SỰ VONG THÂN CỦA NHỮNG KẺ TỰ XƯNG
TRÍ THỨC
-Nguyễn thiếu Nhẫn -
Dẫn nhập: Sau khi bài viết “Ban Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam Nhiệm kỳ 2013-2017: Việc làm của những kẻ treo đầu cừu, bán thịt chuột” được phổ biến thì tôi có nhận được bài viết của ông Lê Thiện Ngọ hạch sách tôi về việc tại sao lại bảo là ông ta tuyên bố trong Đại Hội Bất Thường của Tập Thể Chiến sĩ VNCH/HN tại Houston là “Bây giờ mà còn Quốc, Cộng gì nữa”.
Tôi đã trả lời cho ông ta là tôi đâu cần phải “hearsay” câu viết trong bài của bà Tôn Nữ Hoàng Hoa; bởi vì trong cái giải pháp cứu nước của ông ta là “yêu cầu Hoà Kỳ và Đồng Minh yểm trợ Việt Nam chống Trung Cộng” thì tức là “yêu cầu Hoa Kỳ và Đồng Minh yểm trợ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chống Trung Cộng?”; bởi vì trong 38 năm qua trên trái đất này đâu có một nước VIỆT NAM NÀO KHÁC?
Ông ta đã cãi chầy, cãi cối chả ra làm sao cả.
Mới đây, ông Lê Thiện Ngọ lại lôi bài viết "Thưa Đại Tướng: 30 Tháng Tư năm 1975 Đại Tướng Ở Đâu?” của tôi và lôi thêm 2 tác giả là bà Tôn Nữ Hoàng Hoa và Trương Minh Hoà kết tội chúng tôi là những người quay họng súng về… phía Quốc Gia (sic!).
Ông ta lại hàm hồ bảo rằng tại sao “phe Tôn Nữ Hoàng Hoa - Nguyễn Thiếu Nhẫn phê bình gây chia rẽ Thủ Tướng, Tướng lãnh VNCH mà không phê bình Thủ Tướng, Tướng lãnh VC”.
Thực lòng mà nói, tôi không nghĩ một người đã lớn tuổi, tự xưng có bằng Tiến sĩ như ông Lê Thiện Ngọ, tự xưng là đã viết những kế hoạch này nọ để lấy lại đất nước, được một tổ chức to đùng là Tập Thể Chiến Sĩ VNCH/HN mời thuyết trình trong đại hội mà lại có những lập luận hàm hồ, ngốc ngếch tới như vậy!
Chúng tôi sẽ có bài viết trả lời về bài viết “30 THÁNG 4: SAO LẠI NỠ LÒNG QUAY NGƯỢC HỌNG SÚNG VỀ… PHIÁ QUỐC GIA?”, một bài viết ngậm máu phun người một cách ấu trĩ, dốt nát của ông “tiến sĩ đầu ruồi” Lê Thiện Ngọ.
Trường hợp ông trí thức mạt hạng Lê Thiện Ngọ vì danh, vì lợi đã tự vong thân vào lúc cuối đời không có gì đáng nói.
Xin mời độc giả đọc lại bài viết của chúng tôi về sự vong thân của một bậc tôn sư là Giáo sư Vũ Quốc Thúc.
*
“Giáo sư Vũ Quốc Thúc là một chứng nhân lịch sử lão thành,
từng tham chính trong chính quyền Trần Trọng Kim (1945). Rồi tham gia
Việt Nam kháng chiến chống Pháp (1946-1947). Sau đó là Công cán Ủy viên cho Thủ
tướng Quốc Gia Lâm thời Nguyễn Văn Xuân trong thời gian người Việt Quốc
Gia thương thảo (1946-1947) để Việt Nam độc lập, thống nhất. Một hiệp ước lịch
sử duy nhất cấp thượng đỉnh được ký kết giữa Quốc Trưởng Bảo Đại và Tổng
Thống Pháp Vicent Auriol tại dinh thự Élysée ở Paris ngày 8-3-1949. Đến
đầu năm 1954, Giáo sư Vũ Quốc Thúc với tư cách Bộ Trưởng Giáo Dục cùng luật sư Nguyễn
Đắc Khê, Bộ Trưởng Bộ Dân chủ hoá Đất nước tham gia phái đoàn Quốc Gia do
Thủ Tướng Bửu Lộc dẫn đầu đã ký kết văn kiện độc lập cuối cùng với Thủ
Tướng Pháp Joseph Laniel. Chức vụ sau cùng của Giáo sư Thúc là Quốc vụ
khanh Đặc trách Tái thiết và Phát triển VN thời hậu chiến khi cuộc đàm phán
chấm dứt chiến tranh diễn ra ở Paris năm 1969”.
-Trong biến cố 30-4 năm 1975, bị kẹt lại ở Việt Nam. Vượt biên vị Công An gạt, mất nhiều tài sản, sau nhờ sự can thiệp của ông Raymond Burre, bạn cùng thi Thạc sĩ và đương kim Thủ Tướng Pháp lúc đó, gia đình được chính thức sang Pháp vào giữa năm 1978, sau khi buộc lòng phải cống nạp hết tài sản cho VC.
-Từ năm 1979 đến 1980 cùng bác sĩ Trần Văn Đỗ, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy… sáng lập Liên Minh Dân Chủ VN trong đó gs Thúc là Phó Chủ Tịch/Ban Chấp Hành Trung Ương, sau đó thì rút ra vì bất đồng nội bộ trong việc vận động vãn hồi Hiệp định Paris 1973.
-Năm 1986, khởi xướng việc vận động vãn hồi Hiệp định Paris năm 1973, chủ trương dựng dậy cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
-Đến năm 2000, tham gia Hiến Chương 2000 do Tiến sĩ Nguyễn Bá Long khởi xướng nhại theo Hiến Chương 77 của Václav Havel, cựu Tổng Thống Tiệp Khắc. Trong hồi ký “Thời Đại Của Tôi” chính giáo sư Vũ QuốcThúc đã giải thích về sự thất bại của Phong trào Hiến Chương 77 như sau:
“Chính trong lúc đó, Tổng Thống Hoa Kỳ Bill Clinton đang chính thức thăm VN. Vì thiên hạ đều chú trọng đến biến cố lịch sử này nên việc chúng tôi công bố Hiến Chương 2000 không được dư luận chú ý và đánh giá đúng mức tầm quan trọng phải có”.
-Năm 2006, vận động quy chế trung lập cho VN nhân Hội nghị Thượng đỉnh của Diễn đàn Á Châu - Thái Bình Dương (APEC) tổ chức tại Hà Nội.
Ngoài những đóng góp tích cực cho đất nước và dân tộc trước tháng 4-1975 cũng như sau tháng 4 năm 1975, giáo sư Vũ Quốc Thúc còn đóng góp cho lịch sử, qua việc xuất bản quyển hồi ký “Thời Đại Của Tôi” vào năm 2010.
Với lòng yêu nước vô bờ, với tính kiên trì hiếm có, với niềm tin sắt đá, giáo sư Vũ Quốc Thúc đã không bỏ lỡ cơ hội nào.Giáo sư Vũ Quốc Thúc quả xứng đáng là “một bậc tôn sư” - như những lời xưng tụng của nhà nghiên cứu Lê Quế Lâm, tác giả quyển “Việt Nam Thắng Và Bại” xuất bản vào năm 1993.
-Trong biến cố 30-4 năm 1975, bị kẹt lại ở Việt Nam. Vượt biên vị Công An gạt, mất nhiều tài sản, sau nhờ sự can thiệp của ông Raymond Burre, bạn cùng thi Thạc sĩ và đương kim Thủ Tướng Pháp lúc đó, gia đình được chính thức sang Pháp vào giữa năm 1978, sau khi buộc lòng phải cống nạp hết tài sản cho VC.
-Từ năm 1979 đến 1980 cùng bác sĩ Trần Văn Đỗ, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy… sáng lập Liên Minh Dân Chủ VN trong đó gs Thúc là Phó Chủ Tịch/Ban Chấp Hành Trung Ương, sau đó thì rút ra vì bất đồng nội bộ trong việc vận động vãn hồi Hiệp định Paris 1973.
-Năm 1986, khởi xướng việc vận động vãn hồi Hiệp định Paris năm 1973, chủ trương dựng dậy cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
-Đến năm 2000, tham gia Hiến Chương 2000 do Tiến sĩ Nguyễn Bá Long khởi xướng nhại theo Hiến Chương 77 của Václav Havel, cựu Tổng Thống Tiệp Khắc. Trong hồi ký “Thời Đại Của Tôi” chính giáo sư Vũ QuốcThúc đã giải thích về sự thất bại của Phong trào Hiến Chương 77 như sau:
“Chính trong lúc đó, Tổng Thống Hoa Kỳ Bill Clinton đang chính thức thăm VN. Vì thiên hạ đều chú trọng đến biến cố lịch sử này nên việc chúng tôi công bố Hiến Chương 2000 không được dư luận chú ý và đánh giá đúng mức tầm quan trọng phải có”.
-Năm 2006, vận động quy chế trung lập cho VN nhân Hội nghị Thượng đỉnh của Diễn đàn Á Châu - Thái Bình Dương (APEC) tổ chức tại Hà Nội.
Ngoài những đóng góp tích cực cho đất nước và dân tộc trước tháng 4-1975 cũng như sau tháng 4 năm 1975, giáo sư Vũ Quốc Thúc còn đóng góp cho lịch sử, qua việc xuất bản quyển hồi ký “Thời Đại Của Tôi” vào năm 2010.
Với lòng yêu nước vô bờ, với tính kiên trì hiếm có, với niềm tin sắt đá, giáo sư Vũ Quốc Thúc đã không bỏ lỡ cơ hội nào.Giáo sư Vũ Quốc Thúc quả xứng đáng là “một bậc tôn sư” - như những lời xưng tụng của nhà nghiên cứu Lê Quế Lâm, tác giả quyển “Việt Nam Thắng Và Bại” xuất bản vào năm 1993.
*
Nhiều bậc thức giả đã lên tiếng về cái gọi là “Thư ngỏ của 36 trí
thức”.
Số người khen coi như đếm chưa đủ đầu ngón tay, kể cả 2 vị giáo sư ký tên trong “Thư ngỏ” là 2 giáo sư Lê Xuân Khoa và Vũ Quốc Thúc ; nhưng, số người chê thì đếm không xuể! Đa số đều chỉa mũi dùi vào giáo sư Lê Xuân Khoa.
Theo chúng tôi, chính những email qua lại giữa 2 ông Lê Xuân Khoa và Vũ Quốc Thúc về “Thư ngỏ” đã khiến dư luận trở nên sôi động; nhất là “Thư ngỏ” với nội dung và hình thức chỉ là sự theo đuôi các kiến nghị của 95 “nhân sĩ” và sau đó là 20 “trí thức” trong nước lên tiếng đề nghị với những người lãnh đạo Đảng CSVN về những biện pháp đối phó với sự lấn chiếm đất đai và lãnh hải VN của Trung Cộng (TC) và kêu gọi người Việt tỵ nạn cộng sản hãy hòa hợp hòa giải với đảng CSVN.
Đa số những phê bình đều nhắm vào giáo sư Lê Xuân Khoa. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì từ nhiều năm trước, giáo sư Lê Xuân Khoa vốn nổi tiếng là kẻ “hôn đít bạo quyền” (kiss ass) CSVN qua Chương trình Cưỡng bách Hồi hương vì ông ta là Giám đốc Chương trình Tác vụ Đông Dương của chính phủ Hoa Kỳ. Và ông ta đã xuất bản quyển “Việt Nam 1945-1975 - Tập I” công khai kêu gọi hòa hợp, hoà giải.
Theo thiển ý của chúng tôi, thì giáo sư Vũ Quốc Thúc mới chính là người đáng chê trách khi nhẹ dạ, cả tin, ảo tưởng khi “a dua” việc làm theo đuôi các trí thức trong nước do giáo sư Lê Xuân Khoa khởi xướng vì mục đích hôn đít bạo quyền CSVN!
Số người khen coi như đếm chưa đủ đầu ngón tay, kể cả 2 vị giáo sư ký tên trong “Thư ngỏ” là 2 giáo sư Lê Xuân Khoa và Vũ Quốc Thúc ; nhưng, số người chê thì đếm không xuể! Đa số đều chỉa mũi dùi vào giáo sư Lê Xuân Khoa.
Theo chúng tôi, chính những email qua lại giữa 2 ông Lê Xuân Khoa và Vũ Quốc Thúc về “Thư ngỏ” đã khiến dư luận trở nên sôi động; nhất là “Thư ngỏ” với nội dung và hình thức chỉ là sự theo đuôi các kiến nghị của 95 “nhân sĩ” và sau đó là 20 “trí thức” trong nước lên tiếng đề nghị với những người lãnh đạo Đảng CSVN về những biện pháp đối phó với sự lấn chiếm đất đai và lãnh hải VN của Trung Cộng (TC) và kêu gọi người Việt tỵ nạn cộng sản hãy hòa hợp hòa giải với đảng CSVN.
Đa số những phê bình đều nhắm vào giáo sư Lê Xuân Khoa. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì từ nhiều năm trước, giáo sư Lê Xuân Khoa vốn nổi tiếng là kẻ “hôn đít bạo quyền” (kiss ass) CSVN qua Chương trình Cưỡng bách Hồi hương vì ông ta là Giám đốc Chương trình Tác vụ Đông Dương của chính phủ Hoa Kỳ. Và ông ta đã xuất bản quyển “Việt Nam 1945-1975 - Tập I” công khai kêu gọi hòa hợp, hoà giải.
Theo thiển ý của chúng tôi, thì giáo sư Vũ Quốc Thúc mới chính là người đáng chê trách khi nhẹ dạ, cả tin, ảo tưởng khi “a dua” việc làm theo đuôi các trí thức trong nước do giáo sư Lê Xuân Khoa khởi xướng vì mục đích hôn đít bạo quyền CSVN!
*
Vì là một “trí thức tháp
ngà” nên đa số những việc làm của giáo sư Vũ Quốc Thúc đều rất “sách vở “,“lý
tưởng”, nếu không muốn nói là… ảo tưởng! Như trường hợp chính ông đã nói về
việc “vực dậy” cái thây ma Hiệp định Paris 1973, như sau:
“… Sau khi chế độ Cộng
Hoà sụp đổ, tôi bị kẹt ở Sàigòn cho tới cuối tháng 6 năm 1978 mới được phép di
cư sang Pháp nhờ sự can thiệp của chính phủ Pháp.
Một điều khiến tôi vô cùng thắc mắc trong những ngày đó, là không thấy có vị lãnh đạo cũ nào của Việt Nam Cộng Hoà lên tiếng đòi thi hành Hiệp định Paris 1973. Ai cũng biết rằng Hiệp định này được ký kết rất long trọng trước sự hiện diện của ông Kurt Waldheim, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Có 9 quốc gia minh thị cam kết bảo đảm sự thi hành Hiệp định. Trong số này, ta thấy đủ mặt 5 cường quốc hội viên thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Đó là: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Liên Xô và Trung Hoa (Trung Cộng). Họ có quyền phủ quyết nghĩa là có ưu thế so với mọi quốc gia hội viên khác.
Đúng lý, trong năm 1975, ngay sau khi thoát ra được nước ngoài, những nhân vật quốc gia, tương đối có danh ngĩa hơn mọi người khác như: cựu Tổng Thống, cựu Phó Tổng Thống, cựu Thủ tướng, cựu Chủ tịch Thượng viện, cựu Chủ tịch Hạ Viện… có thể lên tiếng đòi các cường quốc đồng minh cũ của VNCH, “trở lại Hiệp định Paris”. Trong thực tế, điều này có nghĩa là các nhân vật kể trên lập ngay một Chính phủ Quốc gia lưu vong để tiếp tục đấu tranh với chính quyền Hà Nội.
Tiếc thay việc này không xảy ra.
Tới năm 1977, khi chính quyền Hà Nội chính thức được chấp nhận làm hội viên của Liên Hiệp Quốc, việc đòi trở lại Hiệp định Paris 1973 trở nên khó khăn vô cùng. Theo lời ông Georges Mesmin, một vị dân biểu có thế lực từng giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy Ban Đối Ngoại tại Hạ Viện Pháp, khi chính phủ Pháp chính thức yểm trợ Việt Nam (cộng sản) gia nhập Liên Hiệp Quốc, thì mặc nhiên Pháp đã xí xóa việc Hà Nội vi phạm Hiệp định Paris 1973. Còn Hoa Kỳ, ngay sau khi Tổng Thống Geoerges Bush nhận chức (tháng Giêng năm 1989) Bộ Ngoại giao đã chính thức trả lời cho hai luật gia Nguyễn Hữu Thống, Phạm Nam Sách, là vì lý do chính trị không thể trở lại Hiệp định Paris được nữa.
Dù biết trước những sự khó khăn này, ngay từ năm 1986, chúng tôi đã tìm cách nêu vấn đề trở lại Hiệp định Paris. Mục đích của chúng tôi , lúc bấy giờ, là kích thích tinh thần đấu tranh của Cộng đồng Việt Nam tại Pháp, phần nào đã suy giảm sau khi thấy CSVN rầm rộ ăn mừng “10 năm tái thống nhất đất nước”. Nhắc lại các cường quốc đã từng cam kết bảo đảm sự thi hành Hiệp định Paris – nghĩa là gián tiếp bảo đảm sự trường tồn của VNCH ở miền nam vĩ tuyến 17 – chúng tôi nhằm đem lại cho đồng bào một mục tiêu tranh đấu cụ thể. Vả chăng, làm như vậy, chúng ta gián tiếp bảo vệ danh nghĩa của toàn thể các nạn dân của Bắc Việt thôn tính miền Nam. Ai cũng biết rằng các nước Âu, Mỹ, Á ngày càng trở nên lãnh đạm, nếu chưa phải là “hằn học” đối với các nạn dân Việt Nam. Họ cho rằng đám người này kéo nhau di cư, không phải vì lý do chính trị mà chỉ vì lý do kinh tế. Nêu vấn đề Hà Nội vi phạm Hiệp định Paris, chúng tôi muốn nhắc lại trách nhiệm của các cường quốc đã long trọng bảo đảm sự thi hành Hiệp định này. Chính vì họ “bội ước”, cho nên hàng triệu người đã phải bỏ Việt Nam ra đi. Họ không có quyền mạt sát dân VN là những kẻ tị nạn chính trị giả hiệu!
Để chuẩn bị cuộc vận động, chúng tôi đã trực tiếp thảo luận với hai vị có liên hệ chặt chẽ với cuộc Hòa đàm Paris: Đó là cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Ngoại trưởng Trần Văn Lắm. Cả hai vị đều tán thành ý kiến của chúng tôi.
Chúng tôi lập tức soạn thảo một cuốn Bạch thư bằng tiếng Pháp, nhan đề “Guèrre et paix en Indochine” (Chiến tranh và hòa bình ở Đông Dương).
Chúng tôi lập luận như sau:
Mục đích của đảng Cộng sản Đông Dương - tiền thân của Đảng CSVN - do Hồ Chí Minh (một ủy viên Ban Chấp hành Đệ Tam Quốctế Cộng Sản) lãnh đạo, ngay từ ngày thành lập, vẫn là thực hiện cuộc cách mạng vô sản trên toàn cõi Đông Dương. Chính vì vậy mà Hà Nội đã không ngần ngại xé bỏ Hiệp định Paris 1973: Đối với Hà Nội, Hiệp định chỉ là một thủ đoạn để đuổi quân đội Mỹ khỏi miền Nam VN, khiến cho chế độ Sàigòn suy yếu. Lúc đó với sư giúp đỡ của Liên Xô, Hà Nội sẽ tổ chức cuộc tổng tấn công và nắm chắc phần thắng. Lấy được miền Nam, Hà Nội sẽ “thừa thắng xông lên” chiếm luôn Lào và Campuchea, biến hai nước láng giềng này thành những nước cộng sản dưới sự chi phối trực tiếp của Đảng CSVN.
Từ nhận định này, chúng tôi suy diễn: các cường quốc đừng nên lầm tưởng có thể giải quyết riêng biệt vấn đế hoà bình ở Campuchea. Hoà bình dù tái lập tạm thời ở Campuchea, vẫn sẽ tiếp tục bị đe dọa, ngày nào chế độ Cộng sản còn tồn tại ở Việt Nam. Muốn tiến tới một nền hoà bình thực sự trên toàn cõi Đông Dương, cần phải để cho những người Quốc Gia chia sẻ quyền hành với Đảng CSVN. Giải pháp thích hợp nhất là trở lại Hiệp định Paris: không phải để mãi mãi chia đôi dân tộc VN mà là để hoàn thành sự tái thống nhất trong tinh thần hoà hợp, hoà giải, bằng sự thương thuyết giữa hai phe đối nghịch.
Chúng tôi chính thức kêu gọi chính phủ Pháp đứng ra hòa giải vì Pháp đã tổ chức cuộc hòa đàm đưa tới Hiệp định Paris ngày 23-1-1973.
Sau khi soạn xong cuốn Bạch thư, chúng tôi liên lạc với Ủy ban Pháp Quốc Yểm trợ Việt Nam Tự do (Comité Francaise de soutien pour un Vietnam libre) do dân biểu Pierre Bas, đương kim Thị trưởng Quận VI thành phố Paris, làm chủ tịch. Với sự giúp đỡ của Ủy ban này, ngày 23-5-1987, chúng tôi cùng một số thân hữu như: cố Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, cựu Bộ trưởng Nguyễn Thạch Vân, cựu Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc, cựu Nghị sĩ Nguyễn Duy Tài, cựu Đại tá Mai Viết Triết v.v… tổ chức ở phòng Khánh Tiết Tòa Thị Sảnh Quận VI Paris. Cuốn Bạch thư của chúng tôi được chính thức đưa ra nhân dịp này và sau đó được chính thức gửi tới các Chính phủ Pháp, Hoa Kỳ, Anh và các nước đã cam kết bảo đảm sự thi hành Hiệp định Paris. Bạch thư còn được gửi tới ông Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc. Tham dư cuộc hội thảo ở Quận VI Paris, có tới 150 nhân vật cả Việt Nam lẫn ngoại quốc, trong số đó, có một vị luật sư Hoa Kỳ, phái viên kín của cựu Ngoại trưởng Henry Kissinger, tác giả của Hiệp định 27-1-1973.
Cuộc hội thảo ở Paris đã khiến cho ông Georges Mesmin phải chính thức đưa ra quan điểm đã trình bầy ở trên. Còn về phần Hoa Kỳ, tuy không chính thức trả lời chúng tôi những đã gián tiếp nói lên quan điểm qua bức thư Bộ Ngoại giao gửi hai luật gia Nguyễn Hữu Thống và Phạm Nam Sách.
Tóm lại, vấn đề trở lại Hiệp định Paris, coi như đã bị các đồng minh cũ của Việt Nam Cộng Hoà gạt bỏ hẳn”.
Một điều khiến tôi vô cùng thắc mắc trong những ngày đó, là không thấy có vị lãnh đạo cũ nào của Việt Nam Cộng Hoà lên tiếng đòi thi hành Hiệp định Paris 1973. Ai cũng biết rằng Hiệp định này được ký kết rất long trọng trước sự hiện diện của ông Kurt Waldheim, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Có 9 quốc gia minh thị cam kết bảo đảm sự thi hành Hiệp định. Trong số này, ta thấy đủ mặt 5 cường quốc hội viên thường trực của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Đó là: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Liên Xô và Trung Hoa (Trung Cộng). Họ có quyền phủ quyết nghĩa là có ưu thế so với mọi quốc gia hội viên khác.
Đúng lý, trong năm 1975, ngay sau khi thoát ra được nước ngoài, những nhân vật quốc gia, tương đối có danh ngĩa hơn mọi người khác như: cựu Tổng Thống, cựu Phó Tổng Thống, cựu Thủ tướng, cựu Chủ tịch Thượng viện, cựu Chủ tịch Hạ Viện… có thể lên tiếng đòi các cường quốc đồng minh cũ của VNCH, “trở lại Hiệp định Paris”. Trong thực tế, điều này có nghĩa là các nhân vật kể trên lập ngay một Chính phủ Quốc gia lưu vong để tiếp tục đấu tranh với chính quyền Hà Nội.
Tiếc thay việc này không xảy ra.
Tới năm 1977, khi chính quyền Hà Nội chính thức được chấp nhận làm hội viên của Liên Hiệp Quốc, việc đòi trở lại Hiệp định Paris 1973 trở nên khó khăn vô cùng. Theo lời ông Georges Mesmin, một vị dân biểu có thế lực từng giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy Ban Đối Ngoại tại Hạ Viện Pháp, khi chính phủ Pháp chính thức yểm trợ Việt Nam (cộng sản) gia nhập Liên Hiệp Quốc, thì mặc nhiên Pháp đã xí xóa việc Hà Nội vi phạm Hiệp định Paris 1973. Còn Hoa Kỳ, ngay sau khi Tổng Thống Geoerges Bush nhận chức (tháng Giêng năm 1989) Bộ Ngoại giao đã chính thức trả lời cho hai luật gia Nguyễn Hữu Thống, Phạm Nam Sách, là vì lý do chính trị không thể trở lại Hiệp định Paris được nữa.
Dù biết trước những sự khó khăn này, ngay từ năm 1986, chúng tôi đã tìm cách nêu vấn đề trở lại Hiệp định Paris. Mục đích của chúng tôi , lúc bấy giờ, là kích thích tinh thần đấu tranh của Cộng đồng Việt Nam tại Pháp, phần nào đã suy giảm sau khi thấy CSVN rầm rộ ăn mừng “10 năm tái thống nhất đất nước”. Nhắc lại các cường quốc đã từng cam kết bảo đảm sự thi hành Hiệp định Paris – nghĩa là gián tiếp bảo đảm sự trường tồn của VNCH ở miền nam vĩ tuyến 17 – chúng tôi nhằm đem lại cho đồng bào một mục tiêu tranh đấu cụ thể. Vả chăng, làm như vậy, chúng ta gián tiếp bảo vệ danh nghĩa của toàn thể các nạn dân của Bắc Việt thôn tính miền Nam. Ai cũng biết rằng các nước Âu, Mỹ, Á ngày càng trở nên lãnh đạm, nếu chưa phải là “hằn học” đối với các nạn dân Việt Nam. Họ cho rằng đám người này kéo nhau di cư, không phải vì lý do chính trị mà chỉ vì lý do kinh tế. Nêu vấn đề Hà Nội vi phạm Hiệp định Paris, chúng tôi muốn nhắc lại trách nhiệm của các cường quốc đã long trọng bảo đảm sự thi hành Hiệp định này. Chính vì họ “bội ước”, cho nên hàng triệu người đã phải bỏ Việt Nam ra đi. Họ không có quyền mạt sát dân VN là những kẻ tị nạn chính trị giả hiệu!
Để chuẩn bị cuộc vận động, chúng tôi đã trực tiếp thảo luận với hai vị có liên hệ chặt chẽ với cuộc Hòa đàm Paris: Đó là cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Ngoại trưởng Trần Văn Lắm. Cả hai vị đều tán thành ý kiến của chúng tôi.
Chúng tôi lập tức soạn thảo một cuốn Bạch thư bằng tiếng Pháp, nhan đề “Guèrre et paix en Indochine” (Chiến tranh và hòa bình ở Đông Dương).
Chúng tôi lập luận như sau:
Mục đích của đảng Cộng sản Đông Dương - tiền thân của Đảng CSVN - do Hồ Chí Minh (một ủy viên Ban Chấp hành Đệ Tam Quốctế Cộng Sản) lãnh đạo, ngay từ ngày thành lập, vẫn là thực hiện cuộc cách mạng vô sản trên toàn cõi Đông Dương. Chính vì vậy mà Hà Nội đã không ngần ngại xé bỏ Hiệp định Paris 1973: Đối với Hà Nội, Hiệp định chỉ là một thủ đoạn để đuổi quân đội Mỹ khỏi miền Nam VN, khiến cho chế độ Sàigòn suy yếu. Lúc đó với sư giúp đỡ của Liên Xô, Hà Nội sẽ tổ chức cuộc tổng tấn công và nắm chắc phần thắng. Lấy được miền Nam, Hà Nội sẽ “thừa thắng xông lên” chiếm luôn Lào và Campuchea, biến hai nước láng giềng này thành những nước cộng sản dưới sự chi phối trực tiếp của Đảng CSVN.
Từ nhận định này, chúng tôi suy diễn: các cường quốc đừng nên lầm tưởng có thể giải quyết riêng biệt vấn đế hoà bình ở Campuchea. Hoà bình dù tái lập tạm thời ở Campuchea, vẫn sẽ tiếp tục bị đe dọa, ngày nào chế độ Cộng sản còn tồn tại ở Việt Nam. Muốn tiến tới một nền hoà bình thực sự trên toàn cõi Đông Dương, cần phải để cho những người Quốc Gia chia sẻ quyền hành với Đảng CSVN. Giải pháp thích hợp nhất là trở lại Hiệp định Paris: không phải để mãi mãi chia đôi dân tộc VN mà là để hoàn thành sự tái thống nhất trong tinh thần hoà hợp, hoà giải, bằng sự thương thuyết giữa hai phe đối nghịch.
Chúng tôi chính thức kêu gọi chính phủ Pháp đứng ra hòa giải vì Pháp đã tổ chức cuộc hòa đàm đưa tới Hiệp định Paris ngày 23-1-1973.
Sau khi soạn xong cuốn Bạch thư, chúng tôi liên lạc với Ủy ban Pháp Quốc Yểm trợ Việt Nam Tự do (Comité Francaise de soutien pour un Vietnam libre) do dân biểu Pierre Bas, đương kim Thị trưởng Quận VI thành phố Paris, làm chủ tịch. Với sự giúp đỡ của Ủy ban này, ngày 23-5-1987, chúng tôi cùng một số thân hữu như: cố Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, cựu Bộ trưởng Nguyễn Thạch Vân, cựu Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc, cựu Nghị sĩ Nguyễn Duy Tài, cựu Đại tá Mai Viết Triết v.v… tổ chức ở phòng Khánh Tiết Tòa Thị Sảnh Quận VI Paris. Cuốn Bạch thư của chúng tôi được chính thức đưa ra nhân dịp này và sau đó được chính thức gửi tới các Chính phủ Pháp, Hoa Kỳ, Anh và các nước đã cam kết bảo đảm sự thi hành Hiệp định Paris. Bạch thư còn được gửi tới ông Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc. Tham dư cuộc hội thảo ở Quận VI Paris, có tới 150 nhân vật cả Việt Nam lẫn ngoại quốc, trong số đó, có một vị luật sư Hoa Kỳ, phái viên kín của cựu Ngoại trưởng Henry Kissinger, tác giả của Hiệp định 27-1-1973.
Cuộc hội thảo ở Paris đã khiến cho ông Georges Mesmin phải chính thức đưa ra quan điểm đã trình bầy ở trên. Còn về phần Hoa Kỳ, tuy không chính thức trả lời chúng tôi những đã gián tiếp nói lên quan điểm qua bức thư Bộ Ngoại giao gửi hai luật gia Nguyễn Hữu Thống và Phạm Nam Sách.
Tóm lại, vấn đề trở lại Hiệp định Paris, coi như đã bị các đồng minh cũ của Việt Nam Cộng Hoà gạt bỏ hẳn”.
-Về chuyện tham gia Hiến Chương 2000 do ông Nguyễn Bá Long ở Canada khởi xướng. Đây là một chuyện rập khuôn theo Hiến chương 77 của kịch tác gia Václav Havel của Tiệp Khắc chứ không phải mới mẽ gì theo như “quảng cáo” của ông Tiến sĩ Nguyễn Bá Long. Ông giáo sư Nguyễn Bá Long, 4 năm trước đó đã hợp tác với ông Nguyễn Gia Kiểng của nhóm Thông Luận ở Pháp thành lập “Mặt Trận Dân Chủ” suy tôn “hung thần” Nguyễn Hộ ở trong nước lên làm Minh chủ để làm Tổng thư ký của tổ chức này; nhưng đã bị ông này “ị” từ trên đầu “ị” xuống; do đó, Nguyễn Bá Long để gỡ gạt uy tín đã xoay qua vụ “Hiến chương 2000” nhưng rồi cũng chẳng đi đến đâu, theo như nhận xét của giáo sư Vũ Quốc Thúc.
-Và ngay cả “sáng kiến” vận động quy chế trung lập cho VN nhân Hội nghị Thượng Đỉnh họp tại Hà Nội của giáo sư Vũ Quốc Thúc cho đến nay cũng chỉ là một “sáng kiến”.
Nói chung, tất cả những việc làm của giáo sư Vũ Quốc Thúc từ khi đến Pháp đến nay chẳng có việc làm nào cho ra đầu, ra đũa, nếu không muốn nói là chỉ có thất bại này tới thất bại khác; nhưng không ai đem chuyện thành bại mà luận anh hùng!
Nhưng tại sao “Thư ngỏ của 36 trí thức hải ngoại” mà ông có ký tên trong đó vừa mới đưa ra là lập tức “những âm thanh cuồng nộ” của dư luận bắt đầu nổi lên? Theo tôi, chính là vì những email qua lại giữa giáo sư Lê Xuân Khoa và giáo sư Vũ Quốc Thúc.
“Tôi rất mừng là bức thư
ngỏ đã được hoan nghinh ở quốc nội và nhất là đã tạo thành một biến cố truyền
thông: như vậy chúng ta đã đạt được mục tiêu. Rồi đây biến cố này sẽ thành một
sự kiện lịch sử, dù nhóm đương quyền phản ứng tích cực hay vô cảm cũng vậy.
Họ đã thất bại vì không ngờ là 36 người ở 6 nơi cách xa nhau hàng vạn kilomet đã có thể thỏa hiệp trong một thời gian thật ngắn ngủi để chung tên ký một văn kiện phức tạp. Âu cũng là vận nước đã tới lúc hưng thịnh!
Chính vì nhận định như vậy nên tôi không để ý tới những chỉ trích - đôi khi rất hạ cấp - của một số phần tử “chống cộng cực đoan”. Vô tình họ đã góp phần làm tăng thêm giá trị hành động của ta! Nếu chỉ muốn cầu an thì dại gì viết thư ngỏ như vậy!”
Họ đã thất bại vì không ngờ là 36 người ở 6 nơi cách xa nhau hàng vạn kilomet đã có thể thỏa hiệp trong một thời gian thật ngắn ngủi để chung tên ký một văn kiện phức tạp. Âu cũng là vận nước đã tới lúc hưng thịnh!
Chính vì nhận định như vậy nên tôi không để ý tới những chỉ trích - đôi khi rất hạ cấp - của một số phần tử “chống cộng cực đoan”. Vô tình họ đã góp phần làm tăng thêm giá trị hành động của ta! Nếu chỉ muốn cầu an thì dại gì viết thư ngỏ như vậy!”
Theo thiển ý của chúng tôi thì giáo sư Vũ Quốc Thúc đã tự vong thân vì những dòng chữ trong cái email bày tỏ sự “hồ hỡi, phấn khởi” về sự ra đời của “Thư ngỏ” là “vận nước đã đến hồi hưng thịnh” và những lời phê bình chỉ trích “Thư ngỏ” là của một số phần tử “chống Cộng cực đoan”.
*
Trong bài viết bênh vực
giáo sư Vũ Quốc Thúc về “Thư ngỏ”, ông Lê Quế Lâm có viết lại ý kiến của giáo
sư Vũ Quốc Thúc về bài viết “Đọc hồi ký Thời Đại Của Tôi của giáo sư Vũ
QuốcThúc để tìm hiểu đất nước, con người và lịch sử” của ông như sau:
“Tôi vô cùng cảm động
khi đọc bài bình luận của ông Lê Quế Lâm. Ông đã nói lên những điều mà tôi
không có khả năng diễn đạt một cách vừa chính xác, vừa cô đọng lại vẫn xúc
tích. Từ trước tôi vẫn khâm phục ông Lê Quế Lâm là một nhà nghiên cứu lịch sử
của VN có thể sánh với nhiều sử gia danh tiếng trên thế giới. Một lần nữa, ông
Lâm đã xác nhận sự thẩm định của tôi”.
Và ông Lê Quế Lâm viết tiếp:
“Đối với bài viết của
một người tầm thường như vậy, vị thầy của rất nhiều ông Tiến Sĩ lại hạ bút tự
nhận “có những điều mà mình
không có khả năng diễn đạt”. Điều đó nói lên “Tư cách lớn” của một vị tôn
sư, đã đào tạo biết bao nhân tài cho đất nước qua nhiều thế hệ. Ông quả là một
bậc chính nhân quân tử”.
Chuyện mặc áo thụng vái người đáng vái là chuyện thường tình. Chúng tôi không dám nghĩ giáo sư Vũ Quốc Thúc tự hạ mình xuống để được đưa lên cao một lần nữa!
Tôi tin nhận định của ông Lê Quế Lâm: giáo sư Vũ Quốc Thúc “quả là một bậc chính nhân quân tử!”. Do đó, tôi rất ngạc nhiên khi biết qua email giáo sư Vũ Quốc Thúc đã viết: "… tôi không để ý tới những chỉ trích - đôi khi rất hạ cấp - của một số phần tử ‘chống Cộng cực đoan’”.
Tôi không ngạc nhiên gì khi ông giáo sư Lê Xuân Khoa viết: “Tôi không bao giờ trả lời những luận điệu xuyên tạc và lời lẽ hạ cấp của những kẻ “hành nghề” chống Cộng như Ngô Kỷ ở Orange County, đã được đặt tên là “Chí Phèo Bolsa”.
Lý do rất dễ hiểu là bởi vì ông Lê Xuân Khoa “hành nghề” đối lập với ông Ngô Kỷ. Đó là “nghề kiss ass communist” dịch nôm na ra là “nghề bưng bô (Việt) Cộng”!
Giáo sư Vũ Quốc Thúc không thể dùng “ngôn ngữ” như ông Lê Xuân Khoa chê bai những người phê bình “Thư ngỏ” là những người “chống Cộng cực đoan”, là chỉ trích hạ cấp!
Chính vì những việc làm theo đuôi ông Lê Xuân Khoa mà một bậc tôn sư, một bậc chính nhân quân tử - như lời xưng tụng của ông Lê Quế Lâm - như giáo sư Vũ Quốc Thúc đã tự vong thân vào lúc cuối đời!
Tiếc thay!
NGUYỄN THIẾU NHẪN
tieng-dan-weekly.blogspot.com
tieng-dan-weekly.blogspot.com
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment