Monday, October 1, 2012

SỰ THẬT HỒ CHÍ MINH


 

Những Tên Gián Điệp Tầu của Mao - Dùng Tên Hồ Chí Minh - Âm Mưu,  dùng đảng CSVN để dựng một Thái Thú Tầu do đảng CSVN lãnh đạo, tiêu diệt hơn 10 triệu người VN trong 72 năm qua.

 

Những Tên Gián Điệp Tầu của Mao - Dùng Tên Hồ Chí Minh - Âm Mưu của Mao, dùng đảng CSVN để dựng một Thái Thú Tầu do đảng CSVN lãnh đạo, tiêu diệt hơn 10 triệu người VN trong 72 năm qua.

SỰ THẬT HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Ái Quấc - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, những cái tên của những con người bí ẩn trong lịch sử. Viết về những người này, có quá nhiều dữ liệu cần phân tích, cần rất nhiều trang lý luận với nhiều chủ đề khác nhau, việc này cần nhiều thời gian xin dành cho các sử gia chuyên nghiệp. Còn tôi, trong khi chờ đợi các sử gia lên tiếng, tôi xin viết một số ý nhỏ, một cách thật đơn giản sao cho mọi người đều có thể hiểu được. Trong bài viết hạn hẹp này, tôi chỉ đề cập tới Hồ Chí Minh.

NHÃ THANH SỬ

 

NHỮNG NGƯỜI MANG TÊN HỒ CHÍ MINH

"Hồ Chí Minh", theo như công bố của đảng Cộng sản, là "một người" đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945 và mất ngày 02/09/1969. Sự thật, "Hồ Chí Minh" không phải là một người, mà tất cả là "5 người gồm 1 Thật và 4 Giả".

NHỮNG NGƯỜI MANG TÊN HỒ CHÍ MINH: 1 THẬT - 4 GIẢ
HCM thật bị CS xóa hình
Hồ giả 1Hồ giả 1
Hồ giả 2
Hồ giả 3 bị CS xóa hình
Hồ giả 4
HỒ CHÍ MINH Thật
02/09/1945 - 02/1946
.Là người Việt.
.Đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945 với tên là Hồ Chí Minh.
.Giải tán đảng Cộng sản.
.Thành lập Chính phủ Liên hiệp, đa đảng.
.Quốc hội bầu làm Chủ tịch nước.
.Thiên về Mỹ, dân chủ dân quyền.
.Bị Cộng sản xóa tất cả hình ảnh.
HỒ giả 1
03/1946 - 1953
.Là người Việt.
.Ký Hiệp định sơ bộ mời Pháp trở lại Việt Nam.
.Tiêu diệt các đảng phái không Cộng sản. Vụ án Ôn Như Hầu.
.Thiên về Liên sô, độc tài đảng trị.
.Vợ là Tăng Tuyết Minh.
.Nghiện thuốc lá nặng.
HỒ giả 2
1953 - 1965
.Là người Tàu.
.Theo lệnh Trung Quốc, khống chế Việt Nam.
.Cải cách ruộng đất giết dân Việt.
.1958 gài bẫy Phạm Văn Đồng ký công nhận lãnh hải của Trung Quốc.
.Dâm và ác. Giết nhân tình Nông Thị Xuân.
.CÂM (nghĩa bóng): Nói giọng Tàu lơ lớ nên bị Cộng sản xóa âm thanh.
HỒ giả 3
1965 - 02/09/1969
.Là người Tàu.
.Theo lệnh Trung Quốc, khống chế Việt Nam.
.Công khai cho mọi người thấy mình là người Tàu, do đó bị Cộng sản xóa tất cả hình ảnh.
  Hồ giả 3 bị CS xóa hình
.CÂM (nghĩa bóng): Nói giọng Tàu lơ lớ nên bị Cộng sản xóa âm thanh.
HỒ giả 4
1969
.Là người Tàu.
.Làm người mẫu vẽ Hình chân dung giả mạo Hồ Chí Minh.
hình vẽ giả mạo HCM

 

HỒ CHÍ MINH Thật

- Người đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, được gọi là "Hồ Chí Minh thật".
- Ngày 06/01/1946 người dân bầu cử Quốc hội đầu tiên. Sau đó Quốc hội bầu "Hồ Chí Minh thật" làm Chủ tịch nước.

Với một người nổi tiếng như thế, chúng ta rất mong muốn được biết mặt mũi ra sao, nhưng tìm mãi trong tất cả tài liệu mà Cộng sản công bố đều không nhìn ra được chân dung của "Hồ Chí Minh thật".

Xem những phim tài liệu có nhắc đến ngày đọc Tuyên ngôn độc lập 02/09/1945 chúng ta chỉ có thể nhìn thấy cảnh "Hồ thật" và những người cùng đứng trên lễ đài ở xa xa, không rõ mặt (hình a và b). Trong khi những người dân thì được ưu tiên quay cận cảnh rõ ràng (hình c và d).
(a)  (b)  (c)  (d)

Tương tự với những đoạn phim tài liệu về ngày Quốc hội bầu Chủ tịch nước, hình ảnh "Chủ tịch nước" và các thành viên Chính phủ cũng xa xa, không rõ mặt mũi.

Chắc chắn trong ngày đọc Tuyên ngôn độc lập quan trọng ấy, những người quay phim phải trân trọng ưu tiên quay cận cảnh chân dung của Hồ Chí Minh và những người tham gia. Đồng thời họ phải cẩn thận quay rõ khuôn mặt của Chủ tịch nước và các thành viên trong Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhưng tại sao chúng ta không nhìn thấy những cảnh quay này, chính vì Cộng sản đã che dấu tất cả. Lẽ ra Cộng sản phải vui mừng phổ biến chân dung của "Hồ Chí Minh thật" nhưng tại sao lại che dấu ?

Hãy xét lại những gì "Hồ Chí Minh thật" đã làm:
- "Hồ thật" đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945 với nội dung bình đẳng dân chủ dân quyền và 5 lời thề chống Pháp.
- 11/09/1945 quân của Tưởng Giới Thạch vào miền Bắc Việt Nam. 23/09/1945 quân Anh Pháp vào miền Nam Việt Nam.
- Tháng 10/1945 "Hồ thật" viết thư gửi lãnh đạo Uỷ ban Nhân dân các Bộ, Tỉnh, Huyện và Làng "... rằng các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các Làng đều là đầy tớ của dân, nghĩa là để gánh vác việc dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới sự thống trị của Pháp, Nhật".
- 11/11/1945 "Hồ thật" tuyên bố giải tán đảng Cộng sản Đông Dương.
- 01/01/1946 thành lập Chính phủ Liên hiệp gồm 3 thành phần, đa đảng.
- 06/01/1946 tổ chức cho người dân bầu cử Quốc hội đầu tiên. Sau đó Quốc hội bầu "Hồ Chí Minh thật" làm Chủ tịch nước.
- 28/02/1946 Chủ tịch nước "Hồ Chí Minh thật" gửi thư có chữ ký cho Tổng thống Mỹ, yêu cầu hỗ trợ.

Nếu "Hồ thật" là đảng viên Cộng sản từng ở Liên sô và Trung Quốc, đã yêu chủ nghĩa Mác - Lê nin, thì tại sao trong Tuyên ngôn độc lập lại chỉ nhắc đến Hiến pháp của Mỹ ? Tại sao nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam viết thư yêu cầu Tổng thống Mỹ giúp đỡ ? Vậy còn Hiến pháp của Liên sô đâu, Chính phủ Liên sô đâu, mà một đảng viên Cộng sản như "Hồ thật" lại quên ? Những việc làm của "Hồ thật" có vẻ thiên về nước Mỹ, thiên về một Chính phủ Cộng hòa Dân chủ và Dân quyền, không thấy quan tâm gì đến Liên sô, một Chính phủ độc tài đảng trị. Có thể vì thế "Hồ Chí Minh thật" mới bị Cộng sản âm thầm loại trừ và thay thế bằng một "Hồ giả" đi đúng đường lối của Cộng sản.

Thời gian tồn tại của "Hồ Chí Minh thật" quá ngắn ngủi, chỉ trong vòng vài tháng.

* Làm giả PHIM cảnh "HỒ đọc Tuyên ngôn độc lập": Nếu làm phim tài liệu mà không cho người dân thấy chân dung của người đọc Tuyên ngôn độc lập thì cũng kỳ quá, cho nên Cộng sản đành phải làm giả.

Trong phim tài liệu "Hình ảnh về đời hoạt động của Hồ chủ tịch" sản xuất năm 1960, có đoạn phim Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập khoảng 7 giây.



Hãy so sánh các hình liên tiếp 25:11 - 25:18. Chú ý có 3 phần: cái bàn, mây và cây, Hồ và micro.
(a) 25:11 - 25:12: cái bàn đứng yên, mây và cây di chuyển nhanh hướng xuống và qua trái, micro cũng đi xuống và qua trái. (Hay nhỉ, trong 1 giây mà mây bay rất nhanh, cái cây cũng biết đi, micro cũng chạy luôn)
(b) 25:14 - 25:15: cái bàn đứng yên, mây và cây đi qua phải, micro cũng qua phải. (Lạ quá, trước đó mây bay qua trái, bây giờ bay qua phải kéo theo cái cây cũng bay qua phải, micro cũng qua phải)
(c) 25:15 - 25:16: cái bàn đứng yên, mây và cây đi lên, micro cũng đi lên. (Ủa, mây bay lên trời, cây và micro cũng lên trời)
(d) 25:16 - 25:17: cái bàn đứng yên, mây và cây đi xuống, micro cũng đi xuống. (Ôi, mây rơi xuống đất, cây và micro cũng chui xuống đất)
(a)    (b)
(c)    (d)

Như vậy đây chính là cảnh cắt ghép các hình, gồm hình phông nền mây và cây, hình cái bàn, hình micro, và các hình Hồ với tư thế khác nhau, sau đó di chuyển vị trí các hình rồi dựng lại thành đoạn phim. Vì đây là cảnh giả nên chắc chắn Hồ này cũng giả nốt.

Tuy nhiên, Cộng sản đàn em thấy Cộng sản đàn anh bị sai lộ liễu quá, nên trong các phim tài liệu làm sau này, đã cắt bớt các cảnh chung quanh, chỉ phóng lớn hình Hồ, và chỉ lấy 1 giây phim để cho người xem khó nhận ra sự giả tạo.

Trong phim tài liệu "Hồ Chí Minh chân dung một con người" sản xuất năm 1990, đoạn phim Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập chỉ khoảng 1 giây, bị cắt không còn cái bàn với mây và cây nữa. 1 giây thì người xem chẳng còn nhận ra được cái gì nữa !


* Làm giả HÌNH cảnh "HỒ đọc Tuyên ngôn độc lập": Sau này, Cộng sản còn vẽ tranh làm giả Hình chụp cảnh Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập.

  Hình giả có nhiều điểm sai như sau:
- Microphone trong hình có dạng tròn và dẹp, có lưới chụp ở mặt sau. Thực tế, Microphone chỉ có lưới chụp ở mặt trước, còn mặt sau không có lưới chụp. Nhìn tấm hình, dễ dàng nhận ra tác giả đã nhầm lẫn vẽ Hồ phát biểu đối diện với mặt sau của Microphone, còn mặt trước có lưới chụp thì hướng ra ngoài. Sự dốt nát của tác giả đã tạo nên một tấm hình mà ai xem cũng nhận ra là giả, khiến Cộng sản mãi mãi mang tiếng lừa đảo trong lịch sử.
- Lá cờ đỏ sao vàng ngay trước mặt Hồ. Trong phim tài liệu chúng ta thấy chỉ có cờ đỏ sao vàng nằm ở tầng bên dưới, còn trước mặt Hồ không có cờ đỏ sao vàng (hình a). Hơn nữa, không ai treo cờ bằng cách bẻ gập xuống phần nền đỏ phía trên của ngôi sao. Đỉnh của ngôi sao còn nhô lên khỏi mặt vải, thật vô lý. Chính vì tác giả bức tranh muốn cho người xem thấy cờ đỏ sao vàng nên mới vẽ gán ghép như vậy.
- Cảnh nền phía sau lưng Hồ không có một người nào, lại có bóng đổ từ sáng trắng đến tối mờ giống như bức tường đứng sát lưng Hồ. Trong phim tài liệu thì sau lưng Hồ có rất nhiều người và không có bức tường nào.
- Bóng trên mặt Hồ và trên thân bên phải, bóng đường biên áo giữa ngực là sai. Hồ đang đứng ngoài trời nắng, nên khi chụp hình không có bóng quá đen và rộng như vậy. Nhất là không thể có bóng đường biên áo giữa ngực như vậy được.
- Túi áo và khuy áo quá to không đúng thực tế. 3 đường rãnh để cài khuy áo quá rộng và quá dài thì thật vô lý. Nút áo giữa lại nằm lệch khỏi đường rãnh cài. Túi áo phải lại bị xéo quá nhiều.
- Thân hình ngực Hồ bị méo và bị dẹp. Chân dung Hồ này chẳng giống bất kỳ chân dung nào của Hồ.
- Tranh vẽ Hồ mặc 1 áo kaki trắng. Trong hình trích từ phim tài liệu thì "Hồ thật" mặc 2 áo, một áo trắng bên trong và một áo ngoài sẫm màu (hình b và c).
- Ngoài ra, hình giả và đoạn phim giả có microphone không giống nhau, trong phim giả là khối trụ dài còn trong hình giả thì tròn dẹp. Chứng tỏ là do các tác giả khác nhau dàn dựng ra, đúng là Tổ trác !
- Thực tế đây là một tranh vẽ quá dở, mà dám dối gạt là Hình chụp Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập, rồi đem treo ở bảo tàng và phổ biến khắp nơi.

(a) (b) (c)



 

HỒ giả 1

- Xuất hiện khoảng đầu tháng 03/1946.
- 06/03/1946 "Hồ giả 1" ký "Hiệp định sơ bộ" với Pháp, mời Pháp trở lại Việt Nam. "Hồ giả 1" không cho các lực lượng quốc gia chống lại Pháp, còn hợp tác với Pháp để tiêu diệt các lực lượng quốc gia.
- 15/05/1946 quân của Tưởng Giới Thạch rời Việt Nam.
- 27/05/1946 "Hồ giả 1", Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng đi Pháp dự hội nghị La Fontainbleau, cử cụ Huỳnh Thúc Kháng ở Việt Nam thay quyền Chủ tịch nước.
- 12/07/1946 vụ án phố Ôn Như Hầu. Phe Cộng sản đồng loạt tấn công các trụ sở của các đảng Đại Việt Quốc dân Đảng và Việt Nam Quốc dân Đảng với lý do là để đập tan âm mưu đảo chính của họ cấu kết với thực dân Pháp.
- 14/09/1946 "Hồ giả 1" ký "Tạm ước" với Pháp.
- 31/10/1946 "Hồ giả 1" lập chính phủ mới, các thành phần Quốc gia bị loại trừ khỏi chính phủ Việt Minh. Cụ Huỳnh Thúc Kháng chết.
- 19/12/1946 "Hồ giả 1" tuyên bố hiệu triệu toàn quốc kháng chiến chống Pháp.
- 10/03/1952 "Hồ giả 1" cử Nguyễn Lương Bằng sang Liên sô làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

"Hồ giả 1" là tên cuồng tín Cộng sản, ngu trung với Quốc tế Cộng sản, và nhất mực trung thành với Liên sô cái nôi của Cộng sản. Sự liên kết ngày càng chặt chẽ giữa "Hồ giả 1" với đàn anh Liên sô làm đàn em Trung Quốc khó chịu, đây có thể là nguyên nhân làm "Hồ giả 1" biến mất. Sự biến mất bí ẩn của "Hồ giả 1" đánh dấu bước mở đầu cho quá trình "Cộng sản giết Cộng sản" một cách công khai với truyền thông bị bịt miệng, kế tiếp là "Cải cách ruộng đất" tàn khốc, và sau này tiếp diễn cho đến tận ngày nay.

"Hồ giả 1" có khuôn mặt rất xấu xí, cặp mắt gian tà. Ban đầu khi mới xuất hiện thì tỏ vẻ e dè, khi đã quen với quyền lực thì gian ác.

Trong phim tài liệu ngồi cùng bàn ăn với Phạm Văn Đồng, cảnh "Hồ giả 1" ngồi co ro khúm núm, cái đầu gật gù, che dấu hai bàn tay, ánh mắt sợ sệt, lo lắng bị phát hiện là đồ giả mạo. Xem 2 đoạn phim (Hồ & Phạm Văn Đồng - Hồ đầu gật gù mắt lấm lét) (chú ý phim và hình có bản quyền Getty Images).


Khuôn mặt "Hồ giả 1" hớn hở khi ký Hiệp định sơ bộ với Pháp.

"Hồ giả 1" sang Pháp ký Hiệp ước. Hình chụp ngày 14/07/1946 tại Paris, Pháp.
(chú ý hình có bản quyền Getty Images)

"Hồ giả 1" có vẻ không khôn ngoan, thích thể hiện những việc làm ngu ngốc. Hồ bảo nên tiết kiệm từng nắm gạo, đôi dép nhưng lại xài phung phí những thước phim tài liệu đắt tiền vào những cảnh quay không đáng như: Hồ đan giỏ, Hồ câu cá, Hồ chia thức ăn, Hồ chơi bóng chuyền, Hồ dùng khăn lau mình, Hồ trần trụi đi lông nhông v.v...

Hãy xem Hồ đan giỏ, Hồ câu cá.

Hồ chia thức ăn.

Hồ chơi bóng chuyền.

Hồ đi cầu khỉ, Hồ chẻ củi.

Hồ mắc mưa cởi quần áo.


Hồ dùng khăn lau mình.


Hồ trần trụi đi lông nhông, mắt còn nhìn lén máy quay phim nữa chứ !


Trong những năm ban đầu, "Hồ giả 1" mặt rất xấu xí rất gian tà, nên trong phim tài liệu Cộng sản thường xóa hết những cảnh quay chính diện chân dung. Thật tức cười khi thấy rõ khuôn mặt của những người dân, còn khuôn mặt của "Hồ giả 1" thì không rõ. Một ví dụ như "Hồ giả 1" gặp Việt kiều ở Pháp:

Tại sao không quay phim tài liệu cảnh Hồ lãnh đạo Chính phủ, cảnh Hồ họp bàn kế hoạch kháng chiến với các tướng lãnh ? Thực chất Hồ này ngu như bò, không biết suy nghĩ gì, chỉ là con rối bù nhìn, mọi việc đều do kẻ khác giật dây quyết định.

Hồ này không nghĩ ra được những tư tưởng cao cấp, mà chỉ nghĩ ra được những ý tưởng nhỏ hẹp, cởi áo cởi quần, tầm nhìn thấp kém, làm những việc tầm xàm và sai lầm đủ thứ. Những cảnh đóng kịch trước máy quay phim làm tôi ghê tởm Hồ này, vì sự giả dối một cách trơ trẽn không một chút xấu hổ của hắn.

Vợ là Tăng Tuyết Minh, hình thời trẻ và hình lúc tuổi già mòn mỏi đợi chờ với ảnh Hồ trên tường.
Tháng 05/1950, nhìn thấy hình Hồ Chí Minh trên Nhân Dân Nhật Báo (Trung Quốc), bà Tăng Tuyết Minh (1905-1991) nhận ra đây là người chồng tên Lý Thụy đã kết hôn với bà ngày 18/10/1926 tại thành phố Quảng Châu, hai người chia tay khi chiến tranh Quốc Cộng bùng nổ ngày 12/04/1927.
Sau đó bà đã báo cáo với tổ chức và gởi mấy lá thư cho ông Hồ, thông qua đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh là Hoàng Văn Hoan, nhưng đều không được trả lời.

Một cán bộ lãnh đạo Quảng Châu đã tới gặp bà, trao cho lá thư của bà Thái Sướng (một trong những người đã tới dự tiệc cưới năm 1926 cùng với bà Đặng Dĩnh Siêu, vợ của Chu Ân Lai) chứng thực Hồ Chí Minh chính là Lý Thụy cũng tức là chồng Tăng Tuyết Minh. Cán bộ này cũng giải thích lí do tại sao không tiện liên lạc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, hy vọng Tăng Tuyết Minh hiểu và lượng thứ việc này, yên tâm công tác. Sau năm 1954, bà Tăng Tuyết Minh xin qua Hà Nội gặp Hồ Chí Minh, cũng bị từ chối.

Bà Tăng Tuyết Minh về hưu năm 1977, rồi mất ngày 14/11/1991 tại Quảng Châu.
 



 

HỒ giả 2

- Xuất hiện khoảng cuối 1953, chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
- Là người Tàu. Theo lệnh Trung Quốc, khống chế Việt Nam.
- 19/12/1953 "Luật cải cách ruộng đất" được "Hồ giả 2" phê chuẩn và chính thức ban hành. Thực chất đây là quá trình giết hết những thành phần yêu nước Việt Nam kể cả Cộng sản, để xây dựng lực lượng lệ thuộc Trung Quốc.
- "Hồ giả 2" còn trẻ, sung sức nên có ham muốn tình dục, không được thỏa mãn công khai, nên Dâm đãng. Có nhân tình trẻ Nông Thị Xuân từ năm 1955, sanh một đứa con 1956, rồi bị giết 1957.
- 1958 gài bẫy Phạm Văn Đồng ký công nhận lãnh hải của Trung Quốc.
- 1959 tỏ ý muốn cưới vợ Tàu người Quảng Đông, nhưng không thành công.
- "Hồ giả 2" có gương mặt khá đẹp nên được Cộng sản quay nhiều phim tài liệu.
- Đặc điểm của "Hồ giả 2" là bị CÂM. Nói "Hồ giả 2" CÂM là nói theo nghĩa bóng, vì chúng ta không bao giờ thấy phim ảnh có tiếng nói của "Hồ giả 2", mà chỉ toàn nghe người khác nói dùm những lời phát biểu của hắn. Nguyên nhân là vì "Hồ giả 2" nói giọng Tàu lơ lớ nên bị Cộng sản xóa âm thanh.
- Giữa năm 1965 "Hồ giả 2" tìm cách quay về Trung Quốc, rồi lấy cớ sức khỏe yếu kém không chịu quay sang Việt Nam nữa.

"Hồ giả 2" chỉ đạo chiến dịch Điện Biên Phủ.

Vui mừng rơi lệ khi ôm được lãnh tụ Tàu.

"Hồ giả 2" lấy khăn lau mắt tự phê bình Cải cách ruộng đất, lòng tiếc nuối "Phải chi dân Quỳnh Lưu đừng nổi dậy chống lại, thì Hồ ta còn tiếp tục giết thêm nữa". Những người miền Bắc hôm nay phải biết ơn người dân Quỳnh Lưu hy sinh tính mạng để chặn bước chém giết của Cải cách ruộng đất.


Các cảnh đóng kịch khóc khác. Khóc trong nước.

Khóc ngoài nước.

Khóc đến nổi ông Tây cũng ngạc nhiên.

Vì còn trẻ, sung sức nên có ham muốn tình dục, không được thỏa mãn công khai, nên Dâm đãng.
Hồ giơ ngón tay giữa biểu thị cái tục trước mặt cô gái.

Hồ gặp gái, thấy có cơ hội là ôm hôn liền.

Hồ Tàu ôm và hôn người đẹp Trà Giang.

Nông Thị Xuân, người tỉnh Cao Bằng, thuộc sắc tộc Nùng, được đưa về Hà Nội sống lén lút với Hồ năm 1955, lúc đó cô Xuân 22 tuổi. Xuân có với Hồ một người con trai năm 1956, đặt tên Nguyễn Tất Trung. Bà Xuân muốn công khai hóa mối liên hệ, và đòi chính thức nhìn nhận đứa con nhưng Hồ vẫn không cho bà vào ở phủ chủ tịch với ông, và không làm lễ cưới. Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng bộ Công an chính phủ Hà Nội, đã giết bà Xuân ngày 11/02/1957, bằng cách cho người đánh búa vào đỉnh đầu (theo khám nghiệm của bác sĩ), rồi quăng xác ở dốc Cổ Ngư, ngụy tạo tai nạn xe ô tô. Xem hình ngôi nhà bà Xuân đã ở số 66 phố Hàng Bông - Thợ Nhuộm, gần đường Quang Trung, Hà Nội.
Sau khi bà Xuân qua đời, Nguyễn Tất Trung được dì là cô Vàng nuôi, nhưng rồi Trung bị bắt đem đi gởi cho Nguyễn Lương Bằng nuôi. Năm Trung 5 tuổi (1961) được chuyển cho tướng Chu Văn Tấn nuôi. Khi Hồ qua đời ngày 02/09/1969, thư ký kiêm cận vệ của ông Hồ là Vũ Kỳ nhận Trung làm con nuôi và đổi tên là Vũ Trung.

1959 "Hồ giả 2" muốn cưới vợ người Quảng Đông, được sử gia William J. Duiker nhắc tới, và cũng được công bố bởi một tờ báo Trung Quốc.

2 lần về thăm quê nhà Kim Liên 1957 và 1961, nhưng không lần nào vào thăm mái nhà xưa hay viếng mộ mẹ, mộ anh, mộ chị.

Nhà đây, mộ mẹ, mộ anh, mộ chị ở đây, tại sao không bao giờ Hồ đến thăm viếng và thắp một nén nhang ? Tại sao bất hiếu vô tình bạc nghĩa vậy ? Tại vì nó là Tàu nên không chịu bái lạy tổ tiên người Việt, sau này về Tàu làm sao ăn nói với tổ tiên thiệt của mình. Đơn giản vậy mà còn hỏi !

Tại Hà Nội, trong nhà sàn của Hồ, không hề có bàn thờ cha mẹ anh chị, thậm chí một tấm hình của một người thân cũng không có ? Tại sao bất hiếu vô tình bạc nghĩa vậy ? Tại vì nó là Tàu nên không chịu treo hình tổ tiên người Việt, sau này về Tàu làm sao ăn nói với tổ tiên thiệt của mình. Đơn giản vậy mà còn hỏi !

Mời các bạn xem hình, cha Nguyễn Sinh Sắc, anh Nguyễn Sinh Khiêm, chị Nguyễn Thị Thanh. Chắc bây giờ họ đã biết đó là Hồ giả rồi.

Trung Quốc, đây mới chính là quê hương của "Hồ giả 2".
Trở về quê nhà ở Trung Quốc, gặp lại người thân (a) (b). Lưu lại chứng tích làm Hồ Chí Minh, cha già dân tộc Việt Nam (c). Ngôi nhà yêu dấu (d).
(a) (b)
(c) (d)



 

HỒ giả 3

- Xuất hiện khoảng giữa năm 1965.
- Là người Tàu. Theo lệnh Trung Quốc, khống chế Việt Nam.
- Khi "Hồ giả 2" không chịu quay trở lại Việt Nam, sự việc quá bất ngờ khiến Trung Quốc không kịp chuẩn bị trước tìm người thay thế. Đành phải lựa chọn tương đối một người còn trẻ nhưng không giống "Hồ giả 2". Vì không giống "Hồ giả 2", nên "Hồ giả 3" phải đeo kính to và đội nón để che dấu sự khác biệt.
- Từ 1965 đến 1969 luôn trốn khỏi Hà Nội, lẩn tránh mọi người. Nhiều lần về Trung Quốc để giải phẫu sửa đổi khuôn mặt cho già.
- Tuy nhiên "Hồ giả 3" này còn trẻ nên kiêu hãnh dám công khai cho mọi người thấy mình là người Tàu. Đội mũ Tàu, mặc áo quần Tàu. Do đó bị Cộng sản xóa tất cả hình ảnh.
- Thăm Vạn Lý Trường Thành, thăm quê nhà Khổng Tử.
- Đặc điểm của "Hồ giả 3" là bị CÂM. Nói "Hồ giả 3" CÂM là nói theo nghĩa bóng, vì chúng ta không bao giờ thấy phim ảnh có tiếng nói của "Hồ giả 3", mà chỉ toàn nghe người khác nói dùm những lời phát biểu của hắn. Nguyên nhân là vì "Hồ giả 3" nói giọng Tàu lơ lớ nên bị Cộng sản xóa âm thanh.
- 02/09/1969 bị Cộng sản giết chết làm xác ướp.

Các hình trích từ phim tài liệu "Hồ giả 3" công khai là người Tàu trong buổi lễ ra mắt "Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam". Hai bên "Hồ giả 3" là Phạm Văn Đồng và Tôn Đức Thắng. "Hồ giả 3" nghe em thiếu nhi nói tiếng Việt không hiểu mặc dù cố gắng kề tai sát gần miệng em. Xem 01:30 phút đầu (00:30 - 00:40 Hồ giả 3, 00:51 - 00:58 Hồ giả 2, 01:13 - 01:19 Hồ giả 3) sau đó là linh tinh khác http://v.ifeng.com/his/200905/76de3ecb-897a-4722-9e5e-5af70e25680c.shtml (chú ý phim và hình có bản quyền ifeng.com).




Nhìn "Hồ giả 3" biết ngay là Tàu chính gốc !

Nhìn kỹ "Hồ giả 3" không đeo kính nhé ! Thật ra hắn có bị cận thị gì đâu, chẳng qua ngụy trang trước chỗ đông người mà thôi.

Đi thăm Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, "Hồ giả 3" không cần đeo kính mà đi nhanh hơn mọi người.

Không cần đeo kính ngụy trang làm gì !

Từ 1965 đến 1969 "Hồ giả 3" luôn trốn khỏi Hà Nội, lẩn tránh mọi người. Nhiều lần về Trung Quốc để giải phẫu sửa đổi khuôn mặt cho già.
Ngày nào khuôn mặt giống với một ông già, thì ngày chết sẽ đến, "Hồ giả 3" không biết những ngày Vinh quang chỉ là ảo ảnh.

"Hồ giả 3" đang nằm oằn oại trước cái chết từ từ thê thảm và những màn kịch chung quanh. Sao không mời bác sĩ Liên sô qua cứu chữa, đúng là giả dối !

Để trở thành xác ướp, "Hồ giả 3" bị mổ bụng, moi hết lục phủ ngũ tạng (tim, gan, thận, ruột, dạ dày, thực quản, khí quản, phổi, tụy tạng, lá lách, bàng quang...) và não, hành tủy, và tủy sống. Máu cũng được hút sạch. Khắp cơ thể được chích hóa chất dưới da, mặt, tay, chân, ngón tay, ngón chân, tai, mũi, môi, ngực, bụng, mông, hông, lưng, bắp tay, bắp chân, đùi... Hai quả cầu thuỷ tinh được đặt vào hốc mắt. Môi cũng được khâu lại. Nguồn ánh sáng đỏ chiếu vào khuôn mặt và hai bàn tay để che dấu vẻ nhợt nhạt của thi hài, làm cho khuôn mặt của "Hồ giả 3" ánh lên màu hồng và tạo được ấn tượng đang ngủ.

Hàng năm xác Hồ được chở qua Nga để tu bổ, ngâm chìm trong dung dịch hóa chất 30 ngày, và tẩy rửa, khâu, dán, thay thế những chỗ bị nấm mốc hủy hoại bằng những vật liệu nhân tạo như sáp, nhựa dẻo. Năm 1976 các chuyên viên Trung Quốc qua Việt Nam quan sát học hỏi cách ướp xác Hồ Chí Minh, để sau đó ướp cho Mao Trạch Ðông đã cho biết một bên tai trái xác Hồ đã bị long, rụng ra, và được dán lại bằng một loại keo đặc biệt. Phần sống mũi, sụn mũi bị hủy hoại, teo co lại và sụp xuống, được đắp vá, và tái tạo bằng sáp nhân tạo, và râu cằm đã bị rơi rụng ra.

Xem hình lau rửa xác ướp Lê nin bị mổ bụng http://xacuoplenin.blogspot.com. Hình thấy ghê rợn quá nên khuyến cáo Cấm trẻ em và người yếu tim !

Hiện nay xác "Hồ giả 3" đã bị hủy hoại nhiều, bị đặt vào trong hầm lạnh đông cứng và được che giấu. Cái xác được trưng bày ra cho người xem là xác giả làm bằng thạch cao, nhằm đánh lừa người dân và du khách.

Những người dân viếng Lăng thăm xác Hồ, nhưng là Hồ Tàu, mà lại còn bằng thạch cao nữa. Toàn là giả dối !

Ngày nay, Lăng Hồ Chí Minh tại Quảng trường Ba Đình là nơi chứa đầy sự lừa dối công khai được bạo lực Cộng sản bảo vệ, và cũng là một biểu tượng ô nhục kéo dài trong Lịch sử dân tộc Việt Nam.



 

HỒ giả 4

- Là người Tàu. Làm người mẫu vẽ Hình chân dung giả mạo Hồ Chí Minh.
- Năm 1969, lo sợ Hồ chết thì không còn biểu tượng dùng để cai trị dân Việt Nam, Trung Quốc tổ chức tìm kiếm và tuyển lựa những người Tàu có gương mặt hao hao "Hồ giả 2", và tìm được một ông già Tàu có khuôn mặt khá đẹp lão nhưng mặt tròn và mắt ti hí.
- Chúng cho ông già làm người mẫu, để họa sĩ vẽ làm giả Hình chụp chân dung Hồ Chí Minh. Nhưng các họa sĩ Cộng sản Tàu không quen vẽ chân dung nên vẽ rất xấu, nhìn là biết tranh vẽ, không thể dùng giả làm hình chụp, không lừa gạt được người xem. Tuy cố gắng vẽ đi vẽ lại nhiều lần, nhưng cho đến ngày tang lễ Hồ cũng chưa vẽ được đẹp, đành phải đem ra trưng bày. Do đó trong phim tài liệu tang lễ Hồ Chí Minh do Nhật quay được, chỉ thấy có hình tranh vẽ Hồ Chí Minh chứ không có hình chụp. Tranh vẽ này Hồ Chí Minh có mắt hơi ti hí.


Sau ngày tang lễ, Cộng sản nhờ họa sĩ Liên sô vẽ lại một chân dung khác, sửa mắt ti hí thành mắt to, mặt tròn thành mặt dài, thay đổi áo, sửa lại tóc và râu v.v... cuối cùng tạo ra một chân dung rất đẹp.

Cộng sản đem tranh vẽ này làm giả thành Hình màu chụp chân dung Hồ Chí Minh để lừa gạt người dân Việt Nam. Rồi từ Hình màu này, Cộng sản làm ra hình trắng đen, để dùng trong bảo tàng, hay trong một số trường hợp cần giả cổ để lừa gạt mọi người.

Tuy nhiên, chính vì biết đây là đồ giả mạo nên truyền thông báo chí truyền hình ở nước ngoài không bao giờ sử dụng các hình này.

Chính phủ Việt Nam cũng không dám sử dụng các hình giả mạo này khi giao tiếp với nước ngoài. Hãy xem một áp phích của Chính phủ Việt Nam cổ động kỷ niệm 115 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh dùng hình chụp thật !

Điều đáng buồn là Chính phủ Cộng sản không dám lừa gạt người nước ngoài nhưng lại tàn nhẫn lừa gạt người dân của mình.


 



 

NHÀ TRƯNG BÀY HỒ CHÍ MINH LÀ NGƯỜI TÀU

Nhà trưng bày Hồ Chí Minh là người Tàu ở đâu ? Dĩ nhiên là nằm ở bên Tàu rồi, lựa là phải hỏi !

Sau khi "Hồ giả 2" quay về quê hương Trung Quốc đã trở thành anh hùng. "Hồ giả 2" viết chữ Việt và ký tên Hồ Chí Minh, để lưu lại chứng tích xác nhận mình chính là Hồ Chí Minh và là một người Tàu. Trung Quốc cho chụp ảnh, thu âm và làm các phim tài liệu về Hồ Chí Minh Tàu này.

Trung Quốc cho xây dựng "Nhà trưng bày Hồ Chí Minh" phân chia ra 2 khu vực.

"Khu vực 1 trưng bày Hồ Chí Minh là người Tàu" là nơi trưng bày hình ảnh, âm thanh, phim tài liệu và các hiện vật chứng tích xác nhận quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh Tàu tại Việt Nam. Nơi này dành cho các cán bộ Trung Quốc đến tham quan và học tập kinh nghiệm của Hồ Tàu.

"Khu vực 2 trưng bày Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Hoa" là nơi trưng bày những bằng chứng về tình hữu nghị Trung - Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam và là bằng hữu của Nhân dân Trung Hoa, những ký kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc. Ngoài văn bản ký kết của Phạm Văn Đồng công nhận lãnh hải của Trung Quốc năm 1958, còn quan trọng nhất là văn kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh xác nhận Việt Nam chính là 1/2 tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc, sẽ được Lê Duẩn kế thừa Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu giao trả dần Bắc phần đến Trung phần cho Trung Quốc kể từ ngày 19/05/2005 ngày kỷ niệm 115 năm sinh nhật bác Hồ. Văn kiện này được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký kết tại Quảng Tây, Trung Quốc.

Những lãnh đạo Cộng sản cao cấp tại Việt Nam được cho tham quan "Khu vực 2 trưng bày Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Hoa", sau khi tận mắt thấy tai nghe chúng không nghĩ cách cứu nước mà còn theo lệnh Trung Quốc gây chia rẽ Cộng sản với Công giáo để dễ dàng đưa quân đội Tàu vào Tây Nguyên.

"Hồ giả 2" thật hạnh phúc, hắn là một con dân Trung Quốc, một cháu ngoan Mao Trạch Đông, nhưng là một Cha già dân tộc Việt Nam. Tên tuổi Hồ Tàu sẽ được ca ngợi mãi mãi trong sử sách Trung Quốc và trong sử sách Cộng sản Việt Nam.

Tuy nhiên, Nhân dân Việt Nam đã biết những văn kiện bán nước là do "Hồ giả" ký kết nên không có giá trị gì. Chỉ đau buồn cho non sông đất Việt, là đảng Cộng sản vẫn cố tình bịt miệng sự thật, sẵn sàng để mất nước mà không chút bận lòng.



 

TỔNG KẾT

Viết về những người cùng mang tên Hồ Chí Minh, thật không dễ vì có quá nhiều dữ liệu. Tuy vậy, Tôi cũng cố gắng chọn ra một số điểm đặc trưng của mỗi người để người đọc có thể nhận ra được từng nhân vật. Qua bài viết này, người đọc sẽ nhận ra mình đã từng bị lừa đảo khi quá tin tưởng vào những tài liệu mà Cộng sản làm giả.

Những ai là Cộng sản, có thắc mắc thì gửi email đến các website của Chính phủ VN - Quốc hội - đảng CS, hay trực tiếp đi hỏi các cán bộ lãnh đạo địa phương, hay bét nhất là trong các buổi họp đảng. Còn nếu không dám mở miệng thì phải biết bản thân đã bị đảng CS biến thành con gì rồi, không còn là con người. Chú ý đảng CS sẽ bắt vô tù những ai dám tìm hiểu sự thật.

Một thực tế đáng buồn là trong nước Việt Nam có Nghệ Sĩ Nhân Dân làm phim tài liệu lừa dối Nhân Dân, hay Nhà Sử học nổi tiếng thì lại luôn ca ngợi Hồ Tàu.

Điều hơi khó khăn khi viết là phim và ảnh tài liệu phải chịu sự chi phối của Luật Bản quyền. Tôi cũng xin nhắc các bạn chú ý điều này.

Những bí ẩn chung quanh cái tên Hồ Chí Minh rồi sẽ dần được nhiều người khám phá và công bố.



THÔNG BÁO: Bài viết với Phiên bản mới này chủ yếu chỉ thay thế hình ảnh lớn hơn và rõ hơn, còn Nội dung thì giữ y nguyên như Phiên bản cũ đã công bố đầu tiên năm 2009, chỉ có một đoạn thay đổi như sau:
Phiên bản cũ:
- Microphone trong hình có dạng tròn và dẹp, có lưới chụp ở mặt sau. Thực tế, thời gian 1945 thì microphone to cồng kềnh có độ dài trên 10 cm. Microphone chỉ có lưới chụp ở mặt trước, còn mặt sau không có lưới chụp. Từ xưa đến thế kỷ 21 cũng chưa có ai sản xuất microphone dạng tròn và dẹp như vậy.
Phiên bản mới:
- Microphone trong hình có dạng tròn và dẹp, có lưới chụp ở mặt sau. Thực tế, Microphone chỉ có lưới chụp ở mặt trước, còn mặt sau không có lưới chụp. Nhìn tấm hình, dễ dàng nhận ra tác giả đã nhầm lẫn vẽ Hồ phát biểu đối diện với mặt sau của Microphone, còn mặt trước có lưới chụp thì hướng ra ngoài. Sự dốt nát của tác giả đã tạo nên một tấm hình mà ai xem cũng nhận ra là giả, khiến Cộng sản mãi mãi mang tiếng lừa đảo trong lịch sử.

 GIỚI THIỆU: Mời xem
- http://oanuongthanhnga.blogspot.com Sự Thật Vụ Án Thanh Nga.
- http://thucuanhandan.blogspot.com Thư gửi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Hãy xây dựng Chính Phủ DÂN CHỦ của Toàn Dân, bình đẳng trước Luật pháp, không phân biệt Giai cấp.

 

 




 


 

Những sự thật không thể chối bỏ (phần 9) - Hồ Chí Minh và âm mưu Hán hóa toàn diện Việt Nam

Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Như chúng ta đã biết, hiện nay đảng cộng sản Việt Nam đang thực hiện chính sách “hèn với giặc Trung cộng, ác với nhân dân yêu nước Việt Nam”. Cụ thể là họ im lặng trước các hành động xâm lấn, bắt giữ ngư dân của Trung cộng. Đề ra luật biển làm một lá bùa mị dân, rồi chính họ cho công an đàn áp người biểu tình ôn hòa ủng hộ cái luật “ảo” đó. Ngoài ra là việc mất ải Nam Quan, thác Bản Giốc, Boxit Tây Nguyên, người Tàu tràn ngập Việt Nam… và gần đây là việc đảng cộng sản có chủ trương dạy tiếng Hoa trong trường học.
 
Vấn đề ở đây không phải mới, nhưng trước đến nay nhân dân ta quan niệm đó là lỗi của những thế hệ đảng viên sau này như: Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh… Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Trong khuôn khổ bài này tôi sẽ gửi tới bạn đọc âm mưu Hán hóa toàn diện bắt đầu từ ai.
 
Bài thơ tiếng Hán đầu tiên của Hồ Chí Minh
 
Như chúng ta đã biết, ở phần 2phần 4 tôi đã đề cập đến việc ông Hồ Chí Minh chỉ đạo việc bán nước (HS-TS) cho Trung cộng và thực hiện nhiều chính sách theo chủ trương của Trung cộng. Tuy nhiên để một âm mưu Hán hóa toàn diện lộ rõ thì cấn phải có một bài bổ sung đầy đủ chỉ ra âm mưu của ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam.
 
Quay trở lại phần 5 (Cải cách ruộng đất) tôi đã gửi đến bạn đọc 2 bức thư ông Hồ gửi Stalin về vấn đề xin vũ khí và báo cáo Cải cách ruộng đất. Trong đó có một bức thư ông Hồ ký bằng tiếng Hoa. Trong bài trước do links của viện lưu trữ Liên Bang Nga đang trong quá trình sửa chữa nên tôi đã gửi links từ trang diendannuocnga.net (được sự bảo trợ của sứ quán Việt Nam tại Nga) về bức thư đó. Nay xin gửi lại đường links từ viện lưu trữ liên bang Nga để bạn đọc tiện kiểm chứng: http://www.rusarchives.ru/evants/exhibitions/vietnam1/23.shtml
 
Trở lại vấn đề bức thư có chữ ký bằng tiếng Hoa của ông Hồ gửi Stalin. Từ trước tới nay chúng ta có 2 luồng ý kiến. Ý kiến thứ nhất coi ông Hồ là gián điệp của Trung cộng. Ý kiến thứ hai thiên về giả thuyết ông Hồ muốn chứng tỏ mức độ Hán hóa của mình. Về quan điểm cá nhân tôi, tôi đã nói ở những bài trước. Tôi chưa thiên về giả thiết ông Hồ là người Tàu vì tất cả chúng ta chưa có được kết luận chính xác như thử DNA. Tôi dùng bài này để khẳng định luồng ý kiến thứ hai của mình.
 
Cách đây không lâu trên tờ báo An ninh biên giới của quân đội nhân dân Việt Nam, số 15, trang 24 với tiêu đề: "Bài báo bằng thơ chữ Hán đầu tiên của Bác Hồ" của tác giả Phạm Duy Trưởng. Bài báo này đã được 1 blogger là một người lính cộng sản post lại các bạn có thể tham khảo tại links sau:
 
 
Trong đoạn đầu của bài báo có viết: "Nhờ sự giới thiệu của văn phòng Bát lộ quân ở Quế Lâm (TQ). Một buổi tối tháng 11 năm 1940, Nguyễn Ái Quốc mang bản thảo bài thơ làm bằng chữ Hán "Cứu Trung Quốc thị cứu tự kỷ" (Cứu Trung Quốc là tự cứu mình) đến số nhà 12, đường Thái Bình là nơi ở của tổng biên tập tờ "Cứu vong nhật báo" tên là Hạ Diễn. Đọc song bài thơ này Hạ Diễn rất thích, nhưng Hạ Diễn đề nghị người cầm về rồi gửi bằng đường bưu điện đến cho tòa báo để phòng khi bọn Quốc dân đảng lục soát thì Hạ Diễn có chiếc phong bì đã được đóng con dấu bưu điện mang ra đối phó. Từ đó Nguyễn Ái Quốc thường gửi bài đến tòa báo.
 
"Cứu vong nhật báo" là một tờ báo do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, sáng lập ở Thượng Hải tháng 8 năm 1937, năm 1938 rời về Quảng Châu, đầu năm 1939 rời về Quế Lâm vào tháng 10 năm 1940 và trung tuần tháng 12 thì rời Quế Lâm. Nguyễn Ái Quốc đến Quế Lâm vào tháng 10 năm 1940 và trung tuần tháng 12 thì rời Quế Lâm. Trong thời gian đó, Người đã viết cho CỨU VONG NHẬT BÁO tám bài sau đây với bút danh là Bình Sơn:”
 
Như vậy ta có thể thấy, ông Hồ với bài báo đầu tiên của mình bằng tiếng Hán đã viết một bài thơ có tiêu đề "Cứu Trung Quốc là tự cứu mình". Ngay từ đầu bài chúng ta đã thấy rõ được tâm ý của ông Hồ giành cho Trung cộng. Tại sao cứu Trung quốc lại là tự cứu mình? Hay chăng ông Hồ tự coi Việt Nam đã là một phần máu thịt của Trung quốc nên ông ta mới nói vậy. Chúng ta cùng tìm hiểu thêm về bài thơ. Trong bài báo của tác giả Phạm Duy Trưởng có đoạn:
 
"Tạp chí Hàn Nôm số 1 năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho đăng bài: "Cứu Trung Quốc thị cứu tự kỷ" đăng trên tờ "Cứu vong nhật báo" ngày mồng 4 tháng 12 năm 1940. Theo bài viết này, đây là bài thơ chữ Hán sớm nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo. Xin giới thiệu lại cùng bạn đọc nguyên văn bản chữ Hán, được Phác Can phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ:
 
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình
 
Nhật Bản phát xít ở phương Đông,
Dã man cuồng bạo lại tàn hung.
Vào Trung Hoa gây chiến xâm lược,
Nhân dân Trung Quốc khổ vô cùng.
Người thì bị giết, nhà bị thiêu,
Núi đầy xương, đất đầy máu đỏ.
Tàu bay, bom đạn, tránh làm sao?
Đói rét, ốm đau, sống thật khó.
Họ đang đấu tranh rất gian khổ,
Giữ gìn dân chủ và hòa bình.
Họ đang cần có người viện trợ,
Họ đang cần được sự đồng tình.
Giặc Nhật tấn công cả thế giới,
Là kẻ thù chung toàn nhân loại.
Mau đứng lên mà giúp Trung Hoa,
Anh chị em Việt Nam ta hỡi!
Ra sức giúp cho người Trung Quốc,
Trung Việt khác nào môi với răng.
Nhớ rằng môi hở thì răng buốt,
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình.
 
Bình Sơn
4- 12- 1940
 
Theo như bài thơ thì chúng ta có thể nhận thấy xuyên suốt một bài thơ ông Hồ toàn kể khổ hộ nhân dân “Trung hoa anh em” mà không hề nhắc đến những lầm than của dân tộc Việt Nam nơi quê nhà. Thậm chí ông ta còn kêu gọi nhân dân Việt Nam đang oằn mình trong đói khổ, chiến tranh phải "giúp đỡ" nhân dân Trung Hoa. Và ông Hồ còn ca ngợi tình thần “Môi hở răng buốt” của kẻ thù ngàn năm với dân tộc Việt Nam. Đến câu cuối cùng ông ta lại lặp lại nội dung của tiêu đề bài thơ "Cứu Trung Quốc là tự cứu mình".
 
Xét thời điểm năm 1940, đất nước Việt Nam còn trong ách thống trị của Pháp, trăm bề khổ sở. Một người Việt Nam thực sự yêu nước như cách đảng cộng sản tuyên truyền không thể bày tỏ ý kiến của mình bằng một bài thơ vô cảm với dân tộc mình trong khi đó thương cảm dân tộc vốn là kẻ thù của dân tộc ta. Điều này cho thấy 3 ý: Khẳng định thêm việc ông ta đi khỏi bến Nhà Rồng không vì lòng yêu nước, ông ta chỉ đi kiếm ăn cho bản thân, đến năm 1940 ông ta cũng chưa hẳn đã yêu nước như đảng cộng sản ca ngợi. Ông Hồ ủng hộ Trung cộng chính là ủng hộ ý thức hệ cộng sản. Và quan trọng hơn cả ông Hồ đã bày tỏ tình yêu của mình giành cho Trung cộng trong bài thơ với một tình cảm còn dạt dào hơn gấp vạn lần giành cho Việt Nam. Hay nói cách khác ông Hồ đã tự cho mình và Việt Nam là một phần không thể tách rời của nước mẹ Trung Hoa.Thật đúng như ông nhà thơ Tố Hữu đã nói: “Bên kia biên giới là nhà, bên đây biên giới cũng là quê hương”.
 
Kết luận: Qua bài thơ đầu tiên bằng tiếng Hán của mình ông Hồ đã bày tỏ tình cảm nồng nàn của mình với nước mẹ Trung Hoa trong bối cảnh dân tộc đang lầm than khổ cực. Tình yêu của ông Hồ giành cho Trung cộng chính là bước thể hiện đầu tiên cho âm mưu Hán hóa của ông ta sau này.
 
Cổ vũ Hán hóa và làm chư hầu cho Trung cộng:
 
Đất nước Việt Nam, giang sơn Việt Nam là của toàn dân, của hơn 80 triệu người Việt Nam, con cháu của Bà Trưng, Bà Triệu... đã đổ nhiều máu xương hàng 4 ngàn năm mới có được sự độc lập với giặc Tàu, nhưng ông Hồ và đảng của ông ta can tâm tiến hành cuộc Hán hóa cho dân tộc ta, phản bội lại những gì cha ông đã dày công xây dựng.
 
Việc ông Hồ, ông Đồng bán đảo HS-TS cho Trung cộng lấy vũ khí chỉ là một trong những hành động bán nước để âm mưu quyền lực, làm chư hầu cho Trung cộng. Nhưng sự việc càng nghiêm trọng hơn khi họ chủ trương Hán hóa toàn diện dân tộc ta bằng những quyết định kinh hãi.
 
1. Việt Minh kêu gọi dùng tiếng Hoa và bỏ chữ quốc ngữ:
 
Tờ nhật báo “Tiếng Dội” số 462, năm thứ 3, 1951, Âm lịch 22 tháng Bảy năm Tân Mão, giá bán 1 đồng, của Chủ nhiệm Trần Chí Thành tự Trần Tấn Quốc, Tòa soạn, Quản lý 216 đường Gia Long Sài Gòn, có bài mang tựa đề “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc”, cho in nguyên văn một tờ truyền đơn do Trường Chinh ký như sau:
 
ỦY BAN HÀNH CHÍNH KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
NĂM THỨ VII
TỔNG THƯ KÝ ĐẢNG LAO ĐỘNG VN
SỐ: 284/LĐ ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC
 
Hỡi đồng bào thân mến!
 
Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào!
 
Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế?
 
Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối Âu Tây ấy - một cách viết rõ ràng có mau thật đấy - và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc.
 
Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta - mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế - có phải là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không? Còn nói gì đến y khoa của Âu Mỹ: Chúng chỉ cắt, đục, khoét, nạo! Có thế thôi!
 
Hỡi đồng bào yêu mến! Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn Đế quốc phương Tây đem qua xứ ta!
 
Ta hãy bỏ nhà bảo sanh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn cầu!!!!
 
Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa học, phát minh v.v...
 
Ta hãy quét sạch lũ “trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân!
 
Chúc “Tổng phản công” và “Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân”.
 
Trường Chinh
Tổng thư ký đảng Lao Động
 
Đây là một văn bản cho thấy đảng cộng sản chủ trương bán nước và Hán hóa dân tộc, kêu gọi làm chư hầu rõ rệt nhất cho Trung cộng. Việc này là một sự cho thấy rõ nét âm mưu Hán hóa của đảng cộng sản trong vô vàn hành động khác. Tuy nhiên sẽ có nhiều ý kiến cho rằng sự có mặt của sắc lệnh kêu gọi kia chỉ là một thứ bịa đặt nhằm bôi nhọ đảng cộng sản. Nhưng trong khuôn khổ bài viết này tôi đã có những bằng chứng khẳng định sự có mặt của văn bản do Trường Chinh ký là thật.
 
Đầu tiên, số báo Tiếng Dội này nằm trong Thư Viện tiếng Việt thuộc Bảo Tàng Viện Anh Quốc (British Museum - London). Bạn đọc hoàn toàn có thể kiểm chứng. Chúng ta cũng phải nhìn nhận về tờ báo Tiếng Dội như sau. Các văn bản, bài báo được lưu trữ trong văn khố của các nhà nước có tiến bộ như Anh, Mỹ, Pháp… đều là những tác phẩm có giá trị về mặt nội dung cũng như sự thật lịch sử được nghiên cứu và chọn lọc kỹ lưỡng. Sự việc được lưu trữ trong văn khố của viện bảo tàng nước Anh cho thấy tính xác thực của bài báo nói trên trong tờ báo Tiếng Dội. Đó là bằng chứng đầu tiên cho thấy sự tồn tại sắc lệnh của ông Trường Chinh là có thật.
 
Thứ 2, Hiện nay tại Trung tâm lưu giữ quốc gia I, Việt Nam có một văn bản lưu giữ như nội dung bài báo Tiếng Dội cho đăng. Văn bản này được lưu giữ trong kho văn thư trước năm 1945 của đảng cộng sản Việt Nam. Văn bản tuy mất một phần dưới góc do yếu tố thời gian không thể thấy được chữ ký của ai nhưng trên đầu của sắc lệnh ghi rõ do đảng Lao động Việt Nam (tên khác của đảng cộng sản) ban hành. Việc không thấy chữ ký của ai không quan trọng lắm vì nó có ghi rõ là của đảng Lao động và được trung tâm lưu trữ quốc gia lưu trữ nên nó không thể vô giá trị. Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm tại trung tâm lưu trữ quốc gia về sắc lệnh kêu gọi nói trên.
 
Thứ 3, Sẽ là thiếu sót nếu chỉ có 2 bằng chứng trên đây để khẳng định việc tồn tại sắc lệnh kêu gọi của ông Trường Chinh là sự thật. Thêm bằng chứng sau đây sẽ khẳng định chắc chắn về điều đó với bạn đọc. Vì đảng cộng sản hay có thói quen thủ tiêu bằng chứng về tội ác và sai lầm của mình nên thêm một nguồn tài liệu có thể khẳng định điều này. Trong cuốn sách của tác giả Hà Cẩn (Viện văn học Trung quốc) có một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang có đoạn trang 126 nói về quan hệ với Việt Nam. Đoạn đó có đoạn tạm dịch như sau:
 
“Mao chủ tịch đánh giá việc Việt Minh đã từng muốn dùng tiếng Trung Quốc thay cho chữ quốc ngữ Việt Nam là một hành động cho thấy trước sau gì Việt Nam sẽ thuộc về chúng ta, ít nhất là về văn hóa”.
 
Từ đoạn này chúng ta có thể thấy Mao đã biết chủ trương dùng tiếng Hoa của Việt Minh (lúc đó mang tên đảng Lao động Việt Nam). Thời điểm tác giả Hà Cẩn nêu trong cuốn sách của mình là lúc Mao vẫn chỉ gọi đảng cộng sản Việt Nam là Việt Minh trùng khớp với thời điểm và cách dùng trong quy phạm của sắc lệnh kêu gọi của Trường Chính đòi nhân dân Việt Nam học tiếng Hoa.
 
Thứ 4, Bản thân con người của Trường Chinh là một con người có tư tưởng thân Trung cộng và là người vâng lời ông Hồ Chí Minh gần như tuyệt đối. Ông ta là người tích cực nhất trong vụ cải cách ruộng đất mà ông Hồ học từ Trung cộng. Việc thực thi một cách chặt chẽ các chủ trương của Tàu và ông Hồ đã biến ông Chinh thành một tên tội đồ trong CCRĐ. Điều này khác hẳn với tư tưởng của ông Duẩn trong việc quan hệ với Trung cộng. Rõ ràng ngay cả bản chất con người ông Chinh cũng cho thấy ông ta yêu Trung cộng như lãnh tụ của ông ta.
 
Kết luận: Sắc lệnh kêu gọi của Trường Chinh thể hiện dã tâm biến Việt Nam thành một tỉnh của Trung cộng của đảng cộng sản Việt Nam.
 
2. Ai là kẻ chỉ đạo Trường Chinh?
 
Như chúng ta đã biết, ông Hồ là người chỉ đạo ông Đồng trong việc bán HS-TS. Ông Hồ cũng nhận chủ trương của Tàu về việc CCRĐ mà người thực hiện là ông Chinh. Trong vụ việc ra sắc lệnh kêu gọi nhân dân ta phải học tiếng Hoa có bàn tay không nhỏ của ông Hồ.
 
Trong phần đầu tiên chúng ta thấy ông Hồ đã viết một bài thơ ca ngợi Trung cộng và tha thiết thương nhân dân Trung cộng như thương bản thân ông ta. Vậy thì không có lý do gì để một người luôn coi “Bác Mao luôn đúng”“yêu Trung Quốc là yêu mình” như ông Hồ không chỉ đạo ông Chinh ra sắc lệnh đó. Đó là xét yếu tố con người và tư tưởng.
 
Xét về mặt chính trị thì ông Hồ là người đứng đầu của tổ chức đảng Lao động, ông ta vạch ra cương lĩnh làm việc từ CCRĐ… theo lệnh của Trung cộng. Rõ ràng việc đưa ra sắc lệnh kêu gọi phải do chủ trương của ông Hồ hoặc chí ít ông Hồ cũng phải đồng ý thông qua. Chúng ta thấy việc nhãn tiền đó là ông Trường Chinh vẫn ký tên là Tổng thư Ký. Việc một tổng thư ký tự ra một sắc lệnh kêu gọi toàn dân từ bỏ tiếng quốc ngữ là một điều không tưởng. Một nước dân chủ tự do cũng không thể có chuyện đó. Huống hồ đây lại là ở một đảng độc tài kín kẽ, quyền lực nằm trong tay bộ chính trị cũng như ông Hồ lúc đó. Bằng chứng rõ nét nhất về sự lép vế của ông Chinh đó là việc ông này là vật thế thân cho ông Hồ trong thảm trạng CCRĐ như đã chứng minh trong phần 5. Trong các bài viết trước tôi cũng đã chứng minh vai trò đứng đầu của ông Hồ cho đến khi ông ta bị mất dần quyền lực từ năm 1963 vào tay phe cánh ông Lê Duẩn. Vậy thì trách nhiệm chính trị của ông ta trong sắc lệnh kêu gọi của ông Trường Chinh là hoàn toàn to lớn và rõ rệt.
 
Ngoài ra, còn một điểm đáng lưu ý ông Hồ có nhiều tuyên bố cho thấy bản thân ông ta không thương yêu dân tộc Việt Nam. Tự coi Việt Nam là một phần của Trung cộng.
 
Trong thư đề ngày 06-6-1938 gửi Lê Nin. “Đồng chí hãy phân tôi đi đâu đó, hay là giữ tôi ở lại đây. Hãy giao cho tôi một việc làm gì mà theo đồng chí cho là có ích? (Trích Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 trang 90- Sách của đảng cộng sản Việt Nam). Bạn đọc có thể thấy cung cách của một người xin việc của ông Hồ với thế giới cộng sản. Điều này cho thấy ông Hồ không yêu thương dân tộc như ông ta và đảng cộng sản thường tự rêu rao. Một người như vậy ắt hẳn sẽ có tư tưởng Hán hóa vì Trung quốc là cộng sản đàn anh trong mắt của Hồ Chí Minh.
 
Cũng cần phải nhắc lại ngày 31-10-1952, ông Hồ viết: “Đồng chí Stalin kính mến, tôi gởi cho đồng chí đề án cải cách ruộng đất của đảng Lao Động Việt Nam (tên của đảng cộng sản lúc bấy giờ). Đề án này tôi đã hoàn thành với sự giúp đỡ của hai đồng chí Liu Shaoshi và Van szia-Sian. Đề nghị đồng chí tìm hiểu và đưa ra chỉ thị về đề án này”. (Tôi đã trích nội dung thư ở phần 5 – CCRĐ có hình ảnh chụp bức thư và links đi kèm). Nội dung đoạn thư này, ông Hồ không hề coi tập thể người Việt Nam là đồng bào ông ta, mạng sống của người dân Việt sẽ tùy thuộc vào lời phê chuẩn của Stalin và của cố vấn Trung cộng trong cái gọi là CCRĐ sau này nhân dân ta phải đón nhận.
 
Kết luận chung:
 
Việc bán nước trong thân phận chư hầu của ông Hồ và đảng cộng sản đã là một tội lớn. Nhưng việc Hán hóa toàn diện Việt Nam thì lại đẩy thêm một bước nữa đến đỉnh điểm của tội lỗi với dân tộc Việt Nam. Bức sắc lệnh của ông Trường Chinh và vai trò của ông Hồ trong vụ việc này càng thêm minh chứng cho sự thật: Ông Hồ không yêu dân tộc Việt Nam mà chỉ muốn biến dân tộc Việt Nam thành một tỉnh của Trung cộng!
 
Chỉnh sửa và hoàn thiện: 05/07/2012
 
 
 
___________________________________
 
Đã đăng:
 





 


 

Những sự thật không thể chối bỏ (phần 9) - Hồ Chí Minh và âm mưu Hán hóa toàn diện Việt Nam

Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Như chúng ta đã biết, hiện nay đảng cộng sản Việt Nam đang thực hiện chính sách “hèn với giặc Trung cộng, ác với nhân dân yêu nước Việt Nam”. Cụ thể là họ im lặng trước các hành động xâm lấn, bắt giữ ngư dân của Trung cộng. Đề ra luật biển làm một lá bùa mị dân, rồi chính họ cho công an đàn áp người biểu tình ôn hòa ủng hộ cái luật “ảo” đó. Ngoài ra là việc mất ải Nam Quan, thác Bản Giốc, Boxit Tây Nguyên, người Tàu tràn ngập Việt Nam… và gần đây là việc đảng cộng sản có chủ trương dạy tiếng Hoa trong trường học.
 
Vấn đề ở đây không phải mới, nhưng trước đến nay nhân dân ta quan niệm đó là lỗi của những thế hệ đảng viên sau này như: Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh… Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Trong khuôn khổ bài này tôi sẽ gửi tới bạn đọc âm mưu Hán hóa toàn diện bắt đầu từ ai.
 
Bài thơ tiếng Hán đầu tiên của Hồ Chí Minh
 
Như chúng ta đã biết, ở phần 2phần 4 tôi đã đề cập đến việc ông Hồ Chí Minh chỉ đạo việc bán nước (HS-TS) cho Trung cộng và thực hiện nhiều chính sách theo chủ trương của Trung cộng. Tuy nhiên để một âm mưu Hán hóa toàn diện lộ rõ thì cấn phải có một bài bổ sung đầy đủ chỉ ra âm mưu của ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam.
 
Quay trở lại phần 5 (Cải cách ruộng đất) tôi đã gửi đến bạn đọc 2 bức thư ông Hồ gửi Stalin về vấn đề xin vũ khí và báo cáo Cải cách ruộng đất. Trong đó có một bức thư ông Hồ ký bằng tiếng Hoa. Trong bài trước do links của viện lưu trữ Liên Bang Nga đang trong quá trình sửa chữa nên tôi đã gửi links từ trang diendannuocnga.net (được sự bảo trợ của sứ quán Việt Nam tại Nga) về bức thư đó. Nay xin gửi lại đường links từ viện lưu trữ liên bang Nga để bạn đọc tiện kiểm chứng: http://www.rusarchives.ru/evants/exhibitions/vietnam1/23.shtml
 
Trở lại vấn đề bức thư có chữ ký bằng tiếng Hoa của ông Hồ gửi Stalin. Từ trước tới nay chúng ta có 2 luồng ý kiến. Ý kiến thứ nhất coi ông Hồ là gián điệp của Trung cộng. Ý kiến thứ hai thiên về giả thuyết ông Hồ muốn chứng tỏ mức độ Hán hóa của mình. Về quan điểm cá nhân tôi, tôi đã nói ở những bài trước. Tôi chưa thiên về giả thiết ông Hồ là người Tàu vì tất cả chúng ta chưa có được kết luận chính xác như thử DNA. Tôi dùng bài này để khẳng định luồng ý kiến thứ hai của mình.
 
Cách đây không lâu trên tờ báo An ninh biên giới của quân đội nhân dân Việt Nam, số 15, trang 24 với tiêu đề: "Bài báo bằng thơ chữ Hán đầu tiên của Bác Hồ" của tác giả Phạm Duy Trưởng. Bài báo này đã được 1 blogger là một người lính cộng sản post lại các bạn có thể tham khảo tại links sau:
 
 
Trong đoạn đầu của bài báo có viết: "Nhờ sự giới thiệu của văn phòng Bát lộ quân ở Quế Lâm (TQ). Một buổi tối tháng 11 năm 1940, Nguyễn Ái Quốc mang bản thảo bài thơ làm bằng chữ Hán "Cứu Trung Quốc thị cứu tự kỷ" (Cứu Trung Quốc là tự cứu mình) đến số nhà 12, đường Thái Bình là nơi ở của tổng biên tập tờ "Cứu vong nhật báo" tên là Hạ Diễn. Đọc song bài thơ này Hạ Diễn rất thích, nhưng Hạ Diễn đề nghị người cầm về rồi gửi bằng đường bưu điện đến cho tòa báo để phòng khi bọn Quốc dân đảng lục soát thì Hạ Diễn có chiếc phong bì đã được đóng con dấu bưu điện mang ra đối phó. Từ đó Nguyễn Ái Quốc thường gửi bài đến tòa báo.
 
"Cứu vong nhật báo" là một tờ báo do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, sáng lập ở Thượng Hải tháng 8 năm 1937, năm 1938 rời về Quảng Châu, đầu năm 1939 rời về Quế Lâm vào tháng 10 năm 1940 và trung tuần tháng 12 thì rời Quế Lâm. Nguyễn Ái Quốc đến Quế Lâm vào tháng 10 năm 1940 và trung tuần tháng 12 thì rời Quế Lâm. Trong thời gian đó, Người đã viết cho CỨU VONG NHẬT BÁO tám bài sau đây với bút danh là Bình Sơn:”
 
Như vậy ta có thể thấy, ông Hồ với bài báo đầu tiên của mình bằng tiếng Hán đã viết một bài thơ có tiêu đề "Cứu Trung Quốc là tự cứu mình". Ngay từ đầu bài chúng ta đã thấy rõ được tâm ý của ông Hồ giành cho Trung cộng. Tại sao cứu Trung quốc lại là tự cứu mình? Hay chăng ông Hồ tự coi Việt Nam đã là một phần máu thịt của Trung quốc nên ông ta mới nói vậy. Chúng ta cùng tìm hiểu thêm về bài thơ. Trong bài báo của tác giả Phạm Duy Trưởng có đoạn:
 
"Tạp chí Hàn Nôm số 1 năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho đăng bài: "Cứu Trung Quốc thị cứu tự kỷ" đăng trên tờ "Cứu vong nhật báo" ngày mồng 4 tháng 12 năm 1940. Theo bài viết này, đây là bài thơ chữ Hán sớm nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo. Xin giới thiệu lại cùng bạn đọc nguyên văn bản chữ Hán, được Phác Can phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ:
 
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình
 
Nhật Bản phát xít ở phương Đông,
Dã man cuồng bạo lại tàn hung.
Vào Trung Hoa gây chiến xâm lược,
Nhân dân Trung Quốc khổ vô cùng.
Người thì bị giết, nhà bị thiêu,
Núi đầy xương, đất đầy máu đỏ.
Tàu bay, bom đạn, tránh làm sao?
Đói rét, ốm đau, sống thật khó.
Họ đang đấu tranh rất gian khổ,
Giữ gìn dân chủ và hòa bình.
Họ đang cần có người viện trợ,
Họ đang cần được sự đồng tình.
Giặc Nhật tấn công cả thế giới,
Là kẻ thù chung toàn nhân loại.
Mau đứng lên mà giúp Trung Hoa,
Anh chị em Việt Nam ta hỡi!
Ra sức giúp cho người Trung Quốc,
Trung Việt khác nào môi với răng.
Nhớ rằng môi hở thì răng buốt,
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình.
 
Bình Sơn
4- 12- 1940
 
Theo như bài thơ thì chúng ta có thể nhận thấy xuyên suốt một bài thơ ông Hồ toàn kể khổ hộ nhân dân “Trung hoa anh em” mà không hề nhắc đến những lầm than của dân tộc Việt Nam nơi quê nhà. Thậm chí ông ta còn kêu gọi nhân dân Việt Nam đang oằn mình trong đói khổ, chiến tranh phải "giúp đỡ" nhân dân Trung Hoa. Và ông Hồ còn ca ngợi tình thần “Môi hở răng buốt” của kẻ thù ngàn năm với dân tộc Việt Nam. Đến câu cuối cùng ông ta lại lặp lại nội dung của tiêu đề bài thơ "Cứu Trung Quốc là tự cứu mình".
 
Xét thời điểm năm 1940, đất nước Việt Nam còn trong ách thống trị của Pháp, trăm bề khổ sở. Một người Việt Nam thực sự yêu nước như cách đảng cộng sản tuyên truyền không thể bày tỏ ý kiến của mình bằng một bài thơ vô cảm với dân tộc mình trong khi đó thương cảm dân tộc vốn là kẻ thù của dân tộc ta. Điều này cho thấy 3 ý: Khẳng định thêm việc ông ta đi khỏi bến Nhà Rồng không vì lòng yêu nước, ông ta chỉ đi kiếm ăn cho bản thân, đến năm 1940 ông ta cũng chưa hẳn đã yêu nước như đảng cộng sản ca ngợi. Ông Hồ ủng hộ Trung cộng chính là ủng hộ ý thức hệ cộng sản. Và quan trọng hơn cả ông Hồ đã bày tỏ tình yêu của mình giành cho Trung cộng trong bài thơ với một tình cảm còn dạt dào hơn gấp vạn lần giành cho Việt Nam. Hay nói cách khác ông Hồ đã tự cho mình và Việt Nam là một phần không thể tách rời của nước mẹ Trung Hoa.Thật đúng như ông nhà thơ Tố Hữu đã nói: “Bên kia biên giới là nhà, bên đây biên giới cũng là quê hương”.
 
Kết luận: Qua bài thơ đầu tiên bằng tiếng Hán của mình ông Hồ đã bày tỏ tình cảm nồng nàn của mình với nước mẹ Trung Hoa trong bối cảnh dân tộc đang lầm than khổ cực. Tình yêu của ông Hồ giành cho Trung cộng chính là bước thể hiện đầu tiên cho âm mưu Hán hóa của ông ta sau này.
 
Cổ vũ Hán hóa và làm chư hầu cho Trung cộng:
 
Đất nước Việt Nam, giang sơn Việt Nam là của toàn dân, của hơn 80 triệu người Việt Nam, con cháu của Bà Trưng, Bà Triệu... đã đổ nhiều máu xương hàng 4 ngàn năm mới có được sự độc lập với giặc Tàu, nhưng ông Hồ và đảng của ông ta can tâm tiến hành cuộc Hán hóa cho dân tộc ta, phản bội lại những gì cha ông đã dày công xây dựng.
 
Việc ông Hồ, ông Đồng bán đảo HS-TS cho Trung cộng lấy vũ khí chỉ là một trong những hành động bán nước để âm mưu quyền lực, làm chư hầu cho Trung cộng. Nhưng sự việc càng nghiêm trọng hơn khi họ chủ trương Hán hóa toàn diện dân tộc ta bằng những quyết định kinh hãi.
 
1. Việt Minh kêu gọi dùng tiếng Hoa và bỏ chữ quốc ngữ:
 
Tờ nhật báo “Tiếng Dội” số 462, năm thứ 3, 1951, Âm lịch 22 tháng Bảy năm Tân Mão, giá bán 1 đồng, của Chủ nhiệm Trần Chí Thành tự Trần Tấn Quốc, Tòa soạn, Quản lý 216 đường Gia Long Sài Gòn, có bài mang tựa đề “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc”, cho in nguyên văn một tờ truyền đơn do Trường Chinh ký như sau:
 
ỦY BAN HÀNH CHÍNH KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
NĂM THỨ VII
TỔNG THƯ KÝ ĐẢNG LAO ĐỘNG VN
SỐ: 284/LĐ ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC
 
Hỡi đồng bào thân mến!
 
Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào!
 
Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế?
 
Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối Âu Tây ấy - một cách viết rõ ràng có mau thật đấy - và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc.
 
Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta - mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế - có phải là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không? Còn nói gì đến y khoa của Âu Mỹ: Chúng chỉ cắt, đục, khoét, nạo! Có thế thôi!
 
Hỡi đồng bào yêu mến! Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn Đế quốc phương Tây đem qua xứ ta!
 
Ta hãy bỏ nhà bảo sanh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn cầu!!!!
 
Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa học, phát minh v.v...
 
Ta hãy quét sạch lũ “trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân!
 
Chúc “Tổng phản công” và “Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân”.
 
Trường Chinh
Tổng thư ký đảng Lao Động
 
Đây là một văn bản cho thấy đảng cộng sản chủ trương bán nước và Hán hóa dân tộc, kêu gọi làm chư hầu rõ rệt nhất cho Trung cộng. Việc này là một sự cho thấy rõ nét âm mưu Hán hóa của đảng cộng sản trong vô vàn hành động khác. Tuy nhiên sẽ có nhiều ý kiến cho rằng sự có mặt của sắc lệnh kêu gọi kia chỉ là một thứ bịa đặt nhằm bôi nhọ đảng cộng sản. Nhưng trong khuôn khổ bài viết này tôi đã có những bằng chứng khẳng định sự có mặt của văn bản do Trường Chinh ký là thật.
 
Đầu tiên, số báo Tiếng Dội này nằm trong Thư Viện tiếng Việt thuộc Bảo Tàng Viện Anh Quốc (British Museum - London). Bạn đọc hoàn toàn có thể kiểm chứng. Chúng ta cũng phải nhìn nhận về tờ báo Tiếng Dội như sau. Các văn bản, bài báo được lưu trữ trong văn khố của các nhà nước có tiến bộ như Anh, Mỹ, Pháp… đều là những tác phẩm có giá trị về mặt nội dung cũng như sự thật lịch sử được nghiên cứu và chọn lọc kỹ lưỡng. Sự việc được lưu trữ trong văn khố của viện bảo tàng nước Anh cho thấy tính xác thực của bài báo nói trên trong tờ báo Tiếng Dội. Đó là bằng chứng đầu tiên cho thấy sự tồn tại sắc lệnh của ông Trường Chinh là có thật.
 
Thứ 2, Hiện nay tại Trung tâm lưu giữ quốc gia I, Việt Nam có một văn bản lưu giữ như nội dung bài báo Tiếng Dội cho đăng. Văn bản này được lưu giữ trong kho văn thư trước năm 1945 của đảng cộng sản Việt Nam. Văn bản tuy mất một phần dưới góc do yếu tố thời gian không thể thấy được chữ ký của ai nhưng trên đầu của sắc lệnh ghi rõ do đảng Lao động Việt Nam (tên khác của đảng cộng sản) ban hành. Việc không thấy chữ ký của ai không quan trọng lắm vì nó có ghi rõ là của đảng Lao động và được trung tâm lưu trữ quốc gia lưu trữ nên nó không thể vô giá trị. Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm tại trung tâm lưu trữ quốc gia về sắc lệnh kêu gọi nói trên.
 
Thứ 3, Sẽ là thiếu sót nếu chỉ có 2 bằng chứng trên đây để khẳng định việc tồn tại sắc lệnh kêu gọi của ông Trường Chinh là sự thật. Thêm bằng chứng sau đây sẽ khẳng định chắc chắn về điều đó với bạn đọc. Vì đảng cộng sản hay có thói quen thủ tiêu bằng chứng về tội ác và sai lầm của mình nên thêm một nguồn tài liệu có thể khẳng định điều này. Trong cuốn sách của tác giả Hà Cẩn (Viện văn học Trung quốc) có một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang có đoạn trang 126 nói về quan hệ với Việt Nam. Đoạn đó có đoạn tạm dịch như sau:
 
“Mao chủ tịch đánh giá việc Việt Minh đã từng muốn dùng tiếng Trung Quốc thay cho chữ quốc ngữ Việt Nam là một hành động cho thấy trước sau gì Việt Nam sẽ thuộc về chúng ta, ít nhất là về văn hóa”.
 
Từ đoạn này chúng ta có thể thấy Mao đã biết chủ trương dùng tiếng Hoa của Việt Minh (lúc đó mang tên đảng Lao động Việt Nam). Thời điểm tác giả Hà Cẩn nêu trong cuốn sách của mình là lúc Mao vẫn chỉ gọi đảng cộng sản Việt Nam là Việt Minh trùng khớp với thời điểm và cách dùng trong quy phạm của sắc lệnh kêu gọi của Trường Chính đòi nhân dân Việt Nam học tiếng Hoa.
 
Thứ 4, Bản thân con người của Trường Chinh là một con người có tư tưởng thân Trung cộng và là người vâng lời ông Hồ Chí Minh gần như tuyệt đối. Ông ta là người tích cực nhất trong vụ cải cách ruộng đất mà ông Hồ học từ Trung cộng. Việc thực thi một cách chặt chẽ các chủ trương của Tàu và ông Hồ đã biến ông Chinh thành một tên tội đồ trong CCRĐ. Điều này khác hẳn với tư tưởng của ông Duẩn trong việc quan hệ với Trung cộng. Rõ ràng ngay cả bản chất con người ông Chinh cũng cho thấy ông ta yêu Trung cộng như lãnh tụ của ông ta.
 
Kết luận: Sắc lệnh kêu gọi của Trường Chinh thể hiện dã tâm biến Việt Nam thành một tỉnh của Trung cộng của đảng cộng sản Việt Nam.
 
2. Ai là kẻ chỉ đạo Trường Chinh?
 
Như chúng ta đã biết, ông Hồ là người chỉ đạo ông Đồng trong việc bán HS-TS. Ông Hồ cũng nhận chủ trương của Tàu về việc CCRĐ mà người thực hiện là ông Chinh. Trong vụ việc ra sắc lệnh kêu gọi nhân dân ta phải học tiếng Hoa có bàn tay không nhỏ của ông Hồ.
 
Trong phần đầu tiên chúng ta thấy ông Hồ đã viết một bài thơ ca ngợi Trung cộng và tha thiết thương nhân dân Trung cộng như thương bản thân ông ta. Vậy thì không có lý do gì để một người luôn coi “Bác Mao luôn đúng”“yêu Trung Quốc là yêu mình” như ông Hồ không chỉ đạo ông Chinh ra sắc lệnh đó. Đó là xét yếu tố con người và tư tưởng.
 
Xét về mặt chính trị thì ông Hồ là người đứng đầu của tổ chức đảng Lao động, ông ta vạch ra cương lĩnh làm việc từ CCRĐ… theo lệnh của Trung cộng. Rõ ràng việc đưa ra sắc lệnh kêu gọi phải do chủ trương của ông Hồ hoặc chí ít ông Hồ cũng phải đồng ý thông qua. Chúng ta thấy việc nhãn tiền đó là ông Trường Chinh vẫn ký tên là Tổng thư Ký. Việc một tổng thư ký tự ra một sắc lệnh kêu gọi toàn dân từ bỏ tiếng quốc ngữ là một điều không tưởng. Một nước dân chủ tự do cũng không thể có chuyện đó. Huống hồ đây lại là ở một đảng độc tài kín kẽ, quyền lực nằm trong tay bộ chính trị cũng như ông Hồ lúc đó. Bằng chứng rõ nét nhất về sự lép vế của ông Chinh đó là việc ông này là vật thế thân cho ông Hồ trong thảm trạng CCRĐ như đã chứng minh trong phần 5. Trong các bài viết trước tôi cũng đã chứng minh vai trò đứng đầu của ông Hồ cho đến khi ông ta bị mất dần quyền lực từ năm 1963 vào tay phe cánh ông Lê Duẩn. Vậy thì trách nhiệm chính trị của ông ta trong sắc lệnh kêu gọi của ông Trường Chinh là hoàn toàn to lớn và rõ rệt.
 
Ngoài ra, còn một điểm đáng lưu ý ông Hồ có nhiều tuyên bố cho thấy bản thân ông ta không thương yêu dân tộc Việt Nam. Tự coi Việt Nam là một phần của Trung cộng.
 
Trong thư đề ngày 06-6-1938 gửi Lê Nin. “Đồng chí hãy phân tôi đi đâu đó, hay là giữ tôi ở lại đây. Hãy giao cho tôi một việc làm gì mà theo đồng chí cho là có ích? (Trích Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 trang 90- Sách của đảng cộng sản Việt Nam). Bạn đọc có thể thấy cung cách của một người xin việc của ông Hồ với thế giới cộng sản. Điều này cho thấy ông Hồ không yêu thương dân tộc như ông ta và đảng cộng sản thường tự rêu rao. Một người như vậy ắt hẳn sẽ có tư tưởng Hán hóa vì Trung quốc là cộng sản đàn anh trong mắt của Hồ Chí Minh.
 
Cũng cần phải nhắc lại ngày 31-10-1952, ông Hồ viết: “Đồng chí Stalin kính mến, tôi gởi cho đồng chí đề án cải cách ruộng đất của đảng Lao Động Việt Nam (tên của đảng cộng sản lúc bấy giờ). Đề án này tôi đã hoàn thành với sự giúp đỡ của hai đồng chí Liu Shaoshi và Van szia-Sian. Đề nghị đồng chí tìm hiểu và đưa ra chỉ thị về đề án này”. (Tôi đã trích nội dung thư ở phần 5 – CCRĐ có hình ảnh chụp bức thư và links đi kèm). Nội dung đoạn thư này, ông Hồ không hề coi tập thể người Việt Nam là đồng bào ông ta, mạng sống của người dân Việt sẽ tùy thuộc vào lời phê chuẩn của Stalin và của cố vấn Trung cộng trong cái gọi là CCRĐ sau này nhân dân ta phải đón nhận.
 
Kết luận chung:
 
Việc bán nước trong thân phận chư hầu của ông Hồ và đảng cộng sản đã là một tội lớn. Nhưng việc Hán hóa toàn diện Việt Nam thì lại đẩy thêm một bước nữa đến đỉnh điểm của tội lỗi với dân tộc Việt Nam. Bức sắc lệnh của ông Trường Chinh và vai trò của ông Hồ trong vụ việc này càng thêm minh chứng cho sự thật: Ông Hồ không yêu dân tộc Việt Nam mà chỉ muốn biến dân tộc Việt Nam thành một tỉnh của Trung cộng!
 
Chỉnh sửa và hoàn thiện: 05/07/2012
 
 
 
___________________________________
 
Đã đăng:
 

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Lisa Pham Vấn Đáp official26/3/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link