Sunday, May 26, 2013

BẢN CÁO TRẠNG TỘI ÁC CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


 

Date: Tue, 21 May 2013 22:33:00 -0700
From:
Subject: BẢN CÁO TRẠNG TỘI ÁC CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM




BẢN CÁO TRẠNG TỘI ÁC CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


Đặng Chí Hùng  - Để tiếp nối Phần 1 của Bản cáo trạng đã đăng tạiDanlambaotôi xin gửi đến bạn đọc bài số 2 này để bạn đọc tiếp tục tìm hiểu và góp ý về những sự thật cần phải cho thế giới thấy được tội ác cũng như bản chất tàn độc và dối trá của ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đối với dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn 02/09/1945-02/09/1969: 

I. Gây chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa là một nước có chủ quyền được Liên Hiệp Quốc công nhận 

Kính thưa quý vị!

Do bối cảnh lịch sử diễn ra sau thế chiến lần thứ 2 và sự trỗi dậy bành trướng của chủ nghĩa cộng sản nên tại Việt Nam chúng tôi tồn tại hai nước theo hiệp định Geneve 1954. Đó là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc) và Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam). 

 


Việt Nam Cộng Hòa một quốc gia đã được thành lập và đó là một quốc gia độc lập được quốc tế công nhận. Điều này được minh chứng qua các bằng chứng lịch sử và tài liệu hết sức rõ nét và cụ thể sau đây: 

 

a. Theo như tuyên bố của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) về sự độc lập và dân chủ của mình thì thực tế VNCH đã được 56 quốc gia trên thế giới công nhận trong khi đó thì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) lúc đó chỉ được có 10 nước cộng sản công nhận. Hãy đọc đoạn sau: 

 

“Những tổ chức dân chủ và các tiến bộ mà chính phủ chúng tôi đã đạt được trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội, đã được cảm thông của cả thế giới. Đến ngày hôm nay đã có 56 quốc gia công nhận chính phủ chúng tôi, duy trì quan hệ ngoại giao với chúng tôi, hoặc đã đề nghị chúng tôi được gia nhập Liên Hiệp Quốc. Nhà cầm quyền cộng sản ở miền Bắc chỉ được sự công nhận của khoảng 10 chính phủ cộng sản. Trong những năm gần đây, ảnh hưởng của Việt Nam Tự Do đã được tăng đáng kể: Nước chúng tôi hiện nay là thành viên của 33 tổ chức quốc tế và Sài Gòn được chọn là trụ sở của nhiều hội nghị quốc tế.” - (Tuyên Bố Của VNCH Về V/Đ Thống Nhất Đất Nước, Nguyễn Hội

 

b. Trong cuốn sách “Chỉ dẫn lịch sử” của nhà xuất bản quốc gia Liên Xô do nhóm tác giả tại viện nghiên cứu lịch sư Liên Bang Xô Viết tại trang 42 có viết:

 


“Việt Nam Cộng Hòa là một Quốc Gia Hợp Pháp được công nhận bởi nhiều quốc gia trên thế giới qua Hiệp Định Genève 1954, đã từng có quy chế là một quốc gia quan sát viên của Liên Hiệp Quốc. Từ năm 1954 cho đến năm 1975.” 

 

Như vậy ta có thể thấy được rằng ngay người đàn anh cộng sản Liên Xô của cộng sản Việt Nam cũng phải công nhận tính chính danh và hợp pháp của nước Việt Nam Cộng Hòa mà bất cứ nước nào cũng không có quyền xâm phạm. 

 

c. Trong tài liệu của Liên Hiệp Quốc lưu chiểu tháng 2/1998 có ghi tại danh sách thành viên mục 3 trang 236 về Việt Nam Cộng Hòa có đoạn: “84 quốc gia trên thế giới đã từng đặt nền tảng bang giao với Nước Việt Nam Cộng Hòa từ 1954-1975.” 

 

d. Tác giả J. Leroy - một nhà hoạt động xã hội người Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản Pháp - Trong cuốn sách của mình mang tên “Đối nghịch” ở trang 236 còn viết: 

 

“Về cơ bản chính quyền nước Việt Nam Cộng Hòa là một chính quyền hợp hiến được Liên hợp quốc và đa phần các nước công nhận, tuy nhiên những nước thân Liên Xô và Trung Hoa không công nhận điều đó vì họ không muốn Việt Nam có bàn chân của Mỹ và đống minh...” 

 

Thưa quý vị, đây chỉ là 4 trong vô vàn tài liệu mà chúng tôi cũng có thể cung cấp thêm để chứng minh Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia hợp hiến và đã được quốc tế công nhận. 

 

Tuy nhiên đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ Chí Minh đã mượn vũ khí của Trung cộng và Liên Xô để tiến đánh xâm chiếm một quốc gia độc lập khác nhằm áp dụng tư tưởng cộng sản độc tài cho cả đất nước Việt Nam chúng tôi.

 

Điều này minh chứng bằng các luận chứng mà chúng tôi xin gửi tới quý vị ngay sau đây. Việc xâm chiếm một quốc gia độc lập có chủ quyền khác là vi phạm hiến chương Liên Hiệp Quốc và quy tắc ứng xử quốc tế. Đề nghị quý vị xem xét các luận chứng tôi nêu ra để có được sự công bình nhất cho nhân dân Việt Nam nói chung và trả lại sự thật cho lịch sử Việt Nam chúng tôi.

 

Kính thưa quý vị!

 


Ngoài việc VNCH được quốc tế công nhận là một quốc gia độc lập ra thì bản thân VNCH cũng không chủ trương tấn công VNDCCH mà tập trung vào việc xây dựng kinh tế và đời sống cho nhân dân.

 

Bằng chứng là đời sống nhân dân được nâng cao và cải thiện một cách đáng kể, mọi mặt từ chính trị, kinh tế, chính trị... được phát triển đáp ứng nhu cầu dân sinh trong nước. Quý vị có thể tham khảo những con số trích dẫn cụ thể về mọi mặt qua sự so sánh và liệt kê tại Danlambao: “Những sự thật cần phải biết - Bài 2 - VNCH nạn nhân của một chính sách ngậm máu phun người” 

 

Kính thưa quý vị! 

 

VNDCCH dưới sự chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản không chấp nhận một thực tế là nhân dân Việt Nam cần phải được tự do lựa chọn thể chế chính trị cho mình. Chính vì muốn áp đặt chế độ cộng sản độc tài nên ông Hồ và đảng cộng sản đã theo lệnh và nhận sự chi viện của Trung cộng để gây chiến phi nghĩa nhằm xâm lược một quốc gia khác đó là VNCH. 

 

1. Trong “Những sự thật không thể chối bỏ - Bài 9 - Hồ Chí Minh và âm mưu Hán hóa VN” khi tôi đã giới thiệu về tác giả Trung cộng - Hà Cẩn (Viện Văn học Trung quốc) có một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi NXB Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang có đoạn trang 198 nói về chiến Tranh Việt Nam. Đoạn đó tạm dịch như sau: 

 


“Với sự chỉ đạo và giúp đỡ của Trung Hoa mà đứng đầu là Mao chủ tịch thì nhân dân miền Bắc đủ sức chi viện và lãnh đạo các cuộc đánh bom, gài mìn, nổi dậy tại Miền Nam của ông Diệm.” 

 

Như vậy trên thực tế Trung cộng đã chỉ đạo và tài trợ cho VNDCCH vũ khí để họ tiếp tục “lãnh đạo” nhân dân Miền Nam “khủng bố” và nổi dậy thông qua các hành động đặt bom, cài mìn mà chính Hà Cẩn nêu đích danh. 

 

Những hành động đó được gọi là gì? Là khủng bố chứ không thể khác. Một nhà nước đi kích động việc khủng bố và xâm lăng nước khác là hoàn toàn phi pháp. Đảng cộng sản Việt Nam biện hộ bằng luận điệu “Chống Mỹ cứu nước” nhưng điều này hoàn toàn không đúng. Vì bằng các tài liệu ngay sau đây của chính phía cộng sản đã cho thấy điều này là mâu thuẫn. 

 

2. Trên trang chính dư địa chí của tỉnh ủy Thừa Thiên Huế tại links: 


 

“Tháng 11/1957, Tỉnh ủy Thừa Thiên họp tại bản Ấp Rùng, xã Thượng Long miền Tây Thừa Thiên Huế. Hội nghị đã quyết định xây dựng miền núi Thừa Thiên Huế thành căn cứ cách mạng. Tỉnh ủy bố trí cán bộ từ đồng bằng lên, cùng với một số cán bộ đã cắm bản từ trước kiên trì bám trụ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào nhanh chóng giác ngộ, phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang tự vệ bằng vũ khí thô sơ đã nảy sinh trong phong trào quần chúng. 

 

Giữa lúc phong trào cách mạng miền núi Thừa Thiên Huế đang có bước chuyển biến quan trọng thì ánh sáng Nghị quyết 15 (1/1959) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) về đường lối cách mạng miền Nam được truyền đến Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà. Tỉnh ủy khẩn trương tổ chức học tập và triển khai thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương. Một trong những nhiệm vụ chiến lược của Nghị quyết Trung ương 15 là việc mở đường 559 - đường Hồ Chí Minh. Miền núi Thừa Thiên Huế với con đường 559 nối liền mạch máu với cả nước từng bước trở thành căn cứ địa cách mạng vững chắc làm chỗ dựa cho đồng bằng.” 

 

Cũng trên trang này ở bài viết khác có những đoạn: 

 

“Sau năm 1963, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế tích cực, khẩn trương chuẩn bị mọi mặt nhằm đưa phong trào lên một thời kỳ mới, thời kỳ phá kìm, giành dân, đưa phong trào đồng bằng lên thế đấu tranh chính trị, quân sự, tiến công địch bằng cả ba mũi giáp công: chính trị, quân sự, binh vận. 

 

Đầu năm 1964, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế chủ trương: “Phát huy sức mạnh của quần chúng có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, lợi dụng sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn mà tổ chức lực lượng, tiến công mạnh mẽ, đều khắp, làm tan rã, tê liệt chính trị, tư tưởng và tổ chức, phá ấp chiến lược, chuẩn bị thiết thực cho việc phá thế kìm kẹp của địch”. Thực hiện chủ trương trên, nhân dân Thừa Thiên Huế bước vào phong trào đồng khởi đồng bằng năm 1964. 

 

Đến mồng 5 rạng ngày 6/7/1964, phong trào đồng khởi diễn ra khắp vùng đồng bằng trong tỉnh. Ở phía Bắc tỉnh, nhân dân nhiều xã nổi dậy phối hợp với bộ đội và đội công tác võ trang tiến hành tấn công địch, phá ấp chiến lược, xóa bỏ ngụy quyền, tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở cơ sở và chính quyền tự quản của nhân dân. Phong trào Đồng Khởi đã mở ra một vùng giải phóng rộng lớn gồm nhiều xã: Phong Sơn, Phong An, Phong Thái, Phong Hòa, Phong Bình, Phong Chương (Phong Điền), Phong Nhiêu, Quảng Thái (Quảng Điền) và Hương Vân, Hương Thọ, Hương Hồ, Hương Mai, Hương Thái, Hương Bình, Hương Thạnh (Hương Trà). Ở phía Nam, lực lượng vũ trang phối hợp với nhân dân tấn công và nổi dậy giải phóng các xã Phú Đa, Phú Hồ và một số thôn của Vinh Phú, Vinh Thái, Phú Xuân, Phú Lương (Phú Vang); Lộc An, Lộc Tụ (Phú Lộc); nhiều thôn xã của xã Thủy Bằng, Thủy Thanh, Thủy Phương (Hương Thủy)...” 

 


 

Qua hai đoạn trích trên đây cho thấy xuyên suốt quá trình trước năm 1965 mặc dù chưa hề có quân Mỹ tại VNCH và đặc biệt là những chính sách của nền Đệ nhất Cộng hòa như “Người cày có ruộng” hay “Cải cách kinh tế” đã làm cho đời sống nhân dân đi dần vào ổn định thì hành động của đảng cộng sản chỉ đạo hoàn toàn là dùng bạo lực khủng bố nhân dân, chính quyền và xâm phạm quyền tụ chủ của đất nước khác. Những kích động bạo lực đó minh chứng cho chủ trương sắt máu của đảng cộng sản. 

 

3. Cuốn sách “Lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam” của nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tái bản năm 2000 có những đoạn

 

“Trong giai đoạn 1957-1959, cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn. Hàng loạt cơ sở của ta bị chính quyền Ngô Đình Diệm phát hiện và bắt giữ. Tháng 1/1959, diễn ra hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam, đã quyết định cho phép lực lượng miền Nam sử dụng bạo lực để đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm. 

 

Kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang để lật đổ chính quyền Mỹ-Diệm, cao trào diễn ra ở các địa phương: Bắc Ái (02/1959), Trà Bồng (08/1959)... phong trào lan nhanh ra khắp miền Nam, đặc biệt là phong trào Đồng khởi ở tỉnh Bến Tre. 

 

Điều này cũng được chính quyền cộng sản hiện nay công nhận qua đoạn trích trên báo của chính quyền tỉnh Bến Tre:

“Tháng 12-1959, Hội nghị đại biểu các tỉnh miền Trung Nam Bộ được triệu tập để truyền đạt Nghị quyết 15 của Trung ương và bàn chủ trương chuyển hướng phong trào. Đêm 2-1-1960, Hội nghị cán bộ lãnh đạo Bến Tre do Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập tại một địa điểm ở Mỏ Cày để truyền đạt nghị quyết của Trung ương và bàn kế hoạch phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá thế kiềm kẹp của địch. Nghị quyết của hội nghị là phát động một tuần lễ nổi dậy đồng loạt trong tĩnh từ 17-1-1960 đến 25-1-1960. Ngày 17-1-1960, theo kế hoạch đã định, cuộc Đồng khởi nổ ra thắng lợi đúng như dự kiến tại 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh (Mỏ Cày).” 

http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=301&Itemid=47

 

Nhưng trên thực tế thì vào thời điểm đó, trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chưa hề có bóng dáng người lính Mỹ tham chiến nào mà chỉ là những cố vấn quân sự để xây dựng quân đội một quốc gia mới thành lập cũng như các nhân viên của Liên Hiệp Quốc hỗ trợ phát triển hạ tầng cơ sở, y tê và giáo dục... Vậy mà người cộng sản đã có hành động là kích động khủng bố nhân dân nước Việt Nam Cộng Hòa và âm mưu gây chiến để có thể nhuộm đỏ đất nước. Để thực hiện âm mưu này người cộng sản thú nhận.

 

Để kết hợp với sự kiện “Đồng Khởi” được kích động bởi Trung ương đảng cộng sản của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì đảng cộng sản cũng tiến hành công cuộc xâm chiếm chủ quyền một nước khác một cách bất hợp pháp một cách có hệ thống. Họ cho thành lập đoàn 559 khi chưa có bóng dáng quân Mỹ tại Việt Nam Cộng Hòa với khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước”

 

Đây là nguyên văn bài viết trên trang của ban tuyên giáo trung ương VNDCCH tại nguồn dẫn:
http://www.tuyengiao.vn/Home/Viet-Lao/Tu-lieu-lich-su/46657/Duong-Ho-Chi-Minh-bieu-tuong-sinh-dong-cua-tinh-doan-ket-dac-biet-viet-lao

 

“Ngày 19-5-1959, “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” - Đoàn 559 ra đời, với nhiệm vụ mở đường, đưa đón cán bộ, bộ đội, vũ khí, đạn được, lương thực… từ miền Bắc vào miền Nam và vận chuyển vật chất giúp nước bạn Lào. Được khai sinh vào ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5), đường mang tên "Đường Hồ Chí Minh".” 

 

Như vậy đảng cộng sản đã chủ trương “đồng khởi” kết hợp với xâm chiếm VNCH - một quốc gia hợp pháp ngay từ khi quân Mỹ còn ở tận đâu đó bên nhà của họ. Trên thực tế người Mỹ trước năm 1965 chỉ vào VNCH dưới dạng cố vấn xây dựng quân đội cũng như hoạt động nhân đạo. (Xem “Những sự thật cần phải biết” – Bài 2 - VNCH - Nạn nhân của chính sách ngậm máu phun người). 

 

Sự gây chiến xuất phát từ âm mưu nắm quyền cai trị nhân dân Việt Nam hết sức độc tài của đảng cộng sản Việt Nam là có âm mưu và hệ thống được sắp đặt tình vi. Bằng các biện pháp tuyên truyền mị dân mà nhân dân Việt Nam cho đến nay chúng tôi mới thấu hiểu hết được các âm mưu đó. Chính vì vậy chúng tôi tha thiết mong mỏi quý vị xem xét các bằng chứng tội ác cho thấy những gì đảng cộng sản và ông Hồ Chí Minh đã làm là hết sức độc ác, vô nhân đạo và vi phạm hiến chương quốc tế.

 


Cuộc chiến xuất phát từ những người cộng sản đem lại nhiều hậu quả tang thương cho nhân dân Việt Nam đến ngày nay. Những điều đó xin quý vị đọc lại những gì chúng tôi tổng hợp sơ bộ về các cuộc khủng bố nhằm vào nhân dân Việt Nam Cộng Hòa tại bài viết: Những sự thật cần phải biết - Nổi dậy hay khủng bố?

Bên cạnh đó, những con số về hậu quả của cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược một quốc gia có chủ quyền khác còn nghiêm trọng hơn rất nhiều. Chính đảng cộng sản Việt Nam cũng đã thừa nhận việc Mỹ hoàn toàn không có khả năng can thiệp trực tiếp vào Việt Nam sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc. Tại sao VNDCCH lại phải bán HS-TS cho Trung cộng (1958) để gây chiến? Vì đó thực chất là một cuộc chiến phi nghĩa gây đau thương cho dân tộc Việt Nam. Bằng chứng cho thấy đảng cộng sản công nhận trước 1965 thì Mỹ không có khả năng trực tiếp can thiệp quân sự vào Việt Nam được thể hiện trong cuốn “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua” (NXb Sự thật - Cơ quan của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) có viết: 

 

“Sự thật là sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, Mỹ không có khả năng can thiệp quân sự trực tiếp vào Đông Dương” 


 

Kính thưa quý vị! 

 

Thực chất người Mỹ chỉ vào Việt Nam sau khi cộng sản đã khai chiến và họ vào với mục đích bảo vệ quyền độc lập của VNCH đang tiến hành dân chủ hóa. Và chúng tôi cũng thấy rằng dù đảng cộng sản rêu rao “Mỹ xâm lược” Việt Nam nhưng chúng tôi không thấy Mỹ lấy một tấc đất, một hòn đảo, hay một cái mỏ Boxit nào như Trung cộng đang làm? Đó là minh chứng cho sự ngụy biện của đảng cộng sản cho sự hiếu chiến của họ. 

 


Thứ nhất, trong bài “Những sự thật không thể chối bỏ - Phần 6 có đề cập đến 2 bức thư mà Hồ Chí Minh gửi Stalin để xin chỉ thị về Cải Cách Ruộng Đất và xin vũ khí. Hai bức thư được viết năm 1952 (đã post bản in và link kiểm chứng). Vấn đề được đặt ra khi là năm 1952 không có cuộc chiến nào lớn với Pháp và tại sao tôi khẳng định việc xin vũ khí này lại liên quan đến cuộc chiến sau này với VNCH thì xin được trình bày như sau: 

 

Đầu tiên chúng ta đều biết rằng thời điểm 1952, Việt Minh chỉ đối đầu với Pháp tuy nhiên không có những cuộc chiến lớn xảy ra nhưng việc yêu cầu Liên Xô cấp vũ khí đơn thuần chỉ là để phục vụ cuộc chiến Việt-Pháp. 

 

Nhưng phát hiện từ một tài liệu của Liên Xô đã chứng minh sự kiện xin vũ khí của ông Hồ không đơn giản chỉ là để đánh nhau với Pháp mà còn là chuẩn bị cho tình huống đánh nhau với Mỹ. Như chúng ta đã biết việc Trung cộng mong muốn có cuộc chiến Việt-Pháp nhằm triệt tiêu nội lực dân tộc (Những sự thật không thể chối bỏ - Bài 10 - Triệt tiêu nội lực dân tộc) và lấy lại đất người Pháp dành cho Việt Nam (xem mục A). Nhưng ở bài 10 đã cho thấy Trung cộng không dám chắc về một cuộc chiến mà chiến thắng hoàn toàn thuộc về Việt Minh nên họ đã chuẩn bị cho một cuộc chiến khác nếu Mỹ nhảy vào Việt Nam. Tài liệu của Liên Xô đăng trong cuốn sách có tên “Một bước đi lớn” - xuất bản năm 1999 bởi nhóm tác giả đã từng hoạt động tại KGB bởi nhà xuất bản quân đội Liên Bang Nga nói về hoạt động tình báo của Liên Xô có đoạn trang 126: 

 

“Khả năng rất lớn là Mỹ sẽ có vai trò quan trọng trong việc thiết lập hòa bình ở Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Trung quốc cũng hiểu điều này. Chính vì thế Liên Xô phải chuẩn bị cho tình huống xấu nhất là chủ nghĩa tư bản ngự trị tại nơi mà Liên Xô đang mong muốn xây dựng chủ nghĩa Xã hội...” 

 

Như vậy thời điểm mà ông Hồ viết thư xin vũ khí 1952 thì Liên Xô đã tiên đoán Mỹ có khả năng phải can thiệp vào Việt Nam. 

 

Và cuốn sách cũng nói lên sự kiện liên quan đến hai bức thư xin vũ khí của ông Hồ: 

 

“Đồng Chí Stalin đã thông tin cho Việt Minh thông qua bộ ngoại giao Liên Xô để Việt Minh có đề xuất trong việc chuẩn bị tinh thần chiến đấu lâu dài và công việc chuẩn bị cho Cải cách ruộng đất...” (Trích trang 129). 

 

Như vậy qua hai dẫn chứng cho thấy Liên Xô đã chỉ đạo cho ông Hồ phải chuẩn bị ngăn cản Mỹ bằng mọi cách nếu sau này xảy ra, và việc ông Hồ xin vũ khí cũng nằm trong kế hoạch đó. Và qua đây cho thấy sự hiếu chiến của phe cộng sản thông qua sự thể hiện của ông Hồ và đảng cộng sản để triệt tiêu ý thức hệ đối lập mà ý thức hệ đó lại là ý thức hệ tự do, dân chủ và nhân bản. 

 

Thứ hai, thật ra, sau Hiệp ước Genève ngày 20-07-54, Việt Nam Cộng Hòa đã được hưởng vài năm thanh bình thịnh trị. Cuộc chiến chỉ bắt đầu tái phát với một quy mô khá rộng lớn vào ngày tỉnh Phước Thành (cũ) bị quân đội cộng sản tấn công với sự hy sinh của vị Thiếu tá Tỉnh trưởng và căn cứ Trảng Sụp của Trung đoàn 32, thuộc Sư đoàn 21 Bộ Binh bị VC tấn công vào đêm 25-01-60 với sự hy sinh của hơn 20 quân nhân VNCH và sự thất thoát trên 1,000 vũ khí (trích Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi (Hồi ký I), Văn Hóa, Houston, Texas 2002, tr. 349, 351.) (“Năm 1959, sư đoàn (SD) khinh chiến 13, đóng tại Bến Kéo, Tây Ninh và SĐ 11 đóng ở Hậu Giang được sáp nhập thành SĐ 21 dã chiến. Trung đoàn (TrĐ) 39 của SĐ 13 cũ sáp nhập vào TrĐ 32 của SĐ 11 thành TrĐ 32 của SĐ 21 tân lập”). 

 

Chính vì vậy có thể tạm gọi cuộc nội chiến đó là “Cuộc Chiến 1955-1975” mà không là “Cuộc Chiến 1960-1975”? Sau Hiệp ước Genève, Việt Minh tiếp tục cuộc chiến một cách âm thầm bằng cách chôn dấu vũ khí, đạn dược và gài cán bộ, cán binh lại Miền Nam VNCH để tiếp tục cuộc chiến. Theo ước tính của Hoa Kỳ và Chính phủ Quốc gia, có khoảng từ 5000 đến 10000 người được huấn luyện và cài lại Miền Nam với tư cách cán bộ (trích trong cuốn sách của CIA và chính phủ Mỹ thuộc loại mật: The Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 5, “Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954-1960”, Beacon Press, Boston, 1971, tr. 242-269). 

 

Nhưng theo một tài liệu do đảng cộng sản ấn hành, Việt Minh đã để lại Miền Nam 60,000 đảng viên (trích trong Tổng Kết Cuộc Kháng Chống Thực Dân Pháp, Thắng Lợi và Bài Học, Hà Nội, 1996): 

 

“Cán bộ và đảng viên được đặt dưới quyền lãnh đạo của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ Ủy Nam Bộ. Vào ngày cuối cùng của thời hạn tập kết ở Cà Mau, sau khi chúng ta đánh lừa địch bằng cách giả bộ lên tàu tập kết, đồng chí Lê Duẩn đã tìm cách rời khỏi tàu vào lúc nửa đêm để ở lại”. 

 

Như vậy, rõ ràng Miền Bắc đã chuẩn bị tấn công Miền Nam ngay khi Hiệp ước Genève chưa kịp ráo mực, chứ không phải vì Miền Nam không chấp nhận tổng tuyển cử vào năm 1956 hoặc vì có sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Miền Nam mà đang cộng sản luôn tìm cách tuyên truyền mị dân. 

 

Thứ ba, trong bộ môn lịch sử chương trình lớp 12, đảng cộng sản Việt Nam tuyên truyền:


“Mặt trận Giải phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. 

Nhưng thực chất thì sao? Năm 1961 khi ông Ngô Đình Diệm ký Hiệp ước quân sự với Mỹ, thì miền Nam lúc đó chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít quân mang tính yểm trợ (US Support Troopes) với nhiệm vụ chính là xây dựng phi trường, cầu cống, đường sá... 

 

Người Mỹ chỉ bắt đầu đưa quân vào miền Nam từ năm 1965, sau khi ông Ngô Đình Diệm qua đời do cương quyết từ chối không cho Mỹ trực tiếp can thiệp quân sự. Điều này ai cũng biết cả. Quân Mỹ thực sự đổ quân vào miền Nam sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964 và để giúp VNCH chống lại cuộc chiến đang ngày càng leo thang của cộng sản ở miền Nam. Cho đến năm 1964 cả về quân số và trang bị quân sự của VNCH không thể bằng VNDCCH (xin xem lại Những sự thật không thể chối bỏ - Bài 3 - Bác, đảng đã bán những gì và để làm gì?). Vậy thì vào thời điểm 20/12/1960, làm gì có bóng dáng lính Mỹ nào ở Miền Nam, làm gì đã có ai xâm lược mà chống? Đảng cộng sản phải chống ai, chống cái gì vào năm 1960? Chính sự mâu thuẫn trong lời nói của cộng sản cũng cho thấy bản chất nói dối, lật lọng trong việc kích động chiến tranh phi nghĩa tại Việt Nam. 

 

Thứ tư, những dữ kiện trong cuốn sách “MAO: The Unknown Story” được phát hành năm 2005 do hai nhà xuất bản Anchor Books và Random House của tác giả Jung Chang và Jon Halliday. Jung Chang là một hồng vệ binh của Trung cộng, (xem lại bài viết của tác giả Truyền Tấn tại links: http://danlambaovn.blogspot.com/2012/07/ong-gop-them-su-that-cho-bai-viet-nhung. html#.UCICfYRZNWs). Xin phép được trích lại đoạn trong cuốn sách trang 470 trích: 

 

“Có một nơi gần Trung Quốc, nơi đã có người Mỹ, đó là Việt Nam. Cuối năm 1963, miền Nam Việt Nam có khoảng 15000 cố vấn quân sự Mỹ. Kế hoạch của Mao là tạo tình huống làm cho Mỹ phải gởi thêm quân đội vào miền Nam, ngay cả có thể xâm chiếm miền Bắc giáp giới với Trung quốc. Được như vậy, nếu Mỹ oanh kích những căn cứ nguyên tử của ông ta, bộ binh Trung quốc sẽ tràn vào Việt Nam và bao trùm quân Mỹ như đã xảy ra ở chiến tranh Triều Tiên. Để thực hiện kế hoạch nầy, năm 1964 Mao thúc ép CSVN đẩy mạnh chiến tranh Đông Dương. Mao huấn thị Bắc Việt tránh đụng độ lớn, và cào xới khắp diện địa... biến thành cuộc chiến rộng lớn là tốt nhất. Mao bảo Bắc Việt phải đưa thêm Bộ Đội vào miền Nam, và đừng sợ sự can thiệp của Mỹ. Ông ta nói, cùng lắm là như chiến tranh Triều Tiên. Bộ đội Trung Cộng đã sẵn sàng. Nếu Mỹ tấn công Bắc Việt, Bộ Đội Trung Cộng sẽ tràn qua ngay, họ đang muốn có chiến tranh.” 

 

Như vậy những phần trích dẫn quý vị sẽ thấy 2 điều chính Mao chỉ huy ông Hồ đưa quân gây chiến với Miền Nam và trên thực tế dẫn chứng thứ 4 của tôi ở trên đã chứng minh Mao đã đưa quân vào Việt Nam chiến đấu cho thấy: Hồ Chí Minh đã được lệnh của Mao đem quân gây chiến với miền Nam. 

 

Kính thưa quý vị! 

 

Chính vì theo đuổi chính sách khủng bố và chiến tranh leo thang nhiều năm nên con số thương vong cũng như tổn hại sau cuộc chiến xâm lược phi nghĩa của VNDCCH đối với VNCH là những con số khủng khiếp mà tôi xin gửi tới quý vị sau đây.

 

1. Quân đội VNDCCH dưới sự chỉ đạo của ông Hồ và đảng cộng sản đã gây ra các cuộc khủng bố, pháo kích gây thương vong cho dân thường mà hậu quả của nó là hết sức tàn khốc đối với nhân dân VNCH. Xin quý vị xem phần tổng kết trong bài viết “Những sự thật cần phải biết - Bài 3 - Nổi dậy hay khủng bố”.

 

2. Ngoài ra còn có cuộc tắm máu nhân dân vô tội trong cuộc chiến phi nghĩa mà VNDCCH gây ra đối với nhân dân VNCH trong tết Mậu Thân 1968 mà ở phần II sau đây tôi xin gửi tới quý vị tội ác của ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam.

 

3. Tổng kết cuộc chiến phi nghĩa mà ông Hồ và đảng cộng sản đã gây ra cho chúng ta những con số khủng khiếp mà tôi xin gửi tới để quý vị tham khảo sau đây.

 


 

Chiến tranh Việt Nam đã gây ra cái chết của từ 2 đến 5 triệu người Việt (tùy từng nguồn khác nhau). Trong số các nước đồng minh của Việt Nam Cộng hòa, người Mỹ có số thương vong cao nhất với hơn 58.000 người chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế). Vào khoảng từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ Hàn quốc bị chết; Úc có khoảng 500 chết và hơn 3.000 bị thương; New Zealand 38 chết và 187 bị thương; Thái Lan 351 chết và bị thương; còn Philippines vẫn chưa có con số thống kê cụ thể... 

Số liệu chính thức về thương vong của phía Việt Nam được chính thức công bố gần đây nhất là: 1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có 300.000 quân nhân vẫn mất tích (chưa tìm được xác) 600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh.

Theo tư liệu giải mã của Chính phủ Việt Nam năm 1995 cũng như sự xác nhận của các viên chức chính phủ từng tham gia vào cuộc chiến. Trong một phim tài liệu trình chiếu trên kênh truyền hình The History Channel, có rất nhiều viên chức của Việt Nam trong các cuộc phỏng vấn đã xác nhận con số gần đây từ tài liệu giải mã, và số chiến binh tử trận của Quân đội Nhân dân Việt Nam (hay còn gọi là quân Giải phóng Miền Nam) vào khoảng 1,1 triệu, bao gồm 300.000 mất tích. Cần lưu ý, số thiệt mạng không chỉ bao gồm số thiệt mạng trong chiến đấu, mà còn bao gồm số thiệt mạng do bệnh tật, tai nạn, kiệt sức..., và cũng không chỉ gồm lính chiến đấu mà còn gồm bộ phận không tham gia chiến đấu như cán bộ dân chính, cơ sở chính trị ngầm, tổ chức dân vận...

Quân đội Mỹ trước đây ước đoán hành động quân sự của họ đã giết chết khoảng 500.000 quân đối phương, trong lúc 400.000 bị tiêu diệt bởi các lực lượng đồng minh (900.000 tổng số)...


Quân lực VNCH cũng tổn thất 250.000-316.000 tử trận hoặc mất tích và 1.170.000 bị thương.

Con số 220.357 tử trận được Lewy dẫn từ tài liệu lưu trữ của Bộ quốc phòng Mỹ, tính từ năm 1965 đến năm 1974. Cộng thêm con số tử trận trong giai đoạn 1974-1975 và trước đó cho ra ước tính khoảng hơn 250.000 tử trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước tính cao nhất có thể lên tới 316.000 tử trận.

Về dân sự 900.000 đến 4.000.000 chết: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Việt Nam đưa ra con số này vào ngày 3 tháng 4 năm 1995, hai triệu thường dân tại miền Bắc và hai triệu tại miền Nam đã chết khoảng giữa năm 1954 và 1975. Con số tổn thất dân sự của miền Bắc có thể là hậu quả của các chiến dịch không quân của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Hơn 2 triệu thường dân mang thương tật suốt đời.”

 


Thứ hai, theo tác giả Marc Leepsoned, Webster's New World Dictionary of the Vietnam War. New York: Simon and Schuster, 1999. - thì cũng có khoảng 4,5 triệu người Việt cả hai miền bị chết cho thấy tính chất phi nghĩa của cuộc chiến mà VNDCCH đã gây ra tổn hại như thế nào với nhân dân chúng tôi.

Thứ ba“Một bước đi lớn” - bởi nhóm tác giả đã từng hoạt động tại KGB và do NXB Quân đội Liên bang Nga xuất bản năm 1999 nói về hoạt động tình báo của Liên Xô ở trang 400 có viết:

“Hơn 4 triệu sinh mạng người Việt đã đổ xuống vì sự tranh giành cho địa vị của đảng cộng sản và chế độ do người Mỹ giúp sức...” 

 

Thứ tư, trong bản tổng kết của đảng cộng sản Việt Nam sau khi kết thúc chiến tranh Việt Nam được thông qua bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Việt Nam ngày 23/09/1978 đã cho biết có khoảng 4,7 triệu người dân Việt chúng tôi nằm xuống trong cuộc chiến 10.000 ngày.

 


 

 

 

 

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin Cuối Ngày 20/4/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link