On Thursday, 28 November 2013 2:38 PM, Tran Ho <> wrote:
Tình thế nước Tầu!
Thế
giới Cộng Sản đã sụp đổ từ đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Hiện nay chỉ còn lại
có bốn nước: Tầu, Việt Nam, Bắc Tiều Tiên và Cuba.
Hai nước sau không đáng kể. Đáng suy nghĩ là chế độ Cộng Sản Bắc Kinh và Cộng
Sản Hà Nội. Trước sau gì hai quốc gia nầy cũng theo chân Đế Quốc Liên Xô, nhưng
cái nào đi trước, cái nào sau? Tầu trước hay Việt Nam Cộng Sản trước. Cái nào
trước sẽ có lợi cho dân tộc Việt Nam hơn. Hai chế độ nầy xong rồi thì Bắc Triều
Tiên, Cuba cũng “lặng lẽ theo sau”.
Tôi không đoán cái nào trước, nhưng nếu nói tới nguy cơ sụp đổ, người ta thấy
các chú Ba của Mao Xếnh Xáng đang gặp nhiều hiểm nghèo hơn.
1)- Trước hết là nói về người
Tầu. Có ai đó nói “mỗi người
Tầu là một ông quan” thì cũng không sai! Cá tính nầy rất dễ thấy, ngay ở
người Tầu tại nước ta. Khi được thế, họ lên mặt dữ lắm; khi thất thế thì cái
lưng họ còng cũng khéo.
Nguồn gốc của dân tộc Hán là ở phía Bắc Trung Hoa, thường gọi là
vùng Hoa Bắc, phía trên sông Dương Tử. Dân tộc nầy có thể có liên hệ nòi giống
đến các giống dân Mãn Châu hay Triều Tiên, không liên hệ gì đến Bách Việt, tức
một trăm giống Việt ở Hoa Nam, là vùng Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây bây giờ.
Đây là vùng Bách Việt, trước khi Tần Thủy Hoàng “tóm thâu lục quốc” (220 tr.
Tây Lịch), lập nên đế quốc Trung Hoa đầu tiên.
-Năm 214 trước Tây lịch, Tần Thủy Hoàng sai quân đánh
chiếm Bách Việt, nhưng thất bại, phải rút về.
-Năm 208 trước Tây lịch, Triệu Đà đánh bại Thục Phán,
chiếm đất Âu Lạc, lập ra nước Nam Việt. Nam Việt của Triệu Đà gồm các tỉnh vùng
Hoa Nam nói trên và vùng châu thổ sông Nhị Hà ngày nay.
Đến đời Cao Tổ nhà Hán, sau khi đánh bại nhà Tần, bèn
muốn tóm thâu đất Nam Việt của Triệu Đà. Nhà Triệu kháng cự. Mãi đến đời vua
cuối cùng nhà Triệu là Triệu Dương Vương mới bị Lộ-Bác-Đức của nhà Hán đánh thua
chạy. Cuối cùng, vua Triệu Dương Vương cùng với quan thái phó là Lữ Gia bị bắt
và bị giết hại cả. Người Lạc Việt bị Bắc thuộc lần thứ nhứt từ đó, năm 111 trước
Tây Lịch.
Sau khi
nước Tầu thống nhứt cả hai vùng Hoa Bắc và Hoa Nam, họ không chịu ở yên trong
cương giới của họ. Các triều đại tiếp nối về sau thường đem quân “chinh tây,
nam phạt” tức là xâm lăng các nước phía tây và nước ta ở phía nam.
Chỉ cần đọc văn chương nước ta, chúng ta cũng có thể thấy
điều đó. Độc giả có thể xem ở bài “Tân Cương trong văn chương Viêt Nam”,
cùng tác giả, in trong “Theo Dòng”, Văn Mới xuất bản.
2)-“Tây chinh, Nam Phạt”... “Đông tiến”?
Việc “tây chinh, nam phạt” của người Tầu thông
thường vì hai lý do chính:
-
Một là sau khi thống nhứt, giàu mạnh, nước Tầu cần mở rộng ảnh hưởng của họ sang
các nước chung quanh.
-
Thứ hai là để giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ của họ.
a)-
Việc xâm lăng của vua Quang Vũ và Hán Vũ Đế là trường hợp
thứ nhứt.
Sau
khi Quang Vũ lên ngôi, nhà vua cần chỉnh đốn việc nội trị, chưa muốn xâm lăng các
vùng phía tây. Vì vậy, chính sách của nhà vua với Hung Nô hòa bình là chính.
Bấy giờ, nội bộ Hung Nô cũng phân ly làm hai vùng nam, bắc. Cả hai vùng đều xin
thần phục nhà Hán.
Sau
khi nội chính đã vững, vua Quang Vũ âm mưu gây bất hòa giũa hai vùng nam, bắc, xây
đồn lũy dọc theo vùng biên giới giữa Hung Nô và Tầu.
Mặc
dù các “rợ” Hung Nô thần phục, nhưng Quang Vũ ra lệnh đóng các cửa ải, không cho
dân chúng hai xứ qua lại, vì nhà vua lúc đó chưa muốn dòm ngó ra phía tây.
Đời
Hán Vũ Đế, Trương Khiên là danh tướng, được lệnh đem quân đánh chiếm các vùng phía
tây, ổn định “Tây vực”, kế đến vùng Trung Á, mở ra “Con đường lụa”, (còn
có tên gọi là “Cong Đường Hồ Tiêu”) bắt đầu từ Bắc Kinh, Phúc Châu, Hàng
Châu vượt qua Tân Cương, Mông Cổ, phía Bắc Ấn Độ, qua Afghanistan, Iran, Ai
cập, Thổ Nhĩ Kỳ, tới Hy Lạp, Châu Âu. Hàng hóa giao thương giữa hai bên là tơ
lụa, hồ tiêu (của Tầu) và vàng bạc (của Tây phương).
Nhà
Hán rất mạnh về quân sự. Ngoài việc xâm lăng hướng tây, nhà Hán còn sai Mã Viện
đánh phá quân hai bà Trưng. Sau khi hai bà tự vẫn năm 43 sau Tây lịch, Nam Việt
lại bị Bắc thuộc lần thứ hai.
b)-
Một lý do khác để người Tầu đem quân xâm lăng các nước khác là
vì họ muốn giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ của họ.
Đó
cũng là lý do chính gây ra chiến tranh giữa nhà Tống bên Tầu và nhà Lý nước ta hồi
thế kỷ thứ 11.
Theo
sử Tầu thì năm 1075, lần thứ hai, Vương An Thạch được vua nhà Tống gọi về triều
làm tể tướng.
Vương
An Thạch là người có nhiều sáng kiến, đưa ra nhiều chính sách cai trị mới, gọi là
“Tân Pháp” nhưng những chính sách của ông bị các quan trong triều và dân chúng
chống đối dữ dội.
Để
ổn định tình thế nhà Tống lúc đó, Vương An Thạch chủ trương xâm lăng Đại Việt.
Nếu
thắng lợi, nhờ đó, nội bộ nước Tầu sẽ yên, việc chống đối của các quan trong triều
cũng như dân chúng đối với “Tân Pháp” của Vương An Thạch sẽ bớt đi.
Biết
được ý đồ xâm lăng của Tầu, Lý Thường Kiệt đem quân đánh nước Tầu trước (“Tiên hạ
thủ vi cường”)
Năm
1075, Lý Thường Kiệt cùng Tôn Đản đem quân đánh chiếm Khâm Châu và Liêm Châu. Quan
quân nhà Tống không chống lại được phải xin viện binh.
Sau
đó, quân nhà Lý tiến lên chiếm Ung Châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giám cùng với 2.800 quân cương
quyết cố thủ.
Cuối
cùng thành đổ, Tô Giám tự tử, 58 ngàn người trong thành Ung Châu bị giết sạch.
Năm
sau, 1076, vua Tống sai Quách Quỳ đem một trăm ngàn quân cùng voi ngựa sang xâm
lăng Đại Việt để trả thù. Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến sông Như Nguyệt, chận đường
tiến của quân Tống.
Quân Tống tiến không được, thoái không xong, hao mòn vì
chiến sự và khí hậu, không được thủy quân tiếp viện. Quân Nam lại tập kích,
Quân Tống 10 phần chết đến 6, 7.
Lý Thường Kiệt biết tình thế quân Tống đã lâm vào thế bí,
mà người Nam bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn thất, nên sai sứ sang xin “nghị hoà” để quân Tống rút về. Quách Quỳ vội chấp
nhận giảng hòa và rút quân. Triều thần nhà Tống cho rằng “Cũng may mà lúc đó địch lại xin giảng hòa, không thì chưa biết làm thế nào”.
Hiện
nay, Tầu Cộng cũng hung hăng dữ: Vạch đường lưỡi bò 9 đoạn, giành lấy biển Đông
của ta, cho là của Tầu, và giành quần đảo Điếu Ngư với Nhật.
Tầu
muốn gì đây?
Muốn
như đời Quang Vũ, mạnh lên thì giành đất, giành biển của người khác, hay cũng
chỉ là một phương cách như Vương An Thạch đời Tống, chẳng qua nội bộ lộn xộn,
tranh giành nhau. Hễ thắng thì nội bộ yên, hễ thua thì nội bộ hỗn loạn.
Dĩ
nhiên, nếu Tầu Cộng bây giờ đang ở trường hợp sau, thì cũng “khỏe” cho nước ta
lắm, như đời nhà Lý vậy!
c)-
Đông Tiến
Đời
Minh, Trịnh Hòa được lệnh “tuần thám” phương Đông, Đông Nam, đến tận Ấn Độ và Úc
châu. Theo sử, Trịnh Hòa vượt qua eo biển
Malacca vào thế kỷ 15. Đời Minh Tuyên
Tông, Trịnh Hòa cũng đã thực hiện
một chuyến đi nữa, nhưng sau đó những chuyến đi tìm của cải của người Tầu chấm dứt.
Những khu vực ở châu Á và châu Phi mà Trịnh Hòa đã đến, bao gồm: Đông Nam Á, Sumatra,
Java, Tích Lan, Ấn Độ, Ba Tư và bán đảo Ả-Rập, Hồng Hải và Ai Cập, Mozambique ở
châu Phi, Đài Loan và bắc nước Úc.
3)- Mạnh được yếu
thua!
Lịch sử nhân loại cho ta thấy những nước lớn, những nước mạnh thường ăn hiếp,
xâm lăng, chiếm đoạt đất đai tài sản những nước yếu, nước nhỏ. Việc hiếp đáp đó
không chỉ xảy ra một lần mà nhiều lần, hết đời nầy tới đời khác, tạo nên những mối
thù truyền kiếp. Các dân tộc nhỏ yếu bị hiếp đáp không bao giờ quên.
Đó là trường hợp nước Nga với các nước chung quanh như Ba Lan, Ukraine, các
nước trung Á như Uzbekistan, Kazakstan, v.v... Đó cũng là trường hợp nước Tầu
với các dân tộc chung quanh như Tân Cương, Tây Tạng, Mãn Châu, Triều Tiên, Việt
Nam, v.v...
Sau khi Liên Xô sụp đổ, Ba Lan lật đổ chế độ Công Sản bù nhìn của Liên Xô, dân
Ba Lan đập phá khu nghĩa địa dành cho “Hồng Quân Liên Xô” làm “nghĩa
vụ quốc tế” đã “hy sinh” ở Ba Lan. Ấy là cách người ta muốn nói lên mối thù
truyền kiếp của người dân Ba Lan với nước Nga.
Liệu người Việt Nam có mối thù đó với nước Tầu hay không, mối thù “một ngàn
năm nô lệ giặc Tầu,...” như trong bài hát “Gia Tài của Mẹ” của Trịnh
Công Sơn!
Bách Việt, ngoại trừ Lạc
Việt, đều bị Hán hóa.
4)- Quyền lợi
Dĩ nhiên, khi đem quân xâm lăng các nước chung quanh, người Tầu vì quyền lợi
của họ.
Có
3 điều đáng nói:
Thứ
nhứt, họ muốn cai trị và bóc lột dân tộc các nước
chung quanh, đem lợi về cho đất nước của họ như thu thuế: Thuế người (thuế
thân), thuế đất ruộng, thuế dâu tằm, lụa là vải vóc, thuế muối, thuế ao hồ sông
biển, v.v... Việc sưu dịch, theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim thì “Phàm
những chỗ nào có mỏ vàng, mỏ bạc, thì đặt quan ra để đốc dân phu đi khai mỏ.
Những chỗ rừng núi thì bắt dân phu đi tìm ngà voi, sừng tê; ở chỗ gần bể thì
bắt dân phu đi mò ngọc trai. Còn những thổ sản như hồ tiêu, hương liệu cũng bắt
cống nộp. Đến những hươu, voi, rùa, chim, vượn rắn, cái gì cũng vơ vét đem về
Tầu.”
Trên là nói cách bóc lột của nhà Minh, trước khi Lê Lợi khởi nghĩa. Ngày nay,
tình hình sẽ khác đi chăng?
Những sự kiện như ngư phủ Việt Nam bị đánh phá, giết chóc ngoài biển Đông, việc
bán đất bán rừng cho Tầu, hay vụ “bô-xít” ở Cao nguyên làm cho chúng ta thấy
người Tầu ngày nay cũng tham lam và độc ác như người Tầu ngày xưa vậy.
Người
Tầu ngày xưa phong kiến tham lam và độc ác.
Người
Tầu Cộng Sản ngày nay không những cũng tham lam độc ác mà còn triệt để
hơn.
Tham
lam cũng triệt để, độc ác cũng triệt để nên người Việt nào còn
sống sót được thì cũng chỉ còn cái khố che thân mà thôi.
Nước Tầu bây giờ đang phát triển nên họ cần nhiều thứ: Dầu lửa là trước nhứt.
Không những họ khai thác dầu lửa và than đá ở lục địa mà còn dòm ngó sang các
mỏ dầu hỏa ở Trung Á.
Ở
Kazakstan chẳng hạn, người Tầu đang lấy dầu rất mạnh ở đây. Người Tầu, xe cộ của
Tầu xuất hiện nhiều nơi, thậm chí ở đó, các bảng chỉ đường phải viết bằng hai
thứ tiếng: Tiếng địa phương và tiếng Tầu.
Vùng Trung Á là đất đời Vũ Đế nhà Hán xâm chiếm. Đó là theo cách nghĩ của họ,
vì thời đó, chính Trương Khiên đã đem quân đánh phá vùng nầy, mở rộng và giữ an
toàn cho “con đường lụa”. Những năm Liên Xô vững mạnh, người Tầu đành chịu mất
vùng nầy, thuộc “Liên Bang Xô-Viết”. Nay Tầu cố giành lại quyền lợi đã mất,
nhứt là các mỏ dầu lửa ở đây.
Người
Tầu còn cần nhiều tài nguyên của các nước khác, kể cả đất đai để trồng trọt, như
hợp tác sản xuất nông phẩm ở Argentia và một số nước ở châu Phi. Ở châu
lục nầy, người Tầu đang khai thác cả nông nghiệp lẫn dầu lửa.
Thứ
hai, nói cho đúng thì việc mở rộng của người Tầu,
nếu không xét bình diện cai trị và bóc lột thì cũng có lợi cho việc giao thương
của thế giới, như sự ích lợi của “Con đường lụa” ngày trước vậy.
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, chính sách ngoại giao của Tầu không có gì
tốt đẹp cả. Người ta từng gọi chính sách của Tầu bây giờ là “hung hăng trong
ngoại giao”. Chính sách nầy chậm chạp và vụng về, không phản ứng kịp với
những biến chuyển của thế giới vì người Tầu quá thực dụng, chỉ nhắm vào lợi ích
trước mắt!
Thứ
ba, tương đối tốt là muốn mở rộng việc giao
thương, “hai bên cùng có lợi”.
Tuy
nhiên, người ta cũng nghi ngờ Tầu, cho rằng Tầu chỉ “hô khẩu hiệu”. Đã “hô khẩu
hiệu” thì không mấy khi thực lòng. Trong chiều hướng thứ ba nầy, người Tầu cũng
dùng nhiều thủ đoạn về tiền tệ, về hàng hóa giá rẻ, thiếu phẩm chất để kiếm lợi.
Cung cách giao thiệp như
vậy khó có thể tồn tại lâu dài. Đó là cái khó khăn trong tương lai của Tầu.
5)- Mâu thuẫn nội
bộ
Chính
người Tầu mới là tác giả câu “Được làm vua thua làm giặc”. Từ ý nghĩa
đó, người Tầu nào cũng nghĩ rằng họ có thể làm vua, dù họ xuất thân là người
bình thường, nông dân ít học. Gặp cơ may, cờ tới tay thì họ phất cờ.
Ba
anh em Lưu-Quan-Trương gốc gác là gì? Lưu Bị là anh học trò dang dở, thất chí,
chỉ là một “anh chàng” “Du tử mộ hà chi?” (Xem “Du tử mộ hà chi?” cùng
tác giả). Gần ba mươi tuổi, cái tuổi “tam thập nhi lập” như Khổng Tử nói, ông
ta vẫn chưa có sự nghiệp gì. Trương Phi là tay con nhà mổ heo, bán rượu, còn
Vân Trường là tay giang hồ thất chí bấy lâu nay. Ba tay nầy kết nghĩa Vườn Đào
mà lật nghiêng thiên hạ. Ấy là “Thời thế tạo anh hùng”.
Biết
cái tâm lý người Tầu ai cũng muốn làm vua nên các ông vua Tàu bao giờ cũng
ngơm ngớp lo sợ bị tranh mất ngai vàng, mới tuyên truyền rằng ai được ngồi trên
ngai là phải có “Thiên mệnh”. Không có “Thiên mệnh” thì không được làm vua. Nói
như thế là để ngăn chặn bớt cái ham muốn làm vua của thiên hạ.
Thành ra lịch sử nước Tầu là lịch sử “tranh bá đồ vương”, giặc giả khi
nhiều khi ít, thanh bình thì không. Câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm “Nước thanh
bình ba trăm năm cũ” là ý nói đời nhà Hán thiên hạ thái bình được ba trăm
năm. Đó chỉ là một cách nói “vuốt đuôi” vua chúa, chớ bên Tầu không khi nào
thiên hạ thái bình được lâu.
Các triều đại cai trị nước Tầu lâu nhứt là Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh.
Trong các triều đại nầy, có cái thì người Tầu cai trị người Tầu,
có cái thì ngoại nhân cai trị người Tầu.
Tổ tiên nhà Đường là người Địch Đạo, Lũng Tây, thuộc tỉnh Cam Túc. Cam Túc ở về
phía Tây lục địa Trung Hoa, là vùng sa mạc, có nhiều “rợ” (mọi rợ). Vậy nhưng
nhà Đường cai trị nước Tàu ba trăm năm (618-907).
Ai
cũng biết nhà Nguyên bên Tầu là người Mông Cổ. Hoàng Đế Mông Cổ là Thành Cát Tư
Hãn liên minh với người Duy-Ngô-Nhĩ xâm lăng Trung Hoa mà lập ra nhà Nguyên. Đối
với người Tầu, hoàng đế nầy cũng là một thứ “mọi rợ”. Nhưng rợ nầy cai trị dân Tàu
gần một trăm năm (1271-1368).
Nhà
Thanh cũng là một thứ “rợ”. “Rợ” nầy cai trị Trung Hoa một thời gian không ngắn
(1636-1912), gần 300 năm.
Dĩ nhiên người Tầu không giỏi. Giỏi thì đâu để cho ngoại nhân cai trị lâu như
thế.
Nước
Tầu, từ khi Tần Thủy Hoàng “nhất thống thiên hạ”
mà lập ra “Đế Quốc
Tầu” năm 202 Trước Tây Lịch, tính đến nay là hơn hai ngàn năm. Qua đó, ngoại
nhân cai trị nước Tầu hết bao nhiêu năm? Thời kỳ cai trị của nhà Đường (618-907),
nhà Nguyên (1271-1368), nhà Thanh (1636-1912) cộng chung đã
gần ngàn năm. Nếu cộng thêm vào những thời kỳ loạn lạc, phân tranh như thời Tam
Quốc (220-280) thì nước Tầu thanh bình có được bao lâu đâu!
Các
thời đại như vừa nói, đâu có phải xa xưa gì đâu.
Đầu
thế kỷ 20, người Thanh còn ngồi trên đầu người Tầu. Phải nhờ tới tư tưởng văn
minh của Tây Âu, với “Thế Kỷ Ánh Sáng”, người Tầu mới sáng mắt ra, mới có cuộc
“Cách Mạng Tân Hợi”, đuổi vị vua cuối cùng nhà Thanh là Phổ Nghi về lại phía
Bắc.
Có một điều tréo cẳng ngổng, rất buồn cười. Nước Tầu thì “trọng Nam khinh Nữ”
nhưng trong lịch sử “loạn lạc” của Tầu thì đàn bà Tầu không phải tay vừa.
Vì
Dương Quí Phi dâm loạn mà sinh ra cái loạn An-Lộc-Sơn, đến nỗi Đường Minh Hoàng
phải cho thắt cổ Dương Quí Phi ở Mã Ngôi để làm yên lòng binh sĩ, bảo vệ vua mà
chống lại An Lộc Sơn, giành lại giang sơn cho nhà Đường. Võ Tắc Thiên không
chịu làm hoàng hậu, thái hậu mà phải làm “hoàng đế”, gây nên lắm cảnh xáo trộn
ở nước Tầu.
Còn
như vai trò Trần Viên Viên trong lịch sử nhà Thanh xâm lăng Trung Hoa cũng
không thiếu nước mắt. Ngô Tam Quế được lệnh trấn giữ Sơn Hải Quan, là một cửa
ải quan trọng trên Vạn Lý Trường Thành, ngăn không cho quân Thanh xâm lăng Tầu.
Ngô Tam Quế để người “thiếp yêu” là Trần Viên Viên ở lại Trường An.
Lý Tự Thành lật đổ vua nhà Minh. Nhân đó, một tướng của Lý Tự Thành “cướp” mất
Trần Viên Viên của Ngô Tam Quế. Tức giận vì mất người thiếp yêu, Ngô Tam Quế
bèn mở cửa Sơn Hải Quan cho quân Thanh tiến vào Trung Hoa. Sự nghiệp nhà Thanh
bắt đầu từ đó.
Bên Tầu, Tứ Đại Mỹ Nhân, thật ra “tứ quái”, làm thay đổi cục diện nước Tầu,
đúng như câu “Triết phu thành thành, triết phụ khuynh thành”.
Cái
sắc đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” làm cho nước Tầu loạn lạc: Tây Thi
làm cho Ngô Phù Sai mất nước Ngô. Muốn được yên thì vua Hán phải đem Chiêu Quân
“hối lộ” cho Hồ Hàn Tà, vua Hung Nô. Nhờ Điêu Thuyền mà Lữ Bố giết Đổng Trác,
tức là con giết cha nuôi, còn nhân vật thứ tư, Dương Quí Phi thì đã nói ở trên
rồi.
Đã biết Dương Quí Phi là người dâm loạn như thế, lấy chồng, lấy cha chồng,
ngoại tình… Vậy mà ngày nay người Tầu vẫn dựng tượng Dương Quí Phi ở Tây An. Để
ca ngợi hay thờ phụng cái gì? Ca ngợi một “Sắc đẹp” hay thờ phụng “Dâm thần”.
Có cái chi mà người Tầu không làm?
6)- Người
Tầu: Nói và Làm?
Người Tây phương khác
với người Tầu ở chỗ Nói và Làm. Người
Tây
phương có nói và có làm.
Người
Tầu thì luôn luôn kêu gọi “Tri hành hợp nhất”, nhưng nói thì như thế nầy
mà làm thì ngược lại thế kia. Điều rõ nhứt là những quan điểm như Tự Do, Dân
Chủ, Bình Đẳng, Nhân Quyền, Bác Ái, v.v... Người Tầu họ có nói, nhưng thực hiện
những tư tưởng đó vào xã hội Tầu thì chưa từng thấy bao giờ, nói chi tới việc
họ đem những cái hay đẹp ấy mà thực hiện ở các nước chung quanh.
Dẫn chứng:
Người Âu Mỹ có những tư tưởng tiến bộ về Tự Do, Bình Đẳng Bác Ái. Rồi họ biến
những tư tưởng ấy thành hiện thực trong đời sống chính trị, xã hội ở nước họ.
Cuộc Cách Mạng Mỹ năm 1776 là cuộc cách mạng thực hiện những tư tưởng đó, nên
nước Mỹ mới được như ngày nay. Điều buồn cười là những tư tưởng nói trên đơm
hoa kết trái ở Pháp, nhưng lại diễn ra ở Mỹ trước, và phải 13 năm sau (1789)
mới có cuộc “Cách Mạng Tư Sản Dân Quyền” bùng nổ ở Pháp. Người Pháp thì
nghĩ ra mà người Mỹ thì làm trước. Dù sao thì ngày nay, hầu hết các nước Âu Mỹ,
dù là những nước Đông Âu từng bị Cộng Sản Nga cai trị lâu dài, tại những nước
đó cũng đã có Tự Do, Dân Chủ...rồi.
Người Tầu “văn minh” trước người Tây Phương rất lâu.
Thời
Xuân Thu (722-481 trước Tây lịch), Khổng Tử (Tr. Tây Lịch 551-479) đã có những tư
tưởng mà ngày nay Tây Phương rất khâm phục: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”
(Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác). Giả dụ như khi
mình không muốn bị ai bóc lột thì mình đừng bóc lột người khác. Mình không muốn
bị ai khinh khi thì đừng khinh khi người khác. Mình không muốn bị tước đoạt tự
do thì đừng tước đoạt tự do người khác... Cứ như thế mà suy thì rõ ràng trong
câu nói của Khổng Tử có đủ những tư tưởng về Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái mà người
Tây phương thường tượng trưng bằng ba mầu Xanh, Trắng, Đỏ, như trên lá cờ của
nước Pháp.
Vậy
thì từ trước Công Nguyên, tư tưởng của Khổng Tử (hay của văn minh Trung Hoa?)
đã hay lắm. Bên cạnh Khổng Tử, còn có Mạnh Tử, Mặc Địch, v.v... có những thuyết
“Tính thiện” hay “Kiêm ái” đều hay cả.
Ở xã hội Tầu, tư tưởng hay của Khổng Tử không bao giờ thành hiện thực.
Người Tầu vừa tham lam, ích kỷ, vừa hèn nhát mà lại rất tàn bạo. Có lần Lỗ Tấn
(1) ví von: “Người Tầu hèn nhát như con thỏ đế, quỷ quyệt như con hồ ly, tàn
ác như sư tử”.
Khởi thủy nền văn minh Tầu là “Văn minh ăn thịt người”.
Darwin nói rằng
ăn thịt người là mức độ thấp nhất của sự tiến hóa. Khi nhân
loại đã tiến hóa thì không còn ăn thịt người
nữa.
Lỗ
Tấn tán dương tư tưởng đó của Darwin, và dùng tư tưởng đó để nhận xét về lịch
sử nước Tầu, lịch sử đó cũng bắt đầu bằng ba chữ “ăn thịt người”, dưới
những danh từ Nhân Nghĩa, Đạo Đức của Khổng Tử. Cái giả trá của xã hội Tầu bị Lỗ Tấn tố giác bằng học thuyết Darwin.
Đã văn minh thì không còn ăn thịt người, nhưng từ xưa cho tới nay, xã hội Tầu
vẫn còn “ăn thịt người” dài
dài.
Thực
ra, Lỗ Tấn rất băn khoăn về dân tộc của ông. Ông muốn dùng thuyết Darwin để đánh
thức người Tầu. Ông muốn chính họ cứu họ, bởi vì theo Lỗ Tấn
suy nghĩ, chính người Tầu là kẻ thù tệ hại nhất của chính họ, chớ không
phải ai khác.
Lỗ Tấn
mượn thuyết tiến hóa là mượn cái vỏ
Darwin để nói đến những vấn đề Trung Quốc. Ông muốn “tấn công vào cái vỏ, cái đạo đức giả để che đậy cái tàn
ác và tham lam, sự ngây thơ nhưng ngu dốt che đậy việc giết người, mê tín, tự tử. Ông tấn công
kịch liệt vào bậc chính nhân quân tử bởi vì họ không phải như
vậy”.
Cho
tới tận bây giờ, trong những bữa ăn nhậu của người Tầu giàu sang vẫn còn có cả thai
nhi, thịt trẻ con, v.v... cộng thêm với sừng tê, rượu bổ.
Những
món gì người Tàu cho là bồi bổ sức khỏe, làm gia tăng sự dâm dục, thụ hưởng sự
khoái lạc thì người Tầu không chừa bao giờ!
Sao
mà kinh khiếp thế?
Quan
điểm sống thụ hưởng như thế thì xã hội Tầu làm gì có Tự do, Dân Chủ, Bác Ái. Người
ta khó tìm việc làm có điều Nhân của Khổng Tử trong xã hội Tầu.
Năm
1935, khi Thụy Điển trao giải Nobel cho Carl von Ossietzky, Hitler phẫn nộ và cấm
công dân Đức nhận bất kỳ giải Nobel nào. Gần một trăm năm sau, Lưu Hiểu Ba của
Tầu cũng không được cho đi nhận giải Nobel. Việc ngăn cấm ấy chấm dứt ở Đức đã
lâu. Bao giờ thì nước Tầu sẽ không còn sự cấm cản ấy, hay sẽ không bao giờ xảy
ra cả.
Một đất nước mà dân chúng có tinh thần như vậy thì giặc giả không bao giờ dứt
cũng không có gì là lạ. Nếu nói tới Thống Nhất thì nước Tầu không bao giờ Thống
Nhất trong Tự Do, Dân Chủ mà chỉ là thống nhất dưới bạo lực. Hết bạo
lực, nước Tầu sẽ tan rã như ổ bánh mì gặp trận mưa rào.
7)- Giàu nghèo
là
mâu thuẫn muôn đời của người Tầu.
Nghèo
là hiện tượng xảy ra trên nhiều vùng địa cầu.
Tầu
thì khác. Giàu nghèo là hai thái cực đối nghịch đến cùng cực. Nó có nghĩa là
người giàu thì quá giàu, “nứt đố đổ vách”; người nghèo thì quá nghèo, nghèo mặt
rệp, nghèo rớt mồng tơi.
Tôi có quen vài gia đình người Tầu ở Chợ Lớn. Lúc ấy, trước 1975, họ làm ăn đã
khá giả, nhưng đến bữa ăn, dù đầy đủ thịt cá, cơm trắng, canh ngọt như thế nào,
khi ăn xong, mỗi người cũng ăn một chén cháo trắng to nhỏ tùy người. Tại sao ăn
cháo trắng? Một ông Tầu già giải thích vớí tôi: “Phải ăn chén cháo để nhớ lúc
hàn vi, không đủ gạo phải nấu cháo để mỗi người được một tô”. Đó là một sự
giáo dục đấy, nhắc nhở người ta đừng bao giò quên lúc nghèo khổ. Dĩ nhiên, việc
ấy có nhiều ý nghĩa hay, khỏi nhắc lại dông dài. Nhưng thực ra, bọn trẻ Tầu ở
Chợ Lớn, có ăn chén cháo, thì việc ấy chúng coi như một thói quen, tập tục mà
chúng không hiểu ý nghĩa gì cả.
Tuy nhiên, vấn đề không phải là nghèo. Chính yếu là mâu thuẫn giàu nghèo.
Không như ta, chế độ cũ của ta là Chế Độ Quân Chủ. Có khi
người ta gọi là Quân Chủ Chuyên Chế.
Tầu
mới đích thực là Chế Độ Phong Kiến (Phong tước kiến địa).
Chế độ nầy tạo ra các lãnh chúa, các lãnh địa. Từ đó, người thì có nhiều
ruộng, người thì không có miếng đất cắm dùi. Kinh tế chính của Tầu là
nông nghiệp, dân đông đất ít, sự phân chia đất ruộng không đồng đều tạo nên
hoàn cảnh người quá giàu vì có nhiều ruộng, người quá nghèo vì không có ruộng,
phải làm tá điền, bị người giàu bóc lột.
Sự phân chia lợi ích như thế làm cho kinh tế không phát triển được. Trong tình
cảnh như thế, nước Tầu làm sao tránh bất công, tránh mâu thuẫn, và dĩ nhiên là
phải loạn lạc.
8)- Tham vọng
người Tầu: Phục hận
Tâm lý người Tầu bây giờ là “phục hận”. Tâm lý nầy do Cộng Sản Tầu tiêm nhiễm
cho dân tộc của họ, nhất là trong giới trẻ, qua giáo dục và tuyên truyền.
Họ cho rằng mấy thế kỷ nay, các đế quốc tư bản Tây Phương đã cướp đoạt hầu hết
tài nguyên ở nhiều nơi trên thế giới, như dầu lửa, mỏ đồng, mỏ vàng, mỏ kim
cương, bô-xít, v.v… kể luôn cả nhửng động vật, thực vật quí hiếm.
Nay đến lúc người Tầu phải “lấy lại”. Lấy lại cho chính người Tầu chứ không
phải cho các dân tộc đã bị Tây phương bóc lột trước kia.
Người Tầu cũng muốn làm như các đế quốc Âu Mỹ đã làm, làm nhiều hơn thế để bù
lại những “thua thiệt” mà họ đã gánh chịu trong gần 200 năm qua.
Vì
vậy, trong giáo dục và tuyên truyền, nhà nước Tầu cố gây tâm lý thù hận và giành
giựt với Tây phương trong tầng lớp trẻ ở nước họ, cố làm cho số người trẻ nầy
cứ nghĩ rằng họ phải lấy lại những gì mà Âu-Mỹ đã lấy trước đây, ở trong nội
địa nước Tầu hay trên khắp thế giới.
Trong cách nhìn đó, cũng như trong cách làm, và cả trong mối hận thua thiệt
đó, người Tầu cố gắng bành trướng, giống con cóc muốn to bằng con bò như
trong truyện ngụ ngôn của LaFontaine. Bao giờ thì bụng con cóc sẽ nổ
bùng, như mọi người suy nghĩ như thế!
Vì vậy, chúng ta thấy người Tầu có những hành động cướp giật rất kỳ quái, ngang
ngược.
Biển
Đông của ta là một ví dụ. Vùng nầy, từ trước,
được coi là vùng “hải phận quốc tế”, không ai có chủ quyền. Bỗng nay, họ đem
cái “lưỡi bò” đâu từ hồi cố hỉ nào đó ra, và tuyên bố rằng vùng biển đó là của
họ. Và đem súng đạn bắn giết và cướp phá ngư phủ của ta.
Đài Loan là ví dụ thứ hai. Đài Loan là một đảo, có dân tộc bản
địa của họ. Người Đài Loan tự gọi họ là Taiwanese, không gọi là Chinese.
Thật ra, người Chinese ở vùng Hoa Nam trong lục địa Tầu, cũng không phải là
người Hán. Họ thuộc 99 dân tộc Việt đã bị “Hán hóa”. Người Đài Loan, ở ngoài
đảo cách biệt đất liền, chưa bao giờ bị “Hán hóa” để thành người Tầu cả. Cũng
có khi Tầu, và cả Nhật đã cai trị Đài Loan, nhưng mãi đến khi Tưởng Giới Thạch
bị Mao đuổi chạy ra Đài Loan, số “người Tầu lục địa” ở đây mới đông
thêm. Tuy nhiên, các tay lãnh đạo Tầu Cộng ngồi ở Trung Nam Hải vẫn cứ cho rằng
Đài Loan là “một tỉnh của Tầu”, thường đe dọa sẽ đem quân đánh chiếm.
Người
Tầu, như con sư tử sau một giấc ngủ dài, khi “thức tỉnh”, “mở mắt ra”, nhìn
chung quanh thấy cái gì cũng là “của mình” cả. Cả thế giới nầy đều là Tầu cả,
chẳng là của một dân tộc nào khác. Cao Ly lo giữ mặt Bắc, Việt Nam lo giữ mặt
Nam. Nội Mông, Tân Cương lo giữ mặt Tây, Tây Tạng giữ mặt Tây-Nam, còn Trung
Quốc ở giữa “ăn ngủ”.
Do
địa hình như thế, người Tầu rất sảng khoái, tự mãn khi tự gọi họ là
Trung Quốc.
Những
người sợ Tầu, kính nể người Tầu như Hồ Chí Minh, cấm không cho đảng viên
Việt Cộng gọi Tầu là Tầu mà phải gọi một cách kính cẩn là Trung Quốc,
có khi là Trung Quốc Vĩ Đại.
Một
số người Việt Hải ngoại, một số đài truyền thanh truyền hình người Việt Hải
Ngoại, cũng “nghe lời bác Hồ dạy”, cũng gọi Tầu là Trung Quốc.
Không tin, độc giả cứ mở đài ra mà nghe, mà xem.
Bây giờ thì người Tầu tự xem mình như là con cua. Hai cái
càng Bắc Triều Tiên và Cộng Sản Việt Nam ngo ngoe bảo vệ cho con cua Tầu. Con
cua nầy có cái đuôi, muốn mở đường ra Ấn Độ Dương, không cần phải đi ngang eo
biển Malacca, bằng cách cai trị nước Miến Điện. May cho dân Miến. Cái đuôi nầy
đã bị chặt đứt, sau khi tướng Thein Sein thả bà Aung Sang Suu
Kyi ra khỏi “tù giam lỏng”.
Người
Tầu cho rằng, sau nầy, cả thế giới, khắp mặt địa cầu, tất cả đều là của Tầu,
người Tầu.
Với
dân số hiện tại, 1 tỷ 400 triệu người, trên một diện tích 9 triệu rưởi km2, nạn
nhân mãn không thể tránh được. Trong khi đó, Hoa kỳ có diện tích lớn hơn Tầu
chút ít, 9 triệu 800 ngàn km2, dân số chỉ có 300 triệu. So ra thì người Tầu
đông hơn gần 1 tỷ người. Do đó, để “sống được”, người Tầu sẽ lấy đất của Mỹ để
cho người Tầu sang sinh sống.
Lấy đất Mỹ bằng
cách nào?
Bằng
cách nào mà nhà cửa xe cộ, đường sá, phố phường còn y nguyên, nhưng người Mỹ
thì chết hết.
Có
người hỏi: Vậy 7 triệu người Tầu hiện sống trên đất Mỹ thì sao? Cho chết luôn.
“Hy sinh” 7 triệu người Tầu trên đất Mỹ để “cứu” 1 tỷ 400 triệu người Tầu lục
địa thì cái giá còn rẻ chán. Tại sao người Tầu không làm được?
Lãnh
thổ Mỹ là thích hợp với người Tầu nhứt. Rộng xấp xỉ nhau, vĩ độ cũng xấp xỉ
nhau, khí hậu cũng giống nhau, còn nơi nào “lý tưởng” bằng!
Vậy
người Tầu tiêu diệt người Mỹ bằng cách nào để di cư sang Mỹ: Không dùng nguyên
tử, môi sinh sẽ bị nhiễm, không ở được. Chiến tranh hóa học là phương cách
“hay” nhất. Người Mỹ sẽ chết hết vì chất hóa học của Tầu.
Phương
cách đầu độc người Mỹ như thế nào thì người Tầu … chưa nghĩ ra. Họ chỉ mới
thấy con đường muốn đi thì phải như thế thôi, còn cách
làm thì đang… nghiên cứu.
Thế
nào cũng làm được. Người Tầu tin như thế!
9)- Ba vùng địa lý
kinh tế
Quyền
lợi không quân bình giữa các vùng địa lý kinh tế, giữa các nông dân, giàu
nghèo, no đói thường do địa lý kinh tế mà ra. Về mặt nầy, người ta thấy nước
Tầu có 3 khu vực khác nhau:
a)-
Khu đồng bằng phía đông là
lưu vực các sông, nhất là sông Dương Tử. Người Tầu thường gọi sông nầy là phúc
thần.
So
với thế giới, nhất là khi so với lưu vực đồng bằng sông Mississippi và Missouri
(4.300.000Km2) thì đồng bằng sông Dương Tử và Hoàng Hà (2.552.
000Km2) còn thua xa. Tuy nhiên, khu vực nầy cũng tạm đủ cho
người Tầu sản xuất được hơn 60% sản lượng toàn nước Tầu.
Dân
chúng, phần đông được gọi là người Tầu mà Hán tộc là chính, tương đối có cơm ăn
áo mặc, có thiếu thốn nhưng chưa quá tệ như khu vực thứ hai.
b)-
Khu vực thứ hai bao gồm vùng phía trong,
thường gọi là nội địa, lớn nhất là Thiểm Tây và Tứ Xuyên, sa mạc, thảo nguyên,
đất khô cằn, khó trồng trọt, dân chúng nghèo đói...
Vì
nghèo đói nên trong lịch sử nước Tầu, các cuộc nổi loạn đều do từ vùng nầy mà
ra. Khi thất thế, để tránh khỏi bị hoàn toàn tiêu diệt, các phe yếu kém cũng
rút về cố thủ nơi đây. Đó là trường hợp Lưu Bị khi về đất Ba Thục, cũng như Mao
chạy về Diên An, thuộc Thiểm Tây.
c)- Khu thứ ba: Khu vực các giống “rợ” (tiếng của người
Tầu) là những dân tộc định cư ở phía Bắc, Tây Bắc của nước Tầu. Đó là các giống
dân Triều Tiên, Mãn Châu, Hung Nô (nói chung là “rợ” Hồ, “rợ” Quắc...), ngày nay
là các giống Mông Cổ (Ngoại Mông và Nội Mông), người Uyghur (Tầu gọi là Duy Ngô
Nhĩ), người Tạng (Tây Tạng) các giống thiểu số ở Vân Nam. Dĩ nhiên, người Duy
Ngô Nhĩ, người Tạng, người Nội Mông, người Mãn đời sống nghèo nàn, gian khổ,
thiếu ăn, thiếu học, v.v...
Người Tầu gọi họ là “rợ” hay “man”. Gọi như thế rõ ràng người Tầu không cho các
dân giống dân nầy bình đẳng với họ bao giờ. Không
những thế, người Tầu còn muốn tiêu diệt các giống dân nầy bằng cách “Hán hóa”.
10)- Nông thôn
thành thị,
Nông thôn và đặc khu kinh tế.
Ngay
trong nội bộ người Hán với nhau, mâu thuẫn về quyền lợi cũng không kém gay gắt.
Đó là những mâu thuẫn giữa Nông thôn và Thành thị. Nông thôn thì
nghèo đói, thành thị thì no ấm, nếu không muốn nói là giàu có hơn. Nông thôn
thiếu tiện nghi về nhiều mặt: y tế, giao thông, về cả giáo dục.
Về
giáo dục, nông thôn chỉ nhận được 23% tiện nghi trong khi nông dân chiếm 61% dân
số.”
Nước Tầu có hơn 100 triệu héc-ta dành cho nông nghiệp với hơn 700 triệu nông
dân, tức là nông dân chiếm gần 60% trên dân số 1 tỷ 300 triệu người.
Việc
cải cách nông nghiệp ở bên Tầu thiếu hợp lý. Muốn tăng năng xuất, nông dân dùng
nhiều phân bón, vẫn không đạt tới mức sản xuất 5 tấn một héc-ta, chỉ bằng 1/10
năng xuất nông nghiệp Âu-Mỹ.
Tính chung, mỗi nông
dân Tầu chỉ nuôi sống được 4 miệng ăn, trong khi con số ấy
là 90 ở Mỹ và 160 ở Đan Mạch.
Mặc
dù nông dân Tầu xử dụng tối đa phân bón nhưng lối canh tác thô sơ, ruộng đất
chia nhỏ trước cũng như sau khi hợp tác xã giải tán, không áp dụng được phương
pháp “đại nông canh tác” như ở Mỹ nên năng xuất không thể nào cao được, mặc dù
số người tham gia nông nghiệp còn cao.
Bên
cạnh đó, ngay ở nông thôn, giữa các nông dân với nhau, khoảng cách lợi
tức cũng khá xa. Ở vùng phía đông, họ có lợi tức cao hơn gần 4 lần so
với nông dân vùng nội địa và phía tây, tính ra không tới 1 đôla một ngày.
So
với thôn quê thì thành thị có đời sống khá hơn, đầy đủ hơn. Ở bên Tầu bây giờ,
người nông thôn đổ xô ra thành thị kiếm sống, kiếm công ăn việc làm. Điều ấy
cho chúng ta thấy nhiều mâu thuẫn trong nội bộ của Tầu.
Nguy
hiểm hơn, những mâu thuẫn đó càng ngày càng sâu sắc, mãnh liệt.
Những người cầm quyền
ở Bắc Kinh biết rất rõ điều đó.
Sau
thời kỳ Giang Trạch Dân với chủ trương tập trung phát triển vùng phía đông thì
những người cầm quyền bên Tầu bây giờ chú tâm vào việc phát triển vùng nội địa
và phía tây. Công việc nầy dĩ nhiên tạo ra phản ứng của lãnh đạo các đặc khu
kinh tế và thành phố lớn, nhứt là Thượng Hải. Họ không muốn nai lưng gánh vác
người nghèo.
Tình
trạng nông nghiệp còn tệ hại hơn khi đất dành cho nông nghiệp càng ngày càng
thu hẹp lại vì tình hình đô thị hóa các đặc khu kinh tế và sự bành trướng của
đô thị.
11)- Mâu thuẫn Tài
Phiệt và Lãnh đạo chính trị
Giới
tài phiệt mới nổi ở các đặc khu kinh tế và thành phố lớn, kiểu như tài phiệt
tập đoàn dầu mỏ Yukos Mikhail Khodorkovsky của Nga thì càng ngày càng đông, thế
lực ngày càng mạnh. Liệu nhóm quyền lực trung ương Bắc Kinh có dám bắt họ bỏ tù
như Putin đã làm ở Nga. Nếu không nắm được họ, thì họ sẽ nắm ngược trở lại.
12)- Quyền lực Địa
phương và Trung ương
Trong
chính sách đổi mới và phát triển kinh tế, nước Tầu dựng nên nhiều “Đặc khu kinh
tế” như ở Hạ Môn, Chu Hải, Sán Đầu, Hải Nam, Thẩm Quyến và các thành phố
lớn như Quảng Châu, Thượng Hải...
Việc
mở mang các đặc khu kinh tế và thành phố lớn, nhỏ làm cho số lượng nông dân
giảm dần đi 12% mỗi năm.
Tầu
vốn là một nước phong kiến (Phong tước và kiến địa) nên từ căn bản, mâu
thuẫn quyền lợi, quyền lực giữa trung ương và địa phương, giữa hoàng đế và chư
hầu như thời Đông Châu là điều không thể tránh được.
Gốc
rễ của những mâu thuẫn đó là từ cơ chế, từ tâm lý (mỗi người Tầu là một ông
vua, như người ta thường nói, “Được làm vua thua làm giặc”...) thì tránh được
sự phân quyền, cát cứ, sứ quân... đã là điều may, nói chi tới thống nhứt, trên
dưới một lòng.
Tranh
giành quyền lực, thậm chí ganh ghét, kình chống nhau, ngấm ngầm hay ra mặt,
ngay dưới thời Mao trị độc ác cũng đã có huống gì ngày nay.
Khi Đặng Tiểu Bình làm
đảo chánh ở Bắc Kinh thất bại thì Đặng chạy trốn về
Quảng Châu với Dương Thượng Côn vì ông tướng Dương nầy cũng không kính
trọng Mao và sợ Mao cho lắm.
Thời
Mao còn sống, mỗi khi từ Quảng Châu về Bắc Kinh họp, Dương thường mang theo một
tiểu đoan để “bảo vệ” ông ta. (Xem: “Mao Trạch Đông, tấn thảm kịch của đảng
Cộng Sản Trung Hoa”).
Ngày
nay cũng vậy thôi, các đặc khu kinh tế giàu có không muốn có sưu cao
thuế nặng, không muốn “gánh gồng” cho những vùng nông thôn hay nội địa có kinh
tế thấp, chưa kể việc các lãnh chúa của những địa phương nầy muốn “đè nặng” lên
quyền lực trung ương.
Phản
ứng của các lãnh đạo các đặc khu kinh tế và thành phố lớn là vì nông nghiệp
đóng góp ít (15% cho tổng sản lượng quốc gia) trong khi lãnh vực công nghiệp
thì đóng góp cao hơn.
Vì
lợi tức thấp nên mức tiêu dùng “hàng tiêu dung” của nông dân không cao, giúp
ích rất ít cho lãnh vực sản xuất công nghiệp.
Các
đặc khu kinh tế và các thành phố lớn có nền ngoại thương lớn với các nước Âu
Mỹ, muốn xuất cảng được nhiều, muốn có lợi nhiều nên càng muốn ít lệ thuộc vào
trung ương.
Đó
cũng là nguyên nhân mâu thuẫn trong chính sách đối ngoại.
14)- Mâu thuẫn các phe
nhóm trong đảng.
Sau khi Đặng Tiểu Bình bắt tay với Mỹ, mở cửa ra với Tây phương,
tình thế giới lãnh đạo nước Tầu bắt đầu phân hóa. Một số không ít còn bảo thủ.
Chẳng qua, họ sợ mất bớt quyền lực, quyền lợi của họ. Một số được coi là cởi mở
hơn. Tình hình nầy tạo ra nhiều cuộc phản kháng của sinh viên. Lo ngại trước
đám trẻ nầy, sẽ làm loạn như thời “Hồng Vệ Binh” mà gia đình Đặng cũng như bản
thân ông ta từng là nạn nhân, Đặng thanh trừng Hồ Diệu Bang vì ông nầy khoan
dung với các sinh viên chống đối. Triệu Tử Dương được chọn làm Tổng Bí Thư đảng
CS Tầu, thay thế Hồ Diệu Bang. Lý Bằng làm thủ tướng.
Triệu
Tử Dương chủ trương tách rời vai trò của đảng Cộng Sản Tầu với Nhà Nước Tầu.
Phe
đối lập với Triệu đứng lên, lãnh đạo là Lý Bằng và Diêu Y Lâm. Cuộc đấu đá càng
ngày càng quyết liệt. Chủ trương hai phe trái ngược nhau về kế hoạch, về tự do kinh
doanh, nới lỏng việc kiểm soát báo chí, v.v….
“Triệu Tử Dương là một trong những lãnh đạo
đầu tiên ủng hộ việc giảm kiểm soát nhà nước với các doanh nghiệp và tăng
cường sở hữu tư nhân qua cổ phần hóa.”
Tình
hình càng ngày càng căng thẳng, dẫn đến các cuộc biểu tình của Thanh Niên, Sinh
Viên, Học Sinh tại Bắc Kinh trong suốt tháng 5/ 1989.
Tối
ngày 18 tháng 5 năm 1989, Ban Thường Vụ Bộ Chính trị đảng Công Sản Tầu họp tại nhà
của Đặng, ra lệnh Thiết Quân Luật.
Triệu
Tử Dương xuất hiện tại Thiên An Môn, nói chuyện với đám biểu tình:
“Các
sinh viên, chúng tôi đến quá trễ. Chúng tôi xin lỗi. Các bạn nói về chúng tôi,
chỉ trích chúng tôi, đó đều là việc cần thiết. Lý do tôi đến đây không phải để
yêu cầu các bạn tha thứ cho chúng tôi. Tất cả những điều tôi muốn nói là các
sinh viên đang trở nên yếu ớt, đây đã là ngày thứ 7 của cuộc tuyệt thực, các
bạn không thể tiếp tục như vậy. Khi thời gian trôi qua, nó sẽ ảnh hưởng tới
thân thể các bạn một cách không thể phục hồi, nó có thể rất nguy hiểm tới tính
mạng các bạn. Hiện nay điều quan trọng nhất là chấm dứt cuộc tuyệt thực này.
“Tôi
biết, cuộc tuyệt thực của các bạn diễn ra với hy vọng Đảng và Chính phủ sẽ đưa
ra cho các bạn một câu trả lời thích đáng. Tôi cảm thấy rằng sự trao đổi giữa
chúng ta là mở. Một số vấn đề chỉ có thể được giải quyết sau một số quy trình.
Ví dụ, các bạn đã đề cập tới bản chất vụ việc, vấn đề trách nhiệm, tôi cảm thấy
rằng các vấn đề đó cuối cùng sẽ được giải quyết, chúng ta có thể đạt tới một
thoả thuận hai bên.
“Tuy
nhiên, các bạn cũng phải biết rằng tình hình rất phức tạp, đó sẽ là một quá
trình dài. Các bạn không thể tiếp tục cuộc tuyệt thực tới ngày thứ 7, và vẫn
đòi hỏi một câu trả lời thích đáng trước khi chấm dứt nó.
“Các
bạn vẫn còn trẻ, còn nhiều thời gian phía trước, các bạn phải sống khoẻ mạnh,
và chứng kiến ngày khi Trung Quốc hoàn thành cuộc bốn hiện đại hóa.
Các bạn không như chúng tôi, chúng tôi đã già, nó không còn quá quan trọng với
chúng tôi nữa. Không dễ dàng để đất nước này và cha mẹ các bạn cung cấp phương
tiện cho các bạn học tập ở các trường đại học. Hiện tại tất cả các bạn đều đang
ở lứa tuổi 20, và muốn hy sinh cuộc sống một cách quá dễ dàng, các sinh viên,
chẳng lẽ các bạn không biết suy nghĩ một cách lôgíc?
“Hiện
tại tình thế rất nghiêm trọng, các bạn đều biết, Đảng và đất nước rất lo ngại,
cả xã hội đang lo lắng. Bên cạnh đó, Bắc Kinh là thủ đô, tình hình đang xấu đi
và xấu đi ở mọi nơi, điều này không thể tiếp diễn, nhưng nếu nó tiếp diễn, mất
kiểm soát, nó sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng ở nhiều nơi.
“Tôi
kết luận, tôi chỉ có một mong muốn. Nếu các bạn dừng cuộc tuyệt thực, Chính phủ
sẽ không đóng cánh cửa đối thoại, không bao giờ! Những vấn đề các bạn đưa ra,
chúng ta có thể tiếp tục thảo luận. Dù có thể hơi chậm, nhưng chúng ta đang đạt
tới một số thoả thuận về một số vấn đề. Hôm nay tôi chỉ muốn gặp các sinh viên,
và bày tỏ các tình cảm của chúng tôi. Hy vọng các sinh viên sẽ trầm tư suy nghĩ
về vấn đề này. Điều này không thể được xem xét thấu đáo trong những hoàn cảnh
phi lôgíc. Tất cả các bạn đều có sức mạnh đó, sau tất cả các bạn là những người
trẻ tuổi. Trước kia chúng tôi cũng từng có tuổi trẻ, chúng tôi đã phản kháng,
nằm chặn các tuyến đường sắt, khi ấy chúng tôi không bao giờ nghĩ về điều sẽ
xảy ra trong tương lai. Cuối cùng, một lần nữa tôi muốn cầu xin các bạn sinh
viên, hãy trầm tư suy nghĩ về tương lai. Có nhiều điều có thể được giải quyết.
Tôi hy vọng các bạn sẽ chấm dứt cuộc tuyệt thực này sớm, cảm ơn.”
“Chúng tôi đã già, nó không còn quan trọng với
chúng tôi nữa.” đã trở thành một câu trích
dẫn nổi tiếng sau đó. Và đó cũng là lần xuất hiện cuối cùng của ông trước công
chúng.”
Ban đầu, sự kiện Thiên An Môn chứng tỏ mâu
thuẫn trong hàng ngũ lãnh đạo Cộng Sản Tầu, nhưng khi tình hình diển ra, nó
không còn là vấn đề trong nội bộ đảng nữa, mà trở thành mâu thuẫn giữa đảng và
quần chúng, nhất là với sinh viên.
Đảng Cộng Sản Tầu đàn áp cuộc phản kháng nầy thẳng tay, vô cùng tàn bạo, hàng
ngàn người bị giết. Đa số người phản đối chạy trốn. Từ đó đến nay, thanh niên
Trung Hoa lạnh giò, sỡ hãi, không còn cuộc đấu tranh nào nữa cả, mặc dù cuộc
tranh đấu trôi qua 24 năm, gần một phần tư thế kỷ. Ai bảo người Tầu can trường
dũng mãnh như người Nhật, người Đức, v.v…
15)- Đảng và Trí thức.
Trí thức là một lực lượng đáng kể, đóng một vai trò trong sinh hoạt xã hội, về
nhiều mặt: chính trị, giáo dục, kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật… Họ là trí thức,
có kiến thức tổng quát, số đông có tinh thần Dân Tộc, yêu chuộng Tự Do, Bình
Đẳng, Bác Ái… Trong viễn tượng đó, họ thường có ý thức chống đối việc thống trị
xã hội, nhất là trong những xã hội có áp bức, độc tài, tham nhũng, bóc lột…
Khi nước Tầu mở cửa với thế giới bên ngoài, trí thức Trung Hoa không còn là
những con ngựa “mang dàm”, cứ một đường mà đi như lời “chủ”, tức là đảng CS
Tầu, chỉ dạy. Họ thấy được sự tiến bộ của nhiều nước trên thế giới, nhờ khoa
học kỹ thuật, nhờ có Tự do, Dân Chủ, … Từ chỗ đứng đó, họ biết họ phải làm gì
cho họ, cho đất nước họ. Đó là khởi điểm của những cuộc chống đối, biểu tình,
đòi hỏi, như vụ Thiên An Môn.
Thật ra, cuộc đàn áp ở Thiên An Môn, cũng như tất cả các cuộc đàn áp của chính
quyền Cộng Sản Tầu khác, trên khắp nước Tầu và những vùng họ cai trị như ở Tân
Cương, Tây Tạng, không bao giờ là không tàn ác, khốc liệt… Bên cạnh đó, tinh
thần đấu tranh của người Tầu không nhiều gan dạ, không mạnh mẽ. Hãy nhớ lại câu
phê bình của Lỗ Tấn đối với dân tộc của ông: “Nhát như thỏ đế…”
Trong
gần hai ngàn năm, người Tầu khư khư ôm lấy tư tưởng Khổng Mạnh, có khi tôn phù
Tống Nho. Đó là đường lối cai trị độc địa của “Phong kiến Trung Hoa”, với
“Trung thần bất sự nhị quân”, hay “Quân khiến thần tử, thần bất tử bất trung”.
Tư tưởng như thế, cách cai trị xảo trá như thế, nó trói buộc người dân Tầu hàng
ngàn năm qua, khiến nước Tầu tuy đất rộng, dân đông, mà không ngóc đầu lên
được.
Mãi
đến khi thua Nhật trong “Hoa Nhật chiến tranh”, khi thấy Nga thua Nhật trong
trận hải chiến ở eo biển Đối Mã, ngay cạnh nước Tầu, bấy giờ dân tộc Tầu mới
ngo ngoe tỉnh thức, mới tìm hiểu tư tưởng Mạnh Đức Tư Cưu, Lư Thoa… qua những
tác phẩm của phái Tân Học như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi và ý thức quyền lợi
của mình, dẫn đến cuộc cách cách mạng Tân Hợi 1911. Nhưng người Tầu rồi lại
“sập” vào những tư tưởng cực đoan khác, được Mao “soi sáng” bằng “Tư Tưởng
Mao”, thành ra người Tầu lại chìm đắm vào những nỗi đau khổ khác, dưới chính
sách cai trị hà khắc khác của Cộng Sản Tầu.
Người
Tầu mang cái tâm lý tự cao vô lối, có nghĩa là sự tự cao không có căn cơ gì cả.
Chính Lỗ Tấn đã chỉ ra cái tâm lý trong tá phẩm nổi tiếng “AQ. chính truyện”
của ông.
Trước làn sóng xâm lăng của chủ nghĩa đế quốc, trên nhiều mặt quân sự, kinh tế
và văn hóa. Giai cấp phong kiến Trung Hoa càng lụn bại, suy sụp, người Tầu tự
vẽ cho mình cái gọi là “Thắng lợi tinh thần”, có nghĩa rằng họ tự cho họ
đang thắng kẻ thù đấy, trên một mặt trận không có chiến trường.
Người
Tầu tự xem mình như là “Trung tâm văn hóa nhân loại”, tự xem mình như là
một dân tộc chuẩn mực. Cũng từ cái tâm lý, người Tầu tự cho mình là thượng
đẳng, phải khai hóa cho các dân tộc còn man di mọi rợ chung quanh Tầu như
“Rợ Hồ, Rợ Quắc,” hay Nam Man là người dân Lạc Việt ở về phía nam
của Tầu. Đó chính là tâm lý “Đại Hán”, “Đại Bá” của Tầu, khiến họ
không bao từ bỏ cái ý tưởng nghĩa xâm lăng và cai trị những nước chung quanh
“Trung Quốc”
Tâm
lý nầy “không có thuốc chửa”. Nhân vật AQ. trong “AQ Chính Truyện” là biểu tượng
cho tâm lý đó.
Thật vây, khi thiếu một cái gì đó, thua thiệt một cái gì đó, người
ta tự tìm ra một cái gì khác, để khỏa lấp cái thất bại, thiếu vắng trong cuộc
sống của họ.
Nhân vật AQ. là con người biểu tượng cho cái tâm lý thua thiệt,
không những của y mà cho tất cả những người Tầu.
Không
biết y gốc gác như thế nào. Ngay chính y cũng không biết cái gốc gác của mình như
ra sao, là một tên lạc vất, lạc vơ đâu đó, trôi giạt vào làng nầy, làng Mùi. Nhưng
đôi khi y tự nhận y thuộc dòng họ Triệu, là một họ danh giá trong làng. Trong
cách suy nghĩ tự cho là như thế, cách ăn mặc của y bao giờ cũng chuẩn mực, khăn
áo đâu đó đàng hoàng, dù những thứ y dùng đã rách cũ. Cách ăn nói, điệu bộ thì
bao giờ cũng đúng kiểu cách, ngôn ngữ mở miệng ra là “Chi hồ giả dã” nhưng chữ
nghĩa của y thì chẳng có bao lăm.
Bây giờ y thua mọi người, nhưng y cho rằng con cháu y sẽ hơn mọi
người. Y đánh không lại ai, nhưng khi bị ai đánh thì y tự cho rằng mình là “cha
người ta” nên ai đánh y thì coi như người đó tự đánh cha mình: “Nó đánh
tôi thì khác gì nó đánh cha nó.” A Q. chẳng chịu tỏ ra sự kính nể khác thường, hắn nghĩ: Con của mình sau
này còn làm nên bằng mấy kia! Bằng cách đó, y tự thấy
mình bao giờ cũng hơn người khác, không thua ai được. Rồi hắn bỏ đi với cái dáng hả hê đắc thắng.
Đó
là căn bệnh của người Tầu trước khi có cuộc nổi dậy của cách mạng vô sản.
Tâm lý chung đó của người Tầu là miếng đất mầu mỡ cho chủ nghĩa
Cộng Sản mà hận thù và tự tôn là nền tảng của chủ nghĩa nầy, là nơi thuận lợi
bậc nhất hạt giống thù hận giai cấp, thù hận các dân tộc Tây phương mà Cộng Sản
Tầu muốn. Chủ nghĩa Cộng Sản được nuôi trồng và nảy nở trong dân tộc Tầu để họ
xây dựng Xã hội Xã hội Chủ nghĩa.
Thật ra, theo nhiều người, cái tính tự tôn của người Tầu cộng với
chế độ Phong kiến Trung Hoa đã dìm dân tộc nầy xuống, không ngóc đầu lên nổi
suốt hơn hai ngàn năm. Cũng với cá tính tự tôn đó, cộng với chủ nghĩa Cộng Sản,
lại tiếp tục đè đầu người Tầu xuống gần một trăm năm qua, cho tới bây giờ,
ngoài cái số đông dân số, người Tầu không hơn ai về khoa học kỹ thuật,
nông nghiệp, kinh tế.
Bằng hận thù và tham lam, các lãnh tụ ở Trung Nam Hải sẽ dẫn dắt
dân tộc Tầu tiến tới đâu, để người Tầu vừa có Cơm Áo, vừa có Tự Do. (1)
16)- Tình trạng tham
nhũng
Đối
với các nước độc tài, tình trạng tham nhũng đều giống nhau và “hết thuốc chửa.”
Chính thức thì chính quyền địa phương tự ý đặt ra nhiều thứ thuế nặng nề. Mặt
khác thì tham nhũng, hối lộ không thể nào tính hết được, áp bức và bóc lột còn
thậm tệ hơn cả thời phong kiến và dưới chế độ cai trị của Quân Phiệt Nhựt.
Có
một điều rất căn bản là Lợi Ích và Dân Chủ. Lợi ích bao giờ cũng “liên minh”
với Tham Lam và đối nghịch với Dân Chủ.
Trong
một chế độ dân chủ, dân chủ thường có luật pháp, không thể để cho tham lam lộng
hành. Do đó, hành động tham nhũng dễ bị tố cáo trong chế độ dân chủ.
Xã
hội văn minh Âu Mỹ chúng minh điều đó khá rõ ràng.
17)- Mâu thuẫn giữa
Tầu và các nước chung quanh
Chính
sách “Hán hóa” không phải bây giờ mới có, mà cả mấy ngàn năm trước, người Tầu
đã có chính sách ấy rồi. Họ đã thành công trong việc “Hán hóa” các giống Bách
Việt, nhưng với người Tân Cương (Có nghĩa là vùng biên giới mới của người Tầu)
với người Uyghur, người Tạng, với người Việt (Lạc Việt), người Mãn thì họ đã
thất bại. Người Mãn (Thanh) chỉ bị “Hán hóa” khi họ vào cai trị người Tầu ở Bắc
Kinh, chớ ngay tại nước Mãn Châu thì người Tầu không “Hán hóa” người Mãn châu
được.
Người Việt, nếu muốn chống lại người Tầu, không thể không liên minh với các
giống dân bị người Tầu ức hiếp, đàn áp. bóc lột như người Tạng, người Mãn,
người Uyghur. Một mình đức Đạt-lai Lạt-ma lãnh đạo dân Tây Tạng chống lại ách
cai trị của người Tầu thì khó thắng, nhưng nếu các dân tộc chung quanh nước Tầu
hợp sức và có sự lãnh đạo chung thì người Tầu sợ lắm, không dám ức hiếp mạnh
tay. Trong viễn tượng đó, người Tân Cương, người Tạng sẽ cứu người Việt hay
ngược lại.
18)- Với bên ngoài
Có
thể nói người Tầu gây mâu thuẫn với toàn thế giới, với Mỹ, với cộng đồng Châu
Âu, với Châu Á, với Đông Nam Á, với Châu Phi. Ngay cả với những chính quyền “đệ
tử” của Tầu như ở Bình Nhưỡng, ở Naypyidaw (thủ đô mới của Miến Điện) hay Hà Nội, vẫn có
nhiều mâu thuẫn khi sâu sắc, khi bình thường.
Mâu
thuẫn quan trọng nhứt là tiền tệ. Chính phủ Tầu cố giữ đồng nhân dân tệ giá
thấp để giá hàng xuất cảng được hạ, tràn ngập khắp nơi. Mỹ và Cộng Đồng Châu Âu
can thiệp, họp bàn với Bắc Kinh nhiều lần nhưng chưa có kết quả, và cũng khó có
kết quả.
Trung
Cộng khăng khăng giữ tỷ giá 6, 83 nhân dân tệ đổi 1 đôla Mỹ để hỗ trợ xuất khẩu
đã bị các nhà lập pháp Mỹ chỉ trích mạnh mẽ.
Ông
Yoshihiko Noda Thứ trưởng Tài chính Nhật cảnh báo Bắc Kinh: “Hiện có nhiều sự
mong đợi, chứ không riêng từ phía Mỹ, về việc Trung Quốc sẽ nới lỏng chính sách
kìm giữ giá nhân dân tệ”.
Bên cạnh đó, nếu so sánh với các nước khác ở Đông Nam Á, việc nước Tầu giữ
nguyên giá đồng tiền của họ giúp họ xuất khẩu được nhiều hàng hóa hơn. Tuy
nhiên, lại có mâu thuẫn khác là khi các nước giàu như Nhựt Bản, Đại Hàn đầu tư
sản xuất vào Tầu thì các công ty nầy cũng được hưởng lợi như chính nước Tầu
vậy.
Tầu vẫn chưa nhượng bộ, Mỹ tiếp tục gây sức ép, mặc dù phía Tầu đã tuyên bố
việc gây sức ép sẽ không có hiệu quả gì cả.
Thứ
hai là mâu thuẫn về tài nguyên, nhứt là dầu lửa, thứ đến là mỏ kim loại. Như đã
nói, dầu hỏa là máu của kinh tế thế giới, nhứt là với những nước đang phát
triển như Tầu. Tầu đang cố giành cho được vùng lưỡi bò, chính yếu cũng vì đó là
vùng có mỏ dầu lửa. Thiếu dầu, các nhà máy phải đóng cửa.
19)- Đòi nhiều!
Có giữ được không?
Tức
tối và thù hận bấy lâu nay nước Tầu còn mê ngủ để cho các nước Âu Mỹ giành hết
tài nguyên trên thế giới, ngày nay Tầu hung hăng đòi quyền lợi nầy, quyền lợi
khác, đòi thật nhiều, cho thỏa mãn. Nhưng liệu có đòi được không, hoặc có đòi
được thì có giữ được không? Việc đòi vùng lưỡi bò là một thí dụ. Tầu có
đòi được vùng nầy không? Liệu các nước Đông Nam Á, Tây Âu và Mỹ có để cho Tầu
tự tung tự tác như vậy được không? Đòi mà không được thì uy tín có bị sứt mẻ
không? Lên thang thì dễ, xuống thang có khó không? Không lý họ cứ hung hăng mà
không tính đến hậu quả, hay họ cứ làm như thế để tạm thời trấn an dân chúng
trong nước, để cho những mâu thuẫn nội bộ tạm yên?
Con cóc muốn
to...
Sau mấy chục năm dưới thời Mao, người Tầu áp dụng chủ nghĩa xã hội để xây dựng
đất nước họ nhưng thất bại (Ngược lại, Dziệt Cộng dùng đất nước để xây dựng xã
hội chủ nghĩa - lời tổng thống Nixon). Nước Tầu, do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo, đã
quay sang chủ nghĩa tư bản. Nhờ đó mới giàu có lên. Nay người Tầu đã vượt qua
khỏi Nhựt, giành ngôi vị thứ hai, sau Mỹ. Dĩ nhiên, hiện giờ người Tầu đâu có
bỏ giấc mộng làm bá chủ thế giới, về kinh tế cũng như quân sự, v.v... để trở
thành “Trung Quốc” của toàn thể địa cầu.
Con cóc bể bụng!
Con cóc nếu cứ rán sức cho to bằng con bò, có ngày bể bụng, như ngụ ngôn của
Lafontaine. Bao giờ thì cái bụng nước lèo của chú Ba sẽ bể ra?
Ấy là khi những mâu thuẫn trong, ngoài không có cách nào giải quyết được nữa.
20)- Chiến tranh lạnh
Càng
tốn kém, dân Tầu càng thắt lưng buộc bụng, các mâu thuẫn, sự chống đối trong
nước càng thêm mạnh.
Dĩ nhiên, việc Tầu tăng cường sức mạnh quân sự làm cho các nước chung quanh, kể
cả Nhựt Bản lo sợ. Càng lo sợ, các nước nầy càng phụ thuộc vào Mỹ.
Vài
ví dụ sau đây cho chúng ta thấy điều ấy. Thủ tướng Nhựt Yukio Hatoyama trước
khi nhậm chức có hứa sẽ yêu cầu Mỹ bỏ căn cứ quân sự Futenma ra khỏi Okinawa
nhưng ông không làm được nên phải từ chức. Trước tình hình bành trướng quân
sự của Tầu, làm sao thủ tướng Nhựt có thể dời được căn cứ quân sự Mỹ ở Nhựt.
Làm như thế, khác nào Nhựt tự cô lập mình về quân sự.
Có phải Tầu bật đèn xanh cho Bắc Triều Tiên pháo kích vào hòn đảo Yeonpyeong
của Nam Triều Tiên. Việc ấy chỉ có lợi cho Mỹ bởi vì khi tổng thống Obama đến
Hán Thành, ông đã không đạt được thỏa ước thương mại với Nam Triều Tiên. Tuy
nhiên, sau vụ tấn công đó, Mỹ và Nam Triều Tiên tập trận chung, thì Hán Thành
vội vàng ký hiệp ước nói trên, thuận để Mỹ nhập cảng thịt bò và xe hơi vào quốc
gia nầy.
Để
bảo vệ quyền lợi kinh tế của mình, người Tầu phải tăng cường sức mạnh quân sự,
phát triển những loại vũ khí tối tân, đóng hàng không mẫu hạm, v.v... Việc tăng
cường quân đội, bộ binh, thủy binh, hạm đội... đến bao giờ thì có thể cân bằng
với lực lượng quân sự các nước Đông Nam Á, Châu Á, với Hạm Đội 7, với hải quân
Mỹ. Đó là con đường dài, không ít tốn kém.
Trước đây, khi còn chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Mỹ, việc chạy đua vũ trang
chính yếu là giữa hai nước nầy, mỗi nước đứng đầu mỗi phe. Cuối cùng, vì cuộc
“Chiến tranh giữa các vì sao” mà Liên xô đành chịu thua Mỹ. Cuộc chạy đua vũ
trang chấm dứt.
Ngày nay, Trung Cộng đang phát triển vũ khí của mình, về tất cả mọi lãnh vực
hải lục không quân. Nhưng đối thủ chạy đua vũ trang của Tầu bây giờ không phải
là Mỹ mà chính là các cường quốc kinh tế ở sát cạnh lục địa Trung Hoa.
Nhật
đang chuẩn bị sửa đổi hiến pháp và phát triển lực lượng quân sự. Đại Hàn, ngày
nay giàu có lắm, không lý không mua sắm vũ khí để bảo vệ kinh tế, thương mại
của mình? Trong viễn tượng đó, Mỹ khỏi chạy đua với Tầu mà chỉ lo bán vũ khí.
Tình
hình như thế nầy, nước Tầu sẽ đi về đâu?
21)- chế độ độc tài
Nhìn chung, không có chế độ độc tài, chuyên chế nào có thể tồn tại lâu dài,
nhất là với nhân loại ngày nay.
Từ thế kỷ 19 trở về trước, trình độ chính trị dân chúng còn thấp kém, những tư
tưởng tiến bộ của nhân loại về Nhân Quyền, Dân Quyền, về Tự Do, Dân Chủ chưa
truyền bá khắp hoàn vũ, nên các chế độ độc tài chuyên chế dễ đè đầu cưởi cổ
người dân, tồn tại lâu dài.
Ngày nay, việc học hành phát triển hơn, tư tưởng tiến bộ của nhân loại phổ cập
hơn, không những ở trong học đường mà khắp ngoài xã hội. Phương tiện truyền
thông bây giờ nhạy bén và mau lẹ, dân chúng có thể tiếp cận một cách dễ dàng.
Một sự việc nào đó, hơi có vẽ quan trọng, chỉ một thời gian ngán ngủi sau là
khắp cả thế giới đều biết.
Chế độ độc tài chỉ có thể tồn tại lâu dài khi người dân bị bưng bít, không thấy
gì ngoài điều mà chính quyền độc tài muốn cho dân thấy, chỉ có thể nghe được gì
chính quyền độc tài muốn cho dân nghe.
Trước 1975, Bắc Việt Nam được báo chí Âu-Mỹ gọi là “nơi kín nhất thế giới”. Ở
bên ngoài, ngay báo chí cũng không thể biết cái gì xẩy bên trong. Người dân bên
trong thì coi như “ếch ngồi đáy giếng”. Vì vậy, dân chúng dễ bị tuyên truyền,
dễ bị chính quyền Cộng Sản lùa vào miền Nam chết chùm, hàng triệu thanh niên.
Chỉ một trận đánh Mậu Thân, Võ Nguyên Giáp đã “nướng” (báo chí thường gọi là
nướng quân), hơn nửa triệu thanh niên miền Bắc.
Sau 1975, người miền Bắc chỉ mới vượt vĩ tuyến 17 đã vội sáng mắt ra, mới biết
bao lâu nay bị lầm, bị lừa phỉnh.
Ngày nay, ở các nước Cộng Sản, tình trạng ấy không còn nữa. Việc cai trị độc
đoán đâu còn có thể lâu dài.
Đó là cái thế nguy của nước Tầu khi họ càng lúc càng phải mở rộng cửa với thế
giới bên ngoài. Sự sụp đổ của nước Tầu sẽ từ đó mà ra, không sao tránh được.
22)- Liệu người Tầu có
thành công?
Nếu
không thành công thì nước Tầu tan rã chăng?
Nói chung, về tổng sản lượng quốc gia, tính tới năm
2008, người ta thấy, tính theo ngàn tỷ đô la Mỹ thì Mỹ là 14, Tầu chỉ có phân
nửa Mỹ là 7, Nhựt 4 ngàn, Đức gần 4 ngàn tỷ, v.v... Nếu tính theo sự giàu
có, thì nước Tầu chỉ mới bằng ¼ cái giàu của Mỹ, trong khi Tầu có 1 tỷ 400
triệu dân mà Mỹ chỉ có 300 triệu dân.
Lịch sử các đế quốc cho thấy, càng bành trướng, càng dễ sụp đổ, chính yếu là vì
không cai trị, kiểm soát được hết, không nắm giữ được hết. Rõ ràng nhứt là
trường hợp các đế quốc như La Mã, đế quốc Ottoman, đế quốc Tây Ban Nha. Nước
Tây Ban Nha thì nhỏ, lãnh địa của đế quốc Tây Ban Nha thì kéo dài từ châu Á tới
Nam Mỹ. Nam Mỹ xa quá, quyền lực của hoàng đế Tây Ban Nha không với tới được.
Thứ hai nữa, nhân loại càng văn minh, tiến bộ. Tư
tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền, v.v... càng bành trướng, phát triển, lan
tràn, nên dân tộc các nước bị cai trị thức tỉnh, giành lại độc lập cho chính
dân tộc họ. Đó là phong trào giải thực sau Thế giới Chiến tranh thứ Hai, đưa
tới sự sụp đổ của các đế quốc Anh, đế quốc Pháp...
Chính sách bành trướng của Tầu đi ngược lại chiều hướng tiến bộ đó. Chính phủ
Tầu yểm trợ tối đa cho các chính phủ độc tài ở Châu Phi, để cả hai bên cùng
nhau khai thác, cướp đoạt tài nguyên của các nước Châu Phi.
Một
mặt thì dùng sức mạnh đàn áp, một mặt dùng tiền bạc mua chuộc các nước mà Tầu muốn
bành trướng thế lực tới. Muốn thực hiện những điều đó, người Tầu càng phải bắt
dân chúng trong nước thắt lưng buộc bụng, bóc lột dân chúng, làm cho mâu thuẫn
nội bộ càng ngày càng thêm sâu sắc. Đó cũng là mối họa của người Tầu.
Lịch sử Tầu từ đầu từ Tam hoàng Ngũ đế, Hạ-Thương-Chu, Xuân Thu Chiến Quốc,
Tần, Hán, Tam Quốc, Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh và cả lịch sử Tầu thế
kỷ 20, chưa bao giờ nước Tầu “thống nhất”, “đoàn kết” mà chỉ là “tranh bá đồ
vương” sinh linh thán khổ.
Lịch sử Tầu như thế là vì bản tính người Tầu như thế. Họ chỉ có thể “nhất
thống” dưới bạo lực, tồn tại trong bạo lực. Từ khi Mao chiếm xong lục địa năm
1949 cho tới giờ, đã hơn nửa thế kỷ, nước Tầu thống nhất dưới ách cai trị đàn
áp tàn bạo của Cộng Sản.
Chế độ Cộng Sản không
tồn tại lâu dài được, thì cái ách nô lệ đang tròng lên đầu người Tầu cũng sẽ
được cởi bỏ. Rồi nước Tầu sẽ rơi vào một cuộc phân hóa khác. Đó chính là điều
những người có trách nhiệm cai trị nước Tầu hiện nay rất sợ.
Hễ tan rã, thì nạn quân phiệt cát cứ các nơi xảy ra, tranh bá đồ vương, xưng
hùng xưng bá, không thể nào thống nhất lại được. Đến lúc đó, dù giương lên cái
chiêu bài gì, Dân Tộc, Dân Chủ, Tự Do, v.v… cũng không lôi kéo đuợc người Tầu.
Cái mối nguy ấy, càng ngày càng rõ khi 21 điều mâu thuẫn nói ở trên không còn
cách chi giải quyết được.
Dân tộc Việt Nam lúc đó, sẽ vui mừng!
Cái bất hạnh của người nầy, hay dân tộc nầy, sẽ là hạnh phúc của người khác hay
dân tộc khác.
Sự mâu thuẫn của nhân loại vẫn là muôn đời. Bởi vì có mâu thuẫn mới có cạnh
tranh, có phát triển và tồn tại.
Làm
chi có “Thế giới đại đồng”?
hoànglonghải
Tượng
Dương Quý Phi đang tắm
(1)- Năm 1956,
Phan Khôi sang Tầu, tham gia lễ kỷ niệm Lỗ Tấn. Trong cuốn “Trăm hoa đua nở
trên đất Bắc” của giáo sư Hoàng Văn Chì, trang đầu có in hình ông Phan Khôi đọc
diễn văn khi tham dự buổi lễ kỷ niệm ấy. Năm 1958, trên báo Văn (Hà Nội) có
đăng bài “Ông Năm Chuột” của Phan Khôi. Giáo sư Hoàng Văn Chì nhận xét về ông
Năm Chuột như là người tiêu biểu cho giai cấp vô sản Việt Nam, khôn ranh, láu
cá, ma mảnh. Độc giả có thể đọc “AQ. Chính Truyện” của Lỗ Tấn và “Ông Năm
Chuột” của Phan Khôi để đối chiếu!
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment