Trận Chiến Ðấu Bi Hùng của Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu Tháng 4 1975
Tại ngôi Trường Mẹ T.S.Q.
Vũng Tàu, tôi đã được nuôi dưỡng, giáo dục suốt 7 năm trường từ khi tôi là
một chú bé 11 tuổi rưỡi đến khi tôi được 18 tuổi rưỡi.
Một lớp của liên lớp 11 niên
khóa 1973-1974 chụp trước dãy phòng học tại khu văn hóa của Trường Mẹ. Cậu
bé Trần Quốc Toản là Thánh Tổ của tập thể TSQ Vũng Tàu. Hầu hết, các em TSQ
đều sống nội trú trong trường ít nhất là 4 năm để trau dồi văn hóa, chính
trị, quân sự, võ thuật, âm nhạc, và thể thao. Tạm biệt, vĩnh biệt các bạn
học của tôi, của tháng năm vui buồn thời ấu thơ.
Đội Quốc Quân Kỳ của trường
T.S.Q. đang tiến vào vũ đình trường trong ngày khai giảng niên học mới.
Trong những ngày lễ trọng đại, tất cả T.S.Q. đều được mặc quân phục đại lễ.
Các chú lính tý hon Thiếu
Sinh Quân VNCH trong bộ đại lễ đang diễn binh tại Thủ Đô Sài Gòn trong ngày
Quân Lực 19/06 hàng năm. Bé tý mà đi cơ bản thao diễn cũng oai nghiêm,
chững trạc lắm, TSQ à. 1,2,3,4; 1,2,3,4...
T.S.Q. diễn binh trong khuôn
viên trường vào mỗi sáng thứ Hai hằng tuần sau buổi lễ chào quốc kỳ
V.N.C.H..
Các chú lính tý hon đang tập
tành sống đời sương gió, mưu sinh thoát hiểm, đời quân ngũ.
Trong bộ quân phục đại lễ,
các chú lính tí hon Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu và xe hoa của đơn vị đang diễn
hành ngoài đường phố của Thị Xã V.T. nhân ngày lễ Phật Đản. " Tự thắng
để chỉ huy " là châm ngôn của các chú lính TSQ/VNCH. I'm proud to be
one of TSQ cadets before 30/04/1975 .
T.S.Q. biểu diễn võ Thái Cực
Đạo trong ngày khai giảng niên học mới, ngày tiếp nhận tân T.S.Q, và lễ ra
trường của khóa đàn anh T.S.Q..
Bên cạnh võ Thái Cực Đạo,
T.S.Q. cũng được rèn tập võ Nhu Đạo.
Đội túc cầu của trường
T.S.Q. Vũng Tàu.
Khu vực phạn xá của trường
T.S.Q.. Nơi đây có đầy đủ bếp lò, phòng chứa lương thực, vài dãy phòng ăn
dành cho T.S.Q. trong các buổi ăn trưa, buổi ăn chìều.
Bộ quân phục tác chiến màu
olive được các T.S.Q. sử dụng trong những buổi học quân sự, chính trị vào
ngày thứ năm mỗi tuần lễ.
Thiếu Sinh Quân ( Junior
Military cadets ) VNCH diễn binh trong Ngày Quốc Khánh 1-11-1966 tại Thủ Đô
Sài Gòn.
Phái đoàn T.S.Q. Vũng Tàu
tham quan trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tại Đà Lạt vào năm 1968.
T.S.Q. tại trường Võ Bị Liên
Quân Đà Lạt năm 1968. Đã có rất nhiều T.S.Q. rời Trường Mẹ và thụ huấn tại
trường V.B.Q.G. Đà Lạt. Binh nghiệp trọn đời là truyền thống của tập thể
T.S.Q./V.N .C.H..
Một phù hiệu khác của tập
thể T.S.Q. / V.N.C.H..
Bên trái: Dãy lầu Khu Văn Hóa, bên phải: Phòng
ngũ Tiểu Đòan I và II TSQ
************
Dãy lầu phòng ngũ Tiểu Đoàn I và II TSQ
Thiếu sinh quân QLVNCH
++++++++++++++
Từ bên kia bờ sông Bến Hải, vết xích chiến xa T-54 và các
sư đoàn Bắc Việt đã xoá nát văn kiện Hiệp Ðịnh Ba Lê 1973 tiến dần về Nam.
Như là một định mệnh oan nghiệt, cả nước bị ém chặt và bức tử theo ván bài
chiến lược quốc tế được quyết định từ ngoài cương thổ Việt Nam.
Hoa Kỳ làm
ngơ, thế giới cúi mặt trong lúc lãnh thổ miền Nam lần lượt lọt vào tay quân
đội chính quy Bắc Việt. Quảng Trị mất, kế đến là Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn,
Cao Nguyên, Nha Trang, Phan Thiết… Và rồi đầu tháng Tư 1975, mặc dầu bị Sư
Đoàn 18 Bộ Binh của tướng Lê Minh Đảo cầm chân quyết liệt tại Long Khánh
suốt 12 ngày đêm, Bắc quân lại tiếp tục tràn về ven biên ngoại ô Sài Gòn.
Quân ta cứ rút, cứ rút. Vũng
Tàu, những ngày cuối tháng tư năm 1975, một trong những phần thân thể còn
lại của Tổ Quốc, cũng đang lên cơn sốt hốt hoảng và náo động. Dòng người di
tản, cả lính lẫn dân, đổ về Vũng Tàu từ cả hai mặt, đường bộ cũng như đường
biển. Vũng Tàu chênh vênh bên bờ nước, tuyệt vọng, cùng đường. Ngày 26
tháng 4, quân đội miền Bắc tấn chiếm Biên Hoà, Bà Rịa, sau đó, cầu Cỏ May
nối liền Bà Rịa và Vũng Tàu bị giật sập. Vũng Tàu co ro trong thế cô lập,
chờ chết.
Trường Thiếu Sinh Quân, mặc dù toạ lạc ngay cửa ngõ của thị trấn, nhưng bị
ngăn cách bởi những vách tường đá kiên cố bao quanh, những giao động âu lo,
tuyệt vọng từ một Vũng Tàu hỗn loạn đã không lọt được vào trường. Các Thiếu
Sinh Quân vẫn sinh hoạt đều đặn như mọi ngày. Thiếu Sinh Quân liên lớp 12
(lớp người viết), đang trong thời gian học thi tốt nghiệp, vẫn cắm cúi miệt
mài với bài vở.
Trong thời gian này, phần lớn các Thiếu Sinh Quân lớp nhỏ
cư ngụ ở các vùng Sài Gòn, các tỉnh vùng 3 và vùng 4 đã được nhà trường cho
về với gia đình. Các Thiếu Sinh Quân ở vùng 1 và vùng 2 phải ở lại trường
do tình hình chiến sự rối ren hay đã mất vào tay Bắc quân. Không khí nhà
trường vì thế càng tăng vẻ yên tĩnh, nặng nề. Cái nặng nề và yên tĩnh đó
trở nên ngột ngạt và căng thẳng dần khi chúng tôi nhận ra những nét lo âu,
bức xúc trên gương mặt của các cán bộ, nhân viên cơ hữu của trường.
Ngày 28 tháng 4, chúng tôi được lệnh tập họp sau bữa ăn chiều. Trung Tá Ngô
Văn Dzoanh, Chỉ huy trưởng, thông báo tình hình khẩn cấp, ban hành lệnh
giới nghiêm và tuyên bố:
- Các em không có gì phải rối loạn, lo âu. Nhà trường đã có kế hoạch di
tản!
Mặc dù còn trẻ, nhưng chúng tôi đã cảm thức cái nguy cơ, cái bất thường,
tuyệt vọng của tình hình đất nước trong những ngày qua, nên dù đã được chỉ
huy trưởng trấn an, chúng tôi cũng đã phải trải qua một đêm mất ngủ. Tổ
quốc, tương lai, gia đình, bè bạn và ngôi trường thân yêu này ngày mai sẽ
ra sao? Chúng tôi trằn trọc đến sáng, khi mặt trời lên, trên gương mặt của
đám Thiếu Sinh Quân chúng tôi, ai cũng hiện lên những nét lo âu, sợ sệt của
đám gà con đang bối rối chui rúc dưới lông cánh gà mẹ trong lúc diều hâu
đang lờ lững lượn trên vòm trời .
Khung trời rộng dường như nhỏ dần lại trên khoảng không gian trường Thiếu
Sinh Quân sáng ngày 29 tháng Tư, cùng lúc những lo âu của anh em lại trương
lớn dần và căng thẳng thêm. Bỗng chợt âm thanh của đạn trọng pháo từ đâu xé
gió rít qua không gian… và Ầm! Ầm! Tiếng nổ ù tai của những viên đạn rớt
vào chân núi đài viba ngay đằng sau lưng trường.
Đại Úy Lê Viết Đắc, cán bộ tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn Hùng Vương, liên lớp
12, rút súng ra khỏi vỏ, chạy ngược xuôi ra lệnh cho các Thiếu Sinh Quân
nằm sát xuống đất để tránh miểng đạn. Trong bối cảnh của tiếng những mảnh
đất đá rơi xào xạc trộn lẫn âm thanh vang dội của đạn trọng pháo, ông như
một con gà mẹ đang dáo dác bảo vệ đàn con. Không biết mục tiêu của những
viên trọng pháo đó là ai, là trường Thiếu Sinh Quân hay là đơn vị đồn trú
tại đài viba gần trường, nhưng âm thanh của tiếng đạn nổ và cảnh núp đạn
lần đầu tiên kể từ ngày vào trường đã gieo cho những đầu óc còn non nớt chỉ
biết ăn, học và chơi của chúng tôi cái cảm giác kỳ lạ, hoang mang, lo sợ về
sự sống và sự chết.
Chúng tôi vẫn nằm yên. Địch pháo thêm vài đợt, đạn rơi bên ngoài trường,
sau đó rồi im. Tình hình yên tĩnh trở lại.
Khoảng 11 giờ trưa, trong cái cảm giác hụt hẫng, hoang mang, toàn trường
như bất động lắng nghe tiếng Đại Úy Hoàng, cán bộ liên đoàn trưởng, thông
báo qua loa phóng thanh:
- Toàn trường chuẩn bị di tản! Các thiếu sinh quân cấp trưởng trang bị vũ
khí và nhận nhiệm vụ hướng dẫn và bảo vệ đoàn quân. Tập họp kiểm điểm quân
số! Chuẩn bị lên đường khi có lệnh.
Thế là hết ! Cơn bão lịch sử sắp tràn qua ngôi trường thân yêu đầy những kỷ
niệm của tuổi thơ. Lệnh ra được tuân theo răm rắp. Khoảng xế một giờ trưa,
toàn thể Thiếu Sinh Quân bắt đầu di chuyển khỏi nhà trường cùng với tất cả
cán bộ, nhân viên. Đoàn di tản bắt đầu rời trường theo thứ tự từ nhỏ đến
lớn.
Là Thiếu Sinh Quân tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn Hùng Vương, liên lớp 12,
tôi đi hàng đầu cùng các em nhỏ. Đội ngũ Thiếu Sinh Quân lặng lẽ di chuyển
dưới ánh nắng Vũng Tàu chói chang. Đa số anh em là những đứa trẻ mất cha,
mất mẹ trong chiến tranh, ngôi trường Mẹ Thiếu Sinh Quân trở thành tổ ấm
đầu đời và tương lai, nay phải đoạn lìa, phải ra đi, những trái tim non đã
bước đi những bước bùi ngùi, vương vấn. Đi về đâu? Với ai?
Thông báo toàn trường sẽ được di tản bằng tàu không là câu trả lời trọn
nghĩa cho những ý nghĩ mênh mang trong đầu những đứa trẻ chưa thành người
lính. Đi được nửa đường thì đột nhiên chúng tôi bị một số binh sĩ Thuỷ Quân
Lục Chiến chặn lại. Trung tá Dzoanh đến tiếp chuyện với người chỉ huy toán lính.
Chúng tôi không rõ nội dung cuộc nói chuyện, song thấy không khí và sắc mặt
của cả hai bên đều lộ vẻ căng thẳng. Qua tiếng được, tiếng mất, chúng tôi
đoán Thuỷ Quân Lục Chiến đã chiếm giữ bến cảng để họ di tản. Họ buộc chúng
tôi phải quay trở lại trường. Cuối cùng, lệnh quay về trường được ban
xuống.
Trên đường về, tâm hồn của tất cả mọi người đều trĩu nặng. Bắc quân càng
lúc càng sát nách, đường thoát bị tắt nghẽn, sinh lộ càng lúc càng
hẹp dần. Không ai bảo ai, tất cả mọi người đều thấy cái cơ may được di tản
thật là mong manh
Về đến trường, chúng tôi được tập trung ở sân banh. Chỉ huy trưởng thông
báo là kế hoạch di tản được thay đổi. Theo kế hoạch này, chúng tôi sẽ được
bốc tại trường bằng trực thăng để đưa ra Hạm Đôi 7 ở ngoài khơi Vũng Tàu. Thời
gian như chậm lại trong giây phút chờ đợi nặng nề. Cả đám chúng tôi cùng
bật dậy như những chiếc lò so khi thấy một chiếc trực thăng đáp xuống sân
trường. Niềm hy vọng lại nhen nhúm bốc lên cùng đám bụi mù tung cao theo
cánh quạt. Hành khách của chuyến không vận đầu tiên này gồm một cố vấn Mỹ
mặc thường phục, Trung Sĩ 1 Ngộ, cán bộ trường, và 7 em Thiếu Sinh Quân
thuộc Tiểu Ðoàn Quang Trung, là liên lớp nhỏ nhất của trường.
Chuyến bay cất cánh rời khỏi vận động trường. Chúng tôi thẫn thờ tìm chỗ
ngồi chờ đợi. Thời gian ngóng đợi kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ mà chúng
tôi có cảm tưởng như là một thế kỷ. Anh em nhìn lên bầu trời xanh chờ bóng
dáng của chiếc trực thăng, chờ âm thanh của những cánh quạt. Chiếc trực
thăng cứu tinh ngày càng biền biệt tăm hơi khi buổi chiều càng lúc càng ngả
bóng dần trên sân trường. Nhìn lên cột cờ, lá cờ vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc
vẫn còn tung bay. Nhìn xuống sân trường, đoạn trường, ngao ngán.
Khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi sững sờ nhìn chiếc xe chở Trung tá Chỉ huy
trưởng lăn bánh vội vàng rời khỏi cổng trường. Trái tim nghẹn đắng một nỗi
uất ức kèm theo một nỗi chới với hoảng hốt của một đứa bé lạc mẹ giữa buổi
chợ đông nghẹt những người. Loa phóng thanh một lần nữa xác định một thực
tế phũ phàng:
- Kể từ giờ phút này, chúng tôi không còn trách nhiệm với các em nữa, các
em hãy tự lo lấy bản thân!
Thế là quá rõ. Chúng tôi đã bị bỏ rơi. Ngôi trường này là nhà. Các cán bộ
là người thân. Giờ đây chúng tôi biết phải làm gì, biết đi về đâu. Thế là
như một bầy ong vỡ tổ, chúng tôi tung ra tản mát chạy khỏi trường. Chạy đi
đâu? Chẳng biết ! Tại sao chạy? Chẳng hiểu! Thấy bạn bè chạy thì mình cũng
chạy. Thế thôi!
Tôi và Nguyễn Lương Thịnh, biệt hiệu Thịnh nhóc (hiện ở tại Việt Nam), cùng
chạy chung. Tay cầm súng, tay gạt các nhánh sậy che phủ con đường mòn sau
núi, chúng tôi chạy hộc tốc như bị cọp đuổi sau lưng. Chúng tôi ra tới Bãi
Trước và nhận ra tình trạng náo loạn ngoài đường phố, tiếng đạn nổ tứ tung,
dân chúng ai cũng đóng chặt cửa, trốn trong nhà.
Thật không khác một đám
loạn kiêu binh
Tôi thấy ở phía trước mặt, cách chỗ tôi đứng khoảng 200 thước, một Thiếu
Sinh Quân cũng cầm súng như tôi bị một người lính, không biết là ta hay
địch giả dạng, hành hung và giật lấy khẩu súng của em. Tôi không hiểu vì
sao. Hoảng hốt tôi và Thịnh vội vàng vất súng và quay ngược chạy trở về
trường.
Trong phút giây này, có lẽ chỉ có trường tạm thời còn là tổ ấm dung
thân. Mệt và khô cổ đến đắng họng. Chẳng hiểu sao chúng tôi lại có thể chạy
liên tục từ trường ra bãi trước và từ bãi trước trở về trường như vậy.
Về đến gần trường, tôi chợt nhớ ra gia đình người bạn cùng liên lớp là Tô
Trích Long Vân. Cha của Vân là Thiếu Úy Tô Trích Mầu, một cán bộ của
trường. Gia đình của Vần nằm trong khu gia binh gần trường. Thế là chúng
tôi chạy đến gõ cửa xin tạm náu. Bố mẹ Vần dọn cơm cho chúng tôi ăn. Mẹ Vần
nhìn Thịnh và tôi đang ngấu nghiến ngồi ăn với ánh mắt xót thương, trìu
mến. Tôi không bao giờ quên được ánh mắt của bà. Có lẽ bà đang nghĩ tội
nghiệp cho hai đứa chúng tôi.
Là những bạn học cùng lớp, Vần còn có gia đình ruột thịt ở bên cạnh, hai
đứa chúng tôi thì tứ cố vô thân, không biết sẽ trôi dạt về đâu trong cơn
biến loạn. Xong bữa cơm, nhìn ra ngoài trờI, đêm đen đã trùm kín không gian
tự lúc nào. Căn nhà như thu mình trong nỗI lo âu. Mọi người cứ ngồi nhìn
nhau chẳng ai nói một lời.
Trong lúc mọi người đang chìm đắm trong những suy tư riêng, tôi bỗng nghe
tiếng loa phóng thanh từ trong trường vọng lại:
- Các anh Thiếu Sinh Quân lớp lớn xin trở về trường! Chúng em cần các anh
lắm.
Tiếng gọi của em nhỏ Thiếu Sinh Quân vang vọng trong màn đêm, thúc bách não
nuột như tiếng kêu chim chíp của gà con mất mẹ, làm cho tôi vô cùng xốn
xang, bức xúc. Các em chẳng có nơi nào dung thân, chỉ còn biết trông cậy
vào các anh lớn đùm bọc. Là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn lớp lớn nhất, tôi
nhận ra trách nhiệm của mình. Tôi không thể ngồi yên khi nghĩ đến bạn bè và
đàn em đang ở trong trường. Có thể lúc này Bắc quân đã có mặt đâu đó gần
Vũng Tàu hay quanh trường, nhưng tiếng gọi loa đã khiến tôi phải đứng lên
và cương quyết trở lại trường với các em. Bố Mẹ Vần lo lắng khuyên chúng
tôi đổi ý. Tôi cám ơn Bố Mẹ Vần và nói trước khi cùng Thịnh phóng vào đêm
tối:
- Tụi con không thể bỏ các em được!
Về đến trường, các bạn cùng liên lớp với tôi như Lâm A Sáng, Phạm Ngọc
Trình, Nguyễn Văn Minh cũng đã có mặt. Tôi nhận thấy các bạn đã phá cửa kho
vũ khí của trường và đang hì hục khuân vác súng đạn ra các ổ canh gác. Một
toán các Thiếu Sinh Quan khác thì đang xả thịt một con bò, lui cui nấu cơm
và luộc thịt. Thế là tôi vớ lấy một cái nón sắt, chụp một khẩu carbine cùng
với Thịnh, cũng trang bị y hệt, lúc nào cũng kè kè bên cạnh. Hai đứa chúng
tôi tự xem trách nhiệm tổ chức canh gác như nhiệm vụ được anh em giao phó.
Nhìn lên bầu trời đen thẳm với nỗi cô đơn chợt đến, chợt đi, tôi suy nghĩ
lan man với một bài toán không đáp số. Vì trách nhiệm của anh lớn bảo bọc
đàn em, chúng tôi sẵn sàng cho một cuộc chiến. Cuộc chiến này sẽ đi về đâu
? Chúng tôi không biết. Tương quan lực lượng nghiêng lệch ra sao? Chúng tôi
chẳng cần bàn. Không ai trong chúng tôi tin là mình sẽ chiến thắng, nhưng
chúng tôi vẫn sẽ chiến đấu, ít nhất chúng tôi cũng phải đánh trả đích đáng
những ai muốn chiếm lấy ngôi trường này, nơi dung thân cuối cùng của chúng
tôi.
Tôi và Thịnh vác súng đi một vòng toàn trường. Thăm các chốt và các chòi
canh. Các chốt canh gác các hướng xâm nhập chủ yếu đều được trang bị vũ khí
cộng đồng với xạ thủ, phụ tá xạ thủ và nhân viên tiếp đạn. Nhìn những Thiếu
Sinh Quân đàn em chững chạc, tự tin bên những ổ súng, thành thạo nạp những
băng đạn vào súng, sẵn sàng khai hoả, tôi bỗng thấy các em chợt lớn lên như
những anh hùng Phù Đổng. Tôi đặt mật khẩu dặn các chốt canh phải học thuộc,
nếu thấy bóng người thì lên tiếng hỏi. Trả lời không đúng mật khẩu là
“quạng” liền lập tức. Toàn trường đặt trong tình trạng báo động và sẵn sàng
chiến đấu bất cứ lúc nào.
Sau khi dạo vài lần, nhận thấy các chốt canh đã được chuẩn bị đạn dược chu
đáo, mật khẩu thông thuộc, tất cả mọi người đều được phân phát khẩu phần
đầy đủ. ( Nhìn càng bạn “chén” bữa cơm nửa khê, nửa sống một cách ngon
lành, tôi có cảm giác bữa cơm hôm nay có lẽ là bữa cơm ngon nhất kể từ ngày
nhập trường của các bạn.)
Tôi và Thịnh quay lên phòng làm việc của chỉ huy trưởng nghỉ dưỡng sức. Lúc
này Thịnh quá mệt, chẳng còn tha thiết gì nữa. Cậu ta chui ngay vào một góc
và chỉ vài phút sau là đã bắt đầu “kéo đờn cò.” Ngoài trời đêm đen thật
thanh vắng, tôi ra ngoài đứng trên ban công nhìn qua trại gia binh bên
cạnh, tự hỏi không biết gia đình Vần đang làm gì và nghĩ đến ánh mắt yêu
thương của Mẹ Vân nhìn hai đứa tôi khi ăn cơm với linh cảm mình sẽ không
bao giờ có lại được bữa cơm đó.
Nhìn qua lầu 2 phòng quân số, tất cả đều yên tĩnh. Tôi biết một số quá mệt,
chắc cũng đã “hồn bướm mơ tiên,” tuy nhiên hẳn cũng đã phân công thay phiên
nhau ngủ. Những con gà con rối loạn chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ nay đã
trở thành những con mãnh hổ đang nằm phục sẵn. Không ai có thể ngờ được sức
mạnh của những con mãnh hổ này lợi hại đến nhường nào.
Tôi quay lại phòng chỉ huy trưởng, và ngủ thiếp đi tự lúc nào không hay.
Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang ở nhà quây quần cùng với cha mẹ và anh
em. Hai đứa em gái của tôi, bấy giờ mới được 7 và 8 tuổi, đòi tôi dẫn đi
chợ. Hằng năm, mỗi lần được về phép thăm nhà, anh em chúng tôi, như đã
thành thông lệ, thường được cha mẹ cho tiền. Hai cô em gái của tôi thì rất
thích ăn yaourt. Ở chợ gần nhà có quán của bà Ba, yaourt của bà làm thật là
ngon tuyệt. Thế là ba anh em chúng tôi lại đến vòi mẹ xin tiền rồi mỗi đứa
một bên, tôi dắt hai em đi chợ. Đi gần đến chợ thì… một em Thiếu Sinh Quân
lay tôi dậy. Tôi mở mắt thấy trời hừng sáng.
Em nói
Anh Dũng ! Có lính đông lắm, đang đi về phía mình
Tôi bật dậy, nhảy ngay ra ban công nhìn về hướng đại lộ độc đạo dẫn vào
cổng trường. Trời đang mưa lâm râm, còn mờ mờ tối, cảnh vật rất yên tĩnh.
Tôi chẳng nhìn thấy gì và nghĩ cậu bé lay mình dậy chắc vì hoảng sợ nên
tưởng tượng, trông gà hoá cuốc. Sắp sửa quay lưng trở về chỗ nằm thì tôi
chợt nghe tiếng oang oang của Hạ Sĩ Hoành, các anh em đặt biệt hiệu vui là
Hoành heo. Anh Hoành là hạ sĩ quan cán bộ hỏa đầu vụ. Tôi ngạc nhiên với sự
hiện diện của Hạ Sĩ Hoành, chẳng biết Anh nhập cuộc từ bao giờ. Hạ sĩ Hoành
bảo chúng tôi:
- Tụi bay ở đó đi! Chắc là lính mình đó ! Để tao ra coi thử!
Cùng đi với hạ sĩ Hoành là Nguyễn Văn Thành liên lớp 12 và một Thiếu Sinh
Quân nữa tôi không biết tên. Đến lúc đó tôi mới phát hiện có môt nhóm người
lố nhố ở tít đằng xa đang tiến dần về phía chúng tôi. Tôi đứng trên lầu
căng mắt theo dõi và dặn anh em chuẩn bị sẵn sàng cho mọi bất trắc. Đột
nhiên, tất cả chúng tôi đều nghe tiếng hạ sĩ Hoành la lớn:
- Việệt Cộộộng!
Tiếng hô vừa dứt thì lập tức tất cả hỏa lực đặt sẵn ở lầu 1 phòng quân số,
phòng chỉ huy, các khu vực tháp canh nhất tề khai hoả yểm trợ cho đồng đội
chạy trở vào trường. Bắc quân chắc không thể nào ngờ họ lại được đón tiếp
một cách “nồng hậu” như vậy. Suốt khoảng thời gian gần 15 phút, hoả lực từ
trong trường dập ra thật dữ dội. Bắc quân bị tấn công bất ngờ, chui rúc tìm
chỗ tránh đạn, chỉ nghe rời rạc vài tiếng AK bắn trả. Có lẽ họ nghĩ trường
Thiếu Sinh Quân đã di tản và bỏ trống. Những phút giây khai hoả dữ dội ở
cổng trường đã làm cho tất cả lực lượng chiến đấu còn lại của trường tỉnh
táo và sẵn sàng ở vị trí ứng phó 5/5.
Bên ngoài trường, hẳn là đồng bào đã choàng thức và ngạc nhiên, lo âu, nhìn
về hướng trường Thiếu Sinh Quân. Một buổi sáng họ không bao giờ quên. Trong
trường, anh em di chuyển nhộn nhịp hẳn lên. Tôi nhìn thấy Lâm A Sáng (hiện
đang định cư tại Seatle, Washington ) và Phạm Ngọc Trình (đã chết ở Việt
Nam) chạy lúp xúp sang ban quân số, đứa vác súng, đứa vác đạn. Đến ban quân
số, tầng trên đã chật ních những xạ thủ, Sáng và Trình phải nằm thủ ở bậc
cầu thang. Thoắt một cái khẩu trung liên Bar của Sáng và Trình đã sẵn sàng
tham gia cuộc chiến. Súng vẫn còn nổ giòn giã thì Hoàng Văn Mạ đang thủ
khẩu đại liên trên lầu gào lớn:
- Ê, tụi bay! Bắn cho chính xác và vừa thôi, coi chừng hết đạn nghe!
Tiếng gào của Mạ, như thể một mệnh lệnh, khiến cho tất cả các khẩu súng đều
ngừng khạc lửa. Khói súng mịt mù. Mùi thuốc súng nồng nặc. Tai tôi lùng
bùng vì tiếng đạn tưởng rách màng nhĩ. Xa xa ngoài cổng trường, các bóng
Bắc quân biến đi đâu mất. Bên trong sân trường và các ổ chiến đấu thì hết
sức tĩnh mịch, cái yên tĩnh rùng rợn của một hứa hẹn đổ máu thật dễ sợ mà
lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm thấy. Tôi đoán Bắc quân thế nào cũng sẽ
tấn công để chiếm trường. Tôi cũng biết quyết tâm của những tay súng Thiếu
Sinh Quân liều lĩnh. Chúng tôi lúc này như đã ở vào thế cận chân tường,
chiến đấu trong tâm trạng “điếc không sợ súng” và ý nghĩ “không còn gì để
mất!”
Bên ngoài, trời đã bắt đầu rạng sáng. Trấn tĩnh đội hình, Bắc quân bắt đầu
tấn công chiếm trường. Họ cho một toán quân tiến qua khách sạn đối diện
trường ở bên kia đường và chiếm giữ các vị trí trên các tầng lầu nhằm giảm
lợi thế của chúng tôi khai hoả từ trên cao. Một mặt, họ đưa hỏa lực mạnh
như súng cối, súng phóng lựu, B-40 để công phá chúng tôi từ mặt đất, vì với
vị trí phòng thủ kiên cố, hoả lực nhẹ của họ không có tác dụng uy hiếp được
chúng tôi.
Cuộc chạm súng đợt hai khởi diễn với quả đạn pháo của Bắc quân rớt vào giữa
sân banh sau lưng chúng tôi. Lần đầu tiên bị pháo giữa sân trường, lẽ ra
phải nằm xuống tránh miểng đạn, một số các em hoảng sợ chạy tán loạn tìm
chỗ che lưng, cũng may là không ai bị trúng thương. Tiếp theo là một phát
B-40 thổi tung cổng trường, một em Thiếu Sinh Quân, có lẽ thuộc liên lớp 9
hoặc 10, chạy ra kéo cửa đóng lại. Vừa đóng xong, em chạy qua nấp bên bức
tường đá phía phòng chỉ huy. Tất cả sự việc xảy ra trong vòng không đầy một
phút, em vừa kịp lách mình vào thành đá là một quả B-40 thứ hai nốI tiếp
một lần nữa mở toang cổng trường. Giỡn mặt với tử thần như vậy cũng tạm đủ.
Từ giờ phút đó chẳng ai “thèm” chạy ra đóng cửa nữa. Nhìn rõ mặt, đánh nhau
mới “sướng!”
Mặc dầu có những lỗi lầm ngu ngơ của lần đầu tiên trong đời đối mặt với kẻ
thù như vừa kể, cuộc chạm súng đợt hai đã diễn ra thật dữ dội. Đối phó với
địch quân trên tầng lầu khách sạn, Phú Văn Đại cầm khẩu M-79 bắn trực xạ
vào các ô cửa phòng khách sạn. Chẳng hiểu hắn luyện tập khi nào mà xử dụng
vũ khí rất chuyên nghiệp. Bắc quân bị khốn đốn rất nhiều với anh chàng này.
Đối phó với toán quân trên bình địa là các khẩu đại liên phối hợp với các
khẩu trung liên, tiểu liên thay phiên bọc lót cho nhau. Những tràng đạn
giòn tan đủ âm độ được tô điểm bởi những phát nổ cầm chừng của các khẩu
garant nhịp nhàng ăn ý, lâu lâu lại có tiếng dậm đậm đà của cây phóng lựu
M2. Tất cả các âm thanh quyện lại như một giàn nhạc giao hưởng điêu luyện
và biến thành một lướI đạn chằng chịt phủ xuống đầu đốI phương.
Với quân số hơn một tiểu đoàn chính quy Bắc Việt, đối phương dồn hoả lực cố
gắng tạo kẽ hở để vượt lên tiến đến gần chúng tôi. Nhưng với vị trí thuận
lợi và những tay súng gan lì không hề nao núng trước làn đạn kẻ thù, các em
nhỏ Thiếu Sinh Quân đã buộc Bắc quân phải bó tay, dậm chân tại chỗ suốt hơn
một giờ chiến đấu.
Đến khoảng 7 giờ sáng, từ bên phòng chỉ huy trưởng, tôi chạy băng qua phòng
quân số để theo dõi việc tiếp đạn cho các khẩu đại liên đặt tại đó. Qua hai
cánh cổng mở toang, tôi thấy một bộ đội cộng sản đang đặt khẩu phóng lựu
trên vai nhắm thẳng ngay tôi. Tôi bật ngay khẩu carbine trên tay hướng về
hắn bóp cò. Cùng lúc, viên đạn từ nòng súng của hắn cũng xẹt ánh sáng xanh
bay về phía tôi. Chệch qua mặt tôi khoảng hai gang tay, viên đạn trúng đài
biểu tượng Nhân Trí Dũng phá tan một mảnh đá lớn.
Ngay lúc đó, tôi cảm thấy hoa mắt, chân và vai tê rần. Khuỵu xuống vớI chân
phải bị trúng thương, tôi liếc nhìn xuống chiếc áo sơ mi đang mặc loang lổ
đầy máu tươi. Một thoáng tích tắc ngạc nhiên không hiểu tại sao áo mình đầy
những máu mà không cảm thấy một chút đau đớn gì thì tôi ngã ra ngất xỉu.
Trong lúc đó Lâm A Sáng cũng bị một phát đạn vào chân. Lê Văn Tánh (còn ở
tại Việt Nam) chạy lại băng bó cho Sáng, một lúc sau cũng lãnh một viên đạn
vào đùi.
Thế là Phạm Ngọc Trình cõng Lâm A Sáng, Nguyễn Văn Minh cõng tôi chạy qua
khu Văn hoá. Nghe kể lại, hai Thiếu Sinh Quân đã dùng tấm drape giường làm
võng khiêng tôi đang mê man ra đến bệnh viện Vũng Tàu cách trường vài cây
số.
Các anh em Thiếu Sinh Quân ở lại vẫn tiếp tục chiến đấu mãi cho đến gần 10
giờ sáng. Khi ấy đạn dược đã gần cạn, các bạn mới quyết định gọi loa điều
đình ngừng bắn và treo cờ trắng đầu hàng. Một sự đầu hàng trong danh dự vì
các em vẫn đường hoàng làm lễ hạ Quốc kỳ và thay vào đó bằng tấm drape
trắng dong lên cho phép Bắc quân đặt chân vào ngưỡng cửa ngôi trường yêu
dấu. Bắc quân hẳn phải bàng hoàng khi thấy những đối thủ kiêu hùng của họ
chỉ là các em Thiếu Sinh Quân tuổi trung bình 15, 16 mà thôi. Họ uất ức,
nhưng chắc hẳn cũng phải thán phục các tác giả của 6 xác bộ đội đang nằm
phơi nắng ngoài cổng trường.
Theo lời thuật lại của Lâm A Sáng, thì trong hơn 100 Thiếu Sinh Quân tham
gia trận đánh, đa số đã leo rào sau trường trốn thoát trước khi Bắc quân
xông vào cổng trường, chỉ còn vài chục em nhỏ ở lại với các anh lớn bị
thương không thể đào thoát. Tất cả bị bắt giữ đem nhốt qua trại gia binh Cô
Giang bên cạnh trường. TrạI Gia Binh Cô Giang vốn là ngõ ngách quen thuộc
của các Thiếu Sinh Quân. Kết quả là tất cả đã chui rào biến mất, khiêng
luôn cả Lê Văn Tánh bị thương nặng ở đùi theo. Nhốt Thiếu Sinh Quân ở Trại
Cô Giang chẳng khác nào thả hổ về rừng.
Trở lại phần tôi, tỉnh dậy trong bệnh viện Vũng Tàu thì trời đã tối. Chân
và vai đau đớn vì miểng đạn, mặt thì sưng vù không há miệng được do vết
thương ở bên má. Cho đến bây giờ, hơn 27 năm sau, ngồi viết đến đoạn này
tôi vẫn không ngăn được niềm xúc động và tự hào cho tình yêu thương lẫn
nhau hiếm có của những con người Thiếu Sinh Quân.
Bệnh viện đầy ngập những người bị thương. Nhân viên y tế không đủ để chăm
sóc. Tôi bị bỏ nằm trên nền đất lạnh cả đêm chẳng có y tá nào ngó ngàng
tới. Chỉ có một em Thiếu Sinh Quân lớp 9 mà mãi đến 27 năm sau, tình cờ do
một duyên may tôi mới được biết tên, là Nguyễn Kim Hùng (hiện cư ngụ tại
Oklahoma), đã ở lại chăm sóc cho tôi. Em thức suốt đêm cạy miệng đổ sữa cho
tôi cầm sức và quanh quẩn bên tôi để giúp đỡ. Đến sáng hôm sau thì một đám
bạn cùng lớp gồm Thịnh nhóc, Thành râu (hiện định cư tại Minnesota), Thiện
huế và vài anh em nữa tôi không nhớ tên đến bệnh viện đón tôi đi. Các bạn
rất vất vả thay phiên nhau cõng tôi đi mãi đến khi trời chập choạng tối thì
chúng tôi mới về đến Bà Rịa. Nghỉ ở Bà Rịa một đêm, sáng hôm sau, chúng tôi
lại dìu dắt nhau tìm phương tiện để trở về thành phố.
Lịch sử đã sang trang. Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua. Trường Thiếu
Sinh Quân ngày nay đã trở thành trụ sở của một công ty dầu khí ở Vũng Tàu.
Tuy nhiên, trong lòng những người dân xứ biển, hình ảnh hào hùng của các
Thiếu Sinh Quân trong trận đánh giữ trường lịch sử mãi mãi sẽ không bao giờ
phai nhạt. Tổ quốc sẽ ghi danh trong quân sử những người con Thiếu Sinh
Quân vũ dũng kiêu hùng đã viết nên thiên anh hùng ca bất khuất cho quân
đội.
HẾT
CTSQ Nguyễn Anh Dũng và CTSQ Lâm A Sáng
Colorado, ngày 24 tháng 10 năm 2002
(Edited by Bắc Phong Sài Gòn/ K23 Thủ đức)
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment