàn
toàn xa lạ với Việt Nam, nên không chính xác, không khoa học, lại thêm
sự thi hành hết sức tuỳ tiện ở tất cả các cấp, thì làm sao bảo
đảm được số 48.742 người đó là không bị oan và “đáng tội”? – Người
viết
Những
bài học trong chốn lao tù (Kỳ 20): Những công cụ của đảng dán nhãn nhân dân
Nguyễn Trung Tôn (Danlambao) -
Vào khoảng tháng 10 năm 2011; sau khi hồ sơ cáo trạng về vụ án của tôi đã chuyển
lên Tòa án; quản giáo Thành mở cửa buồng giam số 8 và nói: "Nguyễn Trung Tôn mặc
quần áo dài ra ngoài gặp luật sư". Tôi mặc quần áo dài vào đi theo hai cán bộ dẫn giải với đôi tay
bị còng số 8. Đi ra tới cổng trại, họ mở còng cho tôi và đưa tôi vào một căn
phòng nhỏ, bên trong được bố trí sẵn một chiếc bàn và mấy chiếc ghế. Họ bảo tôi
ngồi đợi ở đó. Có cán bộ trực trại tên là Thái Hoàng ngồi đó. Khoảng 15 phút
thấy một người mặc quần áo dân sự bước vào, đưa tay bắt tay tôi, vừa bắt tay
vừa tự giới thiệu: "Chào anh Tôn! Tôi là luật sư Hà Huy Sơn,
người được gia đình anh thuê để bảo vệ anh trong vụ án này."
Qua
vài câu chuyện xã giao xong, luật sư đi thẳng vào công việc. Luật sư cho biết
rằng thời gian của chúng tôi được gặp nhau trao đổi là 60 phút. Với lượng thời
gian như vậy. Luật sư đã chuyển lời hỏi thăm của gia đình và bạn bè tới tôi.
Luật sư cũng sơ qua cho tôi biết về tình hình sức khỏe của những người thân
trong gia đình tôi. Luật sư bắt đầu hỏi suy nghĩ của tôi về việc mình bị bắt và
truy tố. Tôi cho luật sự biết rằng tôi rất bất bình về việc bị công an Nghệ An
bắt giữ trái luật. Luật sư cũng khẳng định rằng anh cũng có cùng quan điểm với
tôi, anh sẽ bảo vệ tôi trước Tòa với hướng khẳng định tôi vô tội. Luật sư cũng
cho tôi biết anh đã có văn thư gửi cho Tòa án yêu cầu trả tự do vô điều kiện
cho tôi nhưng chưa nhận được trả lời. Luật sư hỏi thêm tôi về cuộc sống của tôi
trong nhà giam trong đó có cả việc tôi có được đọc báo nghe đài theo như luật
pháp quy đinh không. Tôi khẳng định rằng đã 10 tháng rồi tôi không hề được nghe
đài hay đọc báo, thậm chí vào lúc đó tôi không biết được ai là Chủ tịch Quốc
Hội. Luật sư Sơn nói rằng sau buổi gặp tôi anh ấy sẽ có đơn thư đề nghị ban
giám thị trại phải đáp ứng nhu cầu chính đáng của tôi như luật định.
Anh
hỏi thêm tôi còn có nguyện vọng gì nữa không. Tôi cho anh biết rằng tôi rất cần
có một cuốn Kinh Thánh để đọc trong trại giam, nhưng đề nghị nhiều lần mà cán
bộ không cho. Chia tay luật sư, tôi trở vào buồng giam, lòng vui mừng phấn khởi
vì biết rằng những anh em bạn bè bên ngoài vẫn đang rất quan tâm tới mình, biết
luật sư là người sẽ bảo vệ cho mình với những lý lẽ sẽ khẳng định mình vô tội.
Có một thay đổi rõ rệt sau khi tôi gặp luật sư đó là: Hàng ngày Quản giáo Thành
đều đưa cho tôi một số báo Nhân dân. Ông nói: Cho anh mượn xem xong là phải trả ngay cho tôi,
không cho ai mượn cả. Cũng từ hôm đó cứ 5 giờ sáng là chiếc loa
phóng thanh của trại được bật lên. Chương trình phát thanh của Đài tiếng nói
Việt Nam bắt đầu ngày mới bằng Thể dục buổi sáng. Tôi biết ngay rằng lời đề
nghị của luật sư Sơn đã được trại giam đáp ứng phần nào, tuy nhiên về việc tôi
có Kinh Thánh để đọc thì vẫn chưa được đáp ứng.
Thời
gian chậm chậm trôi qua nhưng cái gì đến ắt cũng phải đến. Vào khoảng tháng 11
năm 2011 nữ cán bộ đại diện Viện Kiểm Sát, tên là Ngân đã vào nhà giam gặp tôi,
bà cho biết nếu không có gì thay đổi thì vào cuối tháng 12 Tòa án sẽ đưa vụ án
của tôi và chị Hồ Thị Bích Khương ra xét xử. Bà nói: “Tôn không nên thuê luật sư làm gì, vừa tốn tiền
vừa chẳng giải quyết được gì đâu. Lớ ngớ luật sư mà cãi căng thẳng, tòa bực lên
lại xử thêm cho mấy tháng đấy. Nếu gặp gia đình thì bảo vợ đừng thuê luật sự
nữa. Ra tòa có thái độ ăn năn nhận tội, chúng tôi sẽ đề nghị tòa xử vừa mức án
tạm giam và cho về luôn, hoạc xử án treo. Thấy hoàn cảnh nhà Tôn cũng khó khăn,
bố mẹ già yếu, một tay vợ phải chăm sóc 3 đứa con, cùng 2 bố mẹ già, lại thêm
hàng tháng lo thăm nuôi chồng nữa. Tôn nên nghĩ cho gia đình. Hãy nhận tội xin
khoan hồng để sớm được về. Chắc chắn Tôn sẽ được thả ngay tại tòa. Nhớ về rồi
thì đừng đi theo con Khương nữa, khổ vợ khổ con, khổ bản thân.” Tôi
trả lời: “Bây giờ tôi bị bắt
rồi, xét xử thế nào là quyền của quý vị, riêng bản thân tôi thì tôi khẳng định
rằng mình chẳng làm gì nên tội, tôi sẽ không nhận tội, việc thuê luật sư cho
tôi là do vợ tôi quyết định. Tôi đồng ý với quyết định đó và sẽ không từ chối
luật sư”. Họ đưa tôi trở lại buồng giam.
Những
ngày sau đó sao thời gian dường như trôi qua chậm hơn! Tôi cứ đếm từng ngày để
mong sớm được đứng trước Tòa mà đưa ra những lập luận tự bào chữa cho mình.
Sáng ngày 28/12/2011 một lần nữa tôi được đưa ra cổng nhà giam để gặp Luật sư.
Cũng như lần trước Luật sư và tôi có thời gian 1 giờ đồng hồ để trao đổi. Trong
buổi gặp này một lần nữa cả tôi và luật sư bảo lưu quan điểm là tôi vô tôi.
Luật sư khuyên tôi nên bình tĩnh trước phiên tòa ngày mai. Nên tranh thủ cơ hội
để đưa ra những lập luận của bản thân.
Ngày
29 tháng 12 năm 2011, lúc kẻng báo thức vừa vang lên thì cửa buồng giam cũng mở
ra, một tốp công an mang theo còng số 8, dùi cui điện và gậy cao su áp giải tôi
về phía cổng trại. Có một chiếc xe màu trắng 6 chỗ ngồi đã đợi sẵn. Họ đẩy tôi
lên dãy ghế phía sau có thêm 3 nam công an ngồi kèm. Một lát sau thấy họ áp
giải chị Hồ Thị Bích Khương ra xe họ đưa chị ngồi lên chiếc ghế bên cạnh tài
xế, có 3 công an nữa ngồi kèm phía sau chị. Xe bắt đầu chuyển bánh, tiếng chị
Hồ Thị Bích Khương sang sảng liên hồi, khi thì hát, khi thì chửi những kẻ đã
bắt giam chị vô cớ. Tôi thì ngồi im lặng, mắt ngóng ra hai bên đường để tìm
kiếm những khuôn mặt thân quen. Thành phố Vinh Nghệ An sau ngày Noel vẫn tấp
nập người qua lại, kẻ ngược người xuôi trên đường, tôi cố gắng để căng mắt nhìn
ra, hy vọng trong đoàn người tấp nập đó có những tín hữu Tin Lành, hay những
người tranh đấu mà tôi quen biết, nhưng chẳng thấy bóng một ai. Lòng thấy hơi
buồn, nhưng tôi bình tĩnh lại suy xét và tự an ủi mình: Có lẽ những người mình
trông mong đã tới nơi trước mình rồi, hoặc họ đang ở đâu đó quanh khu vực Tòa
án. Xe chạy tới cổng Tòa án. Tôi nhìn thấy vợ và 2 con trai của mình đang đứng
trước cổng. Tôi cố gọi nhưng hình như họ không nghe. Nhưng Trọng Nghĩa con trai
tôi cũng đang trong tư thế ngóng chờ tôi nên cháu đã phát hiện ra tôi và giơ
tay lên chào.
Xe
tiến sát vào cửa Tòa án. Công an áp giải chúng tôi bước xuống xe. Hàng loạt ống
kính chĩa thẳng vào mặt chúng tôi quay quay chụp chụp. Chúng tôi bị đưa vào phía
trong tòa án, họ dẫn chúng tôi vào chỗ của mình là một dãy ghế băng đã được
chuẩn bị trước. Có một vài người mặc thường phục đợi sẵn trong hội trường nhưng
chắc chắn họ không phải là nhân dân mà là lực lượng An ninh và các phóng viên
của đảng. Mắt của tôi đảo khắp hội trường, nhưng không tìm ra một khuôn mặt
quên thuộc nào. Một lát sau, Luật sư Hà Huy Sơn bước vào vị trí bàn dành cho
Luật sư. Tôi gọi Luật sư lại để định trao đổi thêm vài ý kiến, nhưng Công an đã
ngăn cản không cho Luật sư gặp. Hội đồng xét xử bước ra, Chủ tọa phiên tòa là
ông Thẩm phán Vi Văn Chắt, thêm hai vị hội thẩm và một nữ thư ký. Phía Viện
Kiểm sát có bà Ngân (người đã vào trại giam gặp tôi hồi tháng 11). Mắc dù thư
ký phiên tòa đã đọc xong bản Cáo trạng, nhưng vẫn không thấy bóng dáng một
người thân nào của cả tôi và chị Hồ Thị Bích Khương đâu cả. Luật sư Hà Huy Sơn
đã phải đứng lên đề nghị Chủ tọa can thiệp để các thân nhân chúng tôi được vào
tham dự. Một lát sau tôi mới thấy vợ và con trai lớn của tôi cùng chị Lan, chị
Huệ là các chị gái của chị Khương vào tham dự.
Mặc
dù phiên tòa được thông báo là xét xử công khai, nhưng trong phòng xử chật cứng
công an, cổng tòa bị canh gác nghiêm ngặt, những người thân chúng tôi muốn vào
cũng phải xuất trình giấy tờ tùy thân và có sự can thiệp của luật sư mới được
vào. Trong quá trình xét hỏi. Tòa chỉ cho phép chúng tôi được trả lời có hay
không chứ không được giải thích gì. Sang phần tranh tụng Tôi thẳng thắn thừa
nhận tất cả nội dung các bài viết của mình là thật, nhưng không cho rằng đó là
hành vị phạm tội. Chị Hồ Thị Bích Khương thì phủ nhận tất cả những bài viết mà
tòa đưa ra buộc tội chị. Chị cho rằng chính Công an đã hãm hại chị bằng cách
thêm thắt nội dung, và ngụy tạo bằng chứng vu cáo chị. Một vị Hội thẩm đứng lên
giải thích rằng: Bị cáo Tôn có biết điều
4 hiên pháp quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng tiên phong của giai
cấp Công nhân và nhân dân lao động, Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước….?
Bị cáo có những bài viết chống lại Đảng Cộng sản, tức là bị cáo đã chống lại
nhà nước CHXHCN Việt Nam. Ông ta chưa dứt lời thì luật sư Hà Huy Sơn
đứng lên xin phép chủ tọa cắt lời. Luật sư Sơn đã khẳng định vị Hội thẩm vi
phạm luật tố tụng hình sự, vì ông đã đưa đảng Cộng sản là một phạm trù không hề
liên quan tới tội danh mà chúng tôi bị truy tố. Tòa án truy tố chúng tôi tội
danh Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN, chứ đâu có phải tội tuyên truyền
chống đảng Cộng sản, nên việc đưa điều 4 Hiến pháp và Cộng sản ra tranh tụng
trong phiên tòa này là hoàn toàn vi phạm luật tố tụng hình sự. Trước phản ứng
của Luật sư, hội trường tòa án bỗng nhiên im lặng hẳn lại, Hội đồng xét xử bối
rối, nhưng sau khoảng chừng 1 phút Chủ Tọa Vi Văn Chắt đứng lên tuyên bố: Phát biểu vừa rồi chỉ là ý kiến của cá nhân vị
Hội Thẩm, không phải là ý kiến chung của Hội đồng xét xử.
Phiên
tòa vẫn tiếp tục diễn ra trong không khí ngột ngạt, áp đảo. Mặc dù những lý lẽ
mà luật sư đưa ra căn cứ trên luật pháp hoàn toàn thuyết phục, nhưng cuối cùng
thì bản án vẫn được tuyên theo đề nghị của phía Viện Kiểm sát. Theo Viện Kiểm
sát đề nghị Tòa xử tôi mức án từ 18 tới 24 tháng tù giam và chị Hồ Thị Bích
Khương Từ 60 tới 72 tháng tù giam. Sau 10 phút Nghị án. Tòa đã đưa phán quyết,
xử tôi 24 tháng tù giam và 24 tháng quản chế. Chị Hồ Thị Bích Khương 60 tháng
tù giam và 36 tháng quản chế.
Mặc
dù kết quả của phiên tòa đã không như mong muốn, nhưng cũng nắm trong dự đoán
nên không có gì làm tôi ngạc nhiên. Bởi dưới chế độ này làm gì có Công lý. Nếu
có công lý thì chúng tôi đã không phải đấu tranh. Họ lại đưa chúng tôi lên xe
chở về trại giam với chiếc còng số 8 trên tay. Chúng tôi bỏ lại phía sau lưng
mình những nhộn nhịp của chốn thị thành. Xe đưa chúng tôi về trại giam. Bắt đầu
từ hôm đó tôi bị đưa vào nhà B1, khu nhà giam dữ những người bị kết án tử hình,
nơi còng chân những bị can bị kỷ luật; tuy vậy cũng có một số buồng giam những
bị cáo đang chờ bản án có hiệu lực để bị phân đi thi hành án.
Thanh Hóa ngày 20/09/2014
_________________________________
Bài
đã đăng:
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment