Cải
cách ruộng đất và hàng trăm ngàn cái chết oan ức
Posted by adminbasam on
11/09/2014
GS Nguyễn Văn
Tuấn
11-09-2014
Cộng Sản Việt Nam chuẩn bị
giao nước Việt cho Trung quốc
Sự kiện mang tên “Cải cách ruộng đất” (CCRĐ)
xảy ra ở ngoài Bắc và lúc tôi mới sinh, nên tôi cũng như phần lớn các bạn chỉ
biết về sự kiện qua báo chí, văn học, phim ảnh.
Sự thật kinh hoàng và đau
thương là hàng vạn, thậm chí hàng trăm ngàn người bị giết oan. Con số đó chắc
chẳng làm ai xúc động, nhưng hãy thử tưởng tượng 120,000 xác người! Bẵng đi một
thời gian dài, bây giờ người ta đem ra triển lãm về sự kiện kinh hoàng đó! Thật
chẳng khác gì triển lãm thành tích … giết người. Trong bài này, tôi chỉ muốn
chia sẻ cùng các bạn vài suy nghĩ cá nhân liên quan đến mục tiêu, con số tử
vong, và những câu chuyện tan thương trong vụ CCRĐ.
Cuộc CCRĐ không chỉ
xảy ra trong một thời điểm ngắn, mà kéo dài từ 1953 đến 1956, tức khoảng 4 năm
qua 5 giai đoạn. Những người chủ trương CCRĐ làm có vẻ rất bài bản và có hệ
thống. Khởi đầu là vận động và chuẩn bị hậu thuẫn của quần chúng, sau đó là ra
sắc lệnh, rồi làm thí điểm, và vào cuộc ồ ạt. Có vài nguồn nói rằng lúc đó Chủ
tịch Hồ Chí Minh không muốn làm CCRĐ, nhưng vì Tàu cộng gây áp lực lớn quá nên
đành phải làm. Tôi không biết luận điểm này khả tín ra sao, nhưng cảm thấy rất
khó chấp nhận, vì nó cho thấy rõ ràng là miền Bắc VN lúc đó chịu lệ thuộc Tàu
quá lớn.
Mục đích
CCRĐ để làm gì? Một
văn bản có tên là “Luật cải cách ruộng đất” do Chủ tịch Quốc hội Hồ Chí Minh kí
(1) ghi rõ:
“Điều 1. – Mục đích và
ý nghĩa cải cách ruộng đất là:
Thủ tiêu quyền chiếm
hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ
chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ,
Để thực hiện chế độ sở
hữu ruộng đất của nông dân,
Để giải phóng sức sản
xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công thương nghiệp
phát triển,
Để cải thiện đời sống
của nông dân, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, lực lượng của kháng chiến,
Để đẩy mạnh kháng
chiến, hoàn thành giải phòng dân tộc, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát
triển công cuộc kiến quốc.”
Dĩ nhiên, đó là “bề
nổi” của mục đích, còn “bề chìm” thì có lẽ hiểu một cách khác. Có thể mục tiêu
chính là xoá bỏ sự ảnh hưởng của giới giàu có và có học ở nông thôn. Thời đó,
đại đa số nông dân không biết chữ, và giới có học thường là người nhà giàu, và
những người này có thể nói là “proxy” lãnh đạo ở nông thôn. Người cộng sản muốn
độc quyền lãnh đạo nên phải xoá bỏ thành phần giàu và có học này. Theo tôi nghĩ
đó mới là lí do chính họ phát động cuộc CCRĐ.
Một lí do quan trọng
nữa theo tôi nghĩ là họ muốn làm cho nông dân phải biết sợ sức mạnh của người
cộng sản. Nên nhớ rằng phần lớn các cuộc khởi nghĩa hay nổi dậy đều xuất phát
từ nông dân. Nông dân tuy không có học nhiều nhưng một khi họ đoàn kết lại thì
trở thành một lực lượng rất khó khống chế. Do đó, người cộng sản phải thị uy
quyền lực của họ qua CCRĐ. Rất có thể mục đích này giải thích tại sao họ xử bắn
nạn nhân ngay trước mặt công chúng và người thân của nạn nhân. Có thể lúc đó
những người hành xử như thế không thấy họ là dã man hay thú tính, mà họ thấy họ
đã thị uy để khuất phục đám đông.
Một lí do khác là hệ
quả của hai lí do trên có thể là họ muốn xoá bỏ nền tảng đạo lí vốn đã tồn tại
qua hàng ngàn thế hệ của nông thôn VN. Họ muốn thay vào đó cái nền tảng đạo đức
xã hội chủ nghĩa mà họ mới du nhập từ Nga và Tàu vào. Đó chính là lí do tại sao
rất nhiều di tích lịch sử, đền đài, chùa chiềng bị đập phá một cách không
thương tiếc. Họ muốn đoạn tuyệt với lịch sử và văn hoá VN.
Một cách trớ trêu, tôi
nghĩ người cộng sản đã đạt được cả 3 mục tiêu chìm trên. Họ đã xoá sạch ảnh
hưởng của giai cấp giàu và có học ở nông thôn và biến họ thành những phế nhân
của xã hội. Họ đã thành công làm cho nông dân và cả xã hội nói chung phải sợ
trước họng súng, đúng như Mao từng nói “chính quyền sinh ra từ họng súng”. Và
sau cùng họ đã thành công một phần nào đó đoạn tuyệt với quá khứ và xoá bỏ ảnh
hưởng của tôn giáo. Nhưng thành công nào cũng đi kèm theo những hệ quả khôn
lường. Cái hệ quả lớn nhất, đau thương nhất, và kinh khủng nhất là giết chết
hàng vạn người vô tội.
Bao nhiêu người chết?
Hậu quả kinh khủng
nhất của CCRĐ là cái chết. Không ai có một con số thống kê chính xác về số
người bị xử và số người bị giết, chỉ có ước tính. Những ước tính từ các chuyên
gia trong và ngoài nước chênh lệch nhau rất lớn.
Nhưng dù chênh lệch, họ đều
nhất quán một điều là số người bị giết cao hơn 50,000. Tính trung bình mỗi ngày
có gần 70 người bị các đội CCRĐ giết chết. Đó là một con số rất lớn, một vết
thương dân tộc mang tính lịch sử mà tất cả chúng ta đều không được quên.
Trước hết, chúng ta
hãy thử đọc thống kê chính thức của Nhà nước. GS Đặng Phong, một sử gia về kinh
tế VN, đã dày công làm thống kê về CCRĐ và trong một cuốn sách “Lịch sử kinh tế
Việt Nam” ông đưa ra con số người bị giết trong thời kì CCRĐ là 172,008. Đó là
những người bị kết tội là kẻ thù của nhân dân, kẻ thù của giai cấp (2).
Nhưng chưa hết! Trong
số 172,008 người bị kết án và giết chết đó, sau khi tổng kết thì Nhà nước kết
luận rằng có đến 123,266 bị kết án oan. Nói cách khác, cứ 10 người bị kết án,
thì có 7 người bị oan. Thật ra, “oan” ở đây có nghĩa là theo quan điểm của họ
(người cộng sản) chứ trong thực tế có lẽ 100% đều là oan.
Nhưng giả dụ như 7/10
là oan, thử hỏi trên thế giới này có nơi nào mà án oan nhiều đến như thế. Điều
này không ngạc nhiên, bởi vì những người gọi là “chánh án” hay ngồi ghế xử tử
hình người khác toàn là loại “cóc nhái”. Sau đây là lời nói của một người từng
chứng kiến CCRĐ: “Ôi! Tôi còn nhớ như thế này, tôi chưa bao giờ thấy lịch sử
con người lại ngược đời như thế, đến nỗi phải nói là thời đại trâu bò đi “bí tất”,
cóc nhái nhẩy lên làm người, mõ sãi ngày xưa nhẩy lên làm chánh án, làm thẩm
phán. Thậm chí ngồi trên toà đấu bố mình.” (3)
Các chuyên gia nghiên
cứu ở nước ngoài cũng đưa ra những con số nạn nhân bị giết chết trong CCRĐ. Các
chuyên gia này dựa vào nguồn từ Việt Nam và suy luận, và kết luận rằng khoảng
50,000 đến 172,000 người bị giết chết (4-6) vì bị kết án là kẻ thù của nhân
dân.
Theo wikipedia, một
nguồn từ Bộ chính trị đảng CSVN thì chỉ tiêu tối thiểu là giết 1/1000 người
Việt (miền Bắc) trong giai đoạn “giảm tô”. Con số này có nghĩa là tối thiểu
14,000 người bị giết trong thời giảm tô. Dĩ nhiên, con số bị giết chết trong
các đợt CCRĐ kế tiếp phải cao hơn con số đó nhiều lần.
Một chuyên gia về đất
đai của VN là Lâm Thanh Liêm (miền Nam) người đã phỏng vấn nhiều cán bộ miền
Bắc đã hồi chánh cũng đưa ra một ước tính khác. Ông ước tính rằng số người bị
giết dao động trong khoảng 120,000 đến 200,000. Con số này có vẻ phù hợp với số
nhà và chòi của “địa chủ” được giao cho những người nông dân (những ông chủ
mới). Lúc đó, người ta (ai đó?) đặt ra một chỉ tiêu là 5.68% dân số phải là
“địa chủ”.
Nói tóm lại, các ước
tính trên đây rất chênh lệch nhau, nhưng tất cả đều nhất quán rằng có ít nhất
50,000 người bị giết trong thời kì CCRĐ. Con số “trung bình” có lẽ là 120,000
người. Dân số miền Bắc lúc đó là khoảng 12 triệu. Như vậy, có thể ước tính rằng
cuộc CCRĐ giết chết 1% dân số. Nếu tính trung bình trong 3 năm “cải cách” thì
mỗi ngày các đội CCRĐ giết chết gần 110 người. Nên nhớ là MỖI NGÀY có đến ~110
người bị hành quyết. Thật kinh khủng!
Những câu chuyện
thương tâm
Có rất nhiều câu
chuyện đau thương về hậu quả của CCRĐ. Đã có nhiều người viết thành sách, tiểu
thuyết. Ngay cả một người sắc máu như Tố Hữu mà còn phát biểu rằng “Không thể
tả hết được những cảnh tượng bi thảm mà những người bị quy oan là địa chủ, ác
bá (mà trong thực tế là trung nông) phải chịu đựng ở những nơi được phát động.”
Người bị xử bắn đầu
tiên trong vụ CCRĐ là bà Nguyễn Thị Năm. Bà là một ân nhân lớn của các ông như
Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê
Giản, Hoàng Hữu Nhân (Bí thư Thành uỷ Hải Phòng), Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng
Thế Thiện, v.v. Bà từng đóng góp cho Cácn mạng Tháng 8 20,000 đồng bạc Đông
Dương (tương đương 700 lượng vàng). Con trai của bà có người làm đến chức trung
đoàn trưởng trong quân đội Việt Minh.
Vậy mà khi CCRĐ xảy
ra, người ta đem bà ra xử và bắn chết! Các ông như Trường Chinh (lúc đó là
trưởng ban CCRĐ) và Chủ tịch Hồ Chí Minh ở đâu mà không can thiệp? Họ trả nghĩa
bà Năm như thế chăng? Thứ tình nghĩa gì mà quái gở như thế? Trong cuốn “Trần
Huy Liệu – Cõi đời”, tác giả Trần Chiến kể lại buổi đấu tố bà Năm như sau:
“Hôm ấy là ngày
22/5/1953, trời nắng chói chang. Để tránh cái nắng nóng nhiều người đã lấy cành
cây che đầu, nhưng vì làm như thế thì người ngồi sau sẽ bị che khuất nên Chủ
tịch đoàn đã yêu cầu mọi người vứt lá đi. Phiên tòa hôm ấy khoảng 1 vạn người.
Cũng như ngày trước,
Chủ tịch đoàn lại ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ
vào là đả đảo kịch liệt. Khi bà Nguyễn Thị Năm và hai con Hanh, Công (2) cùng
đầy tớ là đội Hàm, Chính, Chiêu được Đội dân quân dẫn vào các bần cố nông đã
bật dậy hô đả đảo vang trời. Có người còn đòi “bọn địa chủ gian ác” phải đứng
lên cao và quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy mặt để đả đảo.
Chủ tịch đoàn giới
thiệu từng tên “địa chủ ác ôn” và ngắc ngứ đọc lý lịch, nhưng không nêu tội ác
cụ thể. Cứ sau mỗi lần như vậy những người tham dự phiên tòa lại hô vang 3 lần:
“Đã đảo, đã đảo, đã đảo!”.
Đám đông đã tỏ ra hết
sức phẩn nộ trước thái độ của đội Hàm. Đôi mắt anh này cứ gườm gườm đầy thách
thức. Nhiều người đã hét lên yêu cầu lính gác phiên tòa “tát cho nó nảy đom đóm
mắt ra để nó cúi gằm mặt xuống mà nhận tội”. Rút kinh nghiệm lần trước, Chủ
tịch đoàn tuyên bố đề nghị quần chúng phải giữ vững trật tự và không cần đánh
đập tội nhân hay bắt quỳ, bò”.
…
Cũng có những người lên tố, nhưng do trình độ, học vấn không có nên nói không đạt ý, không rõ việc. Không ai hiểu họ nói gì. Một bà tên là Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những câu: “Mày đừng nhận là chủ đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức thôi” và “Mày nói nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe không hiểu tội bà Năm ở đâu.
…
Cũng có những người lên tố, nhưng do trình độ, học vấn không có nên nói không đạt ý, không rõ việc. Không ai hiểu họ nói gì. Một bà tên là Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những câu: “Mày đừng nhận là chủ đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức thôi” và “Mày nói nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe không hiểu tội bà Năm ở đâu.
Còn một ông tên là
Giồng tố cáo bà Năm đã cướp gánh cỏ của ông ta để cho ngựa của bà ăn và cướp cả
giỏ củ mài làm cho cả nhà ông ta phải nhịn đói.
Hài hước hơn cả là
trường hợp của một chị có tên là Lý. Chị Lý tố cáo rằng, chị ta là con nuôi của
bà Năm, được bà Năm trang điểm cho để định gả cho một võ quan Nhật. Nhưng sau
khi biết chị chỉ là thân phận tôi đòi, không có tiền của gì thì tên Nhật lại
không lấy và chị lại bị bà Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại
như trước. Nội dung tố cáo chỉ là thế, nhưng vì chị ta vừa nói vừa khóc nên
không ai rõ chị ta nói gì.”
Sau khi bà Năm bị tử
hình, một bài báo xuất hiện trên tờ “Nhân dân” có tựa đề là “Địa chủ ác ghê”
của tác giả kí tên là C.B. Bút danh này đã được ông Hồ Chí Minh dùng rất nhiều
lần trong thời gian đó. Do đó, người ta nghi ngờ rằng chính ông Hồ là tác giả
bài viết mang tính đấu tố này.
Đài RFA có hẳn một mục
dành cho những câu chuyện mang tính cá nhân về CCRĐ. Sau đây là vài câu chuyện
thật mà đọc lên chúng ta thấy không biết tại sao con người lúc đó quá tàn ác
với nhau.
Về những người tố cáo,
qua lời kể của Nhà văn Nguyễn Chí Thiện:
“Họ bị kích động
nhiều, bị kích động hơn là bị ép buộc anh ạ.
Nhưng số người mà sau này họ hăng
say lao theo thì đông, chứ còn số người miễn cưỡng lên thì ít thôi. Nhưng phải
nhớ một điều là từ đầu đã có một sự cưỡng bức rồi. Những người hăng say thì
không phải là tự họ họ lên đâu, mà họ không lên cũng không được. Qua quá trình
kể khổ rồi khơi sâu lòng hận thù thì nhiều người trở thành hận thù thật. Họ lên
họ làm việc đó.
Chỉ riêng trong gia
đình thôi thì là một sự miễn cưỡng rõ rệt anh ạ. Thí dụ như con dâu mà lên tố
bố chẳng hạn, tố là ông ấy hiếp mình thế nọ thế kia thì ăn nói nó có vẻ gượng
gạo, không có tinh thần hăng say như những người khác.
Có một điều đặc biệt
là, ông ta đã ngoài 60 rồi, mà ông ta vẫn cứ phải xưng cháu hoặc xưng con với
bất cứ một người nào lên đấu tố, dù người lên đấu tố chỉ đáng tuổi con ông
thôi. Thâm chí tôi còn nhớ một cô con gái lên tố ông ta thì ông ta cũng phải
xưng con với người con gái đó – con gái mình đẻ ra đấy ạ.”
Còn người ngồi ghế xử
án:
“Bây giờ nói đến tòa
án nhân dân mà ngồi xử thì toàn là nông dân thôi, toàn là nông dân họ sắp xếp
lên ngồi thôi. Chị làm “chánh án”, tôi còn nhớ chị ấy còn mù chữ nữa anh ạ,
không biết viết a,b,c thế mà lại lên làm chánh án.
Sau một ngày đấu tố
nhục nhã như thế rồi thì họ bắt đầu họ tuyên án. Họ tuyên án với tất cả những
tội ác mà địa chủ đã phạm phải, mà toàn bộ là bịa đặt thôi. Người ta tuyên án
ông ấy tử hình. Đặc biệt là trong quá trình đấu tố thì ông địa chủ này không có
quyền cãi mà chỉ có quyền bất cứ ai đấu tố thế nào đều chỉ có quyền “nhận tội”
– nhận tội lỗi của mình chớ không hề có một lời cãi nào được phép cả.”
Họ làm gì với nạn nhân
đã bi tử hình?
“Buổi hôm đó, tôi còn
nhớ là sau khi đấu tố xong thì lập tức có 6 anh du kích. 6 anh du kích này đứng
cách khoảng độ 2 mét… thế là bắn chết ông ta ngay. Sau khi bắn chết xong thì
chặt dây thừng – không phải là cởi nữa mà là chặt dây thừng, lấy con dao chặt
dây thừng ra và lôi ông ta ra chỗ cái hố đó. Xin nhớ một điều, không có áo quan
anh nhá. Thế là họ vất tụt xuống hố đó là lấp đất ngay lập tức thôi. Lấp đất
xong thì đất ấy cũng không được đấp thành mộ mà đấp bằng như bình thường thôi
chớ không đấp gồ lên như một khối u như là một mộ phần anh ạ. Đấy là điều mà
tôi chứng kiến tận mắt.”
Ông Nguyễn Văn Thủ kể
lại vụ xử cha mẹ của vợ nhà thơ Hữu Loan:
“Bà ấy lên, lật ngửa
mặt cụ ra, rồi chỉ vào tận mặt và nói: con Ly, tên bà cụ là Ly, vợ chồng mày ép
buộc tao, phải gả con gái cho con mày…rồi bà ấy khóc hu hu lên…rồi xin đội cải
cách cho đem con gái về… rồi bà ấy bảo là mày dụ dỗ con tao đi Nam để cho bố mẹ
lià con…
Lúc ấy, tự nhiên nó
như ma quỉ cám dỗ, người ta nhìn thấy nhà tôi, người ta như muốn ăn thịt luôn,
họ muốn làm gì thì làm. Lúc ấy, người nào càng hăng hái, càng tốt, càng đấu tố,
càng đánh đập, thì càng tốt. Có những người bị tử hình, ông cụ tôi bị kết án tử
hình, bắn chết ngay, lôi ra bắn chết ngay, bắn ngay trước mặt mọi người, con
cháu… Đấu tố bố mình, bắt phải ra nhìn…Còn những người khác bị tra tấn, bị chết
thì cho là họ tự tử, bắn thì rõ ràng rồi, mấy trường hợp…Cuối cùng thì sửa sai,
biết là sai lầm, rồi xin lỗi, thế thôi !”
Đối xử với nạn nhân
như là thú vật. Trung tá Trần Anh Kim kể:
“Toàn bộ những cái bố
tôi kể thì tôi còn ghi được nguyên cuốn băng. Cứ làm như thế, hàng ngày làm như
thế, làm để bắt nhận là Quốc Dân Đảng. Bố tôi không nhận QDĐ, bố tôi bảo rằng
bố tôi chẳng biết QDĐ là ai cả, chỉ biết đảng viên đảng CS thôi. Thế người ta
không quy được cho bố tôi QDĐ thì người ta lại đưa bố tôi lên địa chủ luôn.
Địa chủ ngày đó là địa
chủ “phân” anh ạ. Thí dụ mỗi một thôn là mấy địa chủ thì cứ thế người ta đưa
lên thôi. Cuối cùng thì cũng bị tù không án, hai năm. Mà khốn nạn hơn thời tôi
tù nhiều. Tức là tay thì trói cánh khuỷu ra đàng sau, chân thì cùm, quần áo thì
chẳng có mặc, cứ nằm như thế ở dưới sàn chuồng trâu thôi.
Lúc bấy giờ tôi còn
nhỏ, khoảng 10 tuổi, tôi mang cơm cho bố tôi thì khổ thế này: đầu tiên mang ra
ngõ thì mình cũng chẳng biết gì cả, lúc bắt bố tôi thì tôi biết nhưng bắt ông tôi
thì tôi không biết. Lúc bắt bố tôi thì tôi chỉ biết khóc thôi. Tôi thấy tự
nhiên người ta đến nhà mình, 5 người đến, người ta dằn bố mình ra người ta trói
mang đi, nói thằng này là QDĐ, trói mang đi thì mình chỉ biết khóc thôi. Không
biết làm gì cả.
Ra ngõ thì gặp đội,
thế là nó quát ầm lên: “thằng này con nhà QDĐ, cháu địa chủ, tại sao mày gặp
chúng tao mày không chào, mày không quì xuống”. Lúc bấy giờ biết đâu được, chỉ
khóc thôi. Tôi khóc và bắt đầu quỳ xuống, nó bảo từ nay trở đi mày gặp chúng
tao mày phải quỳ xuống, mày lạy các ông đội, xin phép các ông đội, xin phép các
ông cốt cán để tôi mang cơm cho ông tôi, cho bố tôi, thế thì chúng tao cho đi.
Thế thì cuối cùng từ đấy thì cứ quen như vậy. Cứ ra ngõ gặp người ta là phải
quỳ xuống, xong lại xin phép các ông cốt cán để tôi mang cơm cho ông tôi, cho
bố tôi. Gọi là cơm nhưng có cơm đâu, chủ yếu là khoai thôi.
Nắm cơm mang xuống thì
thế này. Người ta dùng ngay cái trét xúc cứt đấy ông ạ, xúc phân gà, nó xắn vào
chén cơm. Tôi cũng chẳng biết gì cả, tôi chỉ biết người ta làm như vậy thôi.
Nhưng ông thôi thì rất hăng. Ông tôi bảo tại sao lại phải làm như vậy thì nó
bảo là phải kiểm tra xem bọn địa chủ nó có tiếp tế cho nhau không, nó có thông
tin cho nhau không, chúng ta phải kiểm tra.
Có hôm thì họ làm như
vậy, có hôm thì không có trét, nó rút ngay cái cọc ở chuồng lợn bên cạnh con
trâu, thế thì họ chọc vào cơm, chọc luôn vào khoai, bảo chúng tao phải kiểm
tra. Năm đó thì có gì đâu, có cái gáo dừa thôi mà. Cái gáo dừa treo hai cái dây
lủng là lủng lẳng đem nước vô cho ông – nó đổ đi một nữa xong nó đái vào đấy.
Tôi cũng chẳng biết gì, chỉ biết như thế thôi.
Nhưng ông tôi quát rầm
lên thì nó bảo rằng cho chúng mày uống để mà sáng mắt ra, cho chúng mày hết tư
tưởng bóc lột, hết tư tưởng ức hiếp nhân dân. Nó cứ chửi ông tôi như thế – tôi
cũng chỉ biết khóc, chẳng biết làm thế nào cả. Mình chỉ mang đi cho ông, mang
đến chỗ thì lại về rồi.”
***
Những câu chuyện
thương tâm về CCRĐ thì cả bộ sách viết cũng chưa chắc đủ. Nhưng tôi có cảm giác
là hình như vẫn chưa có những nghiên cứu hàn lâm về CCRĐ và hậu quả của nó, một
phần có lẽ do thiếu thông tin (vì Nhà nước VN không cung cấp), một phần do bản
chất “tế nhị” của vấn đề nên các nhà nghiên cứu trong nước không muốn/dám động
đến.
Với hàng trăm ngàn
người chết mà cho đến nay chẳng ai đứng ra chịu trách nhiệm về những tang
thương xảy ra trong thời CCRĐ. Ngược lại, người ta còn có vẻ tự hào triển lãm
những thành quả của CCRĐ! Mà, cuộc triển lãm cũng chỉ là những trưng bài mang
tính một chiều, mà không dám trưng bày những góc cạnh tối của sự kiện. Người ta
chỉ tuyên bố theo kiểu sáo ngữ như “Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng
dân chủ ‘long trời lở đất’, mang lại những giá trị to lớn của một xã hội mới,
một chế độ mới, một cuộc sống mới cho người dân Việt Nam”, nhưng không dám nói
lên sự thật về hàng trăm ngàn cái chết oan. Thật tình mà nói, tôi không rõ CCRĐ
đã đem lại cuộc sống mới và giá trị mới gì, nhưng có lẽ đó là sự thành công
trong việc xoá bỏ giai cấp “trí hào” ở nông thôn và nền tảng đạo lí của xã hội
VN.
Chúng ta đã thấy xoá bỏ giai cấp đó thì dần dần hình thành một giai cấp
thống trị mới xem ra còn khắc nghiệt hơn và hệ thống hơn giai cấp trí hào cũ.
Cuộc CCRĐ còn làm đảo
lộn luân thường đạo lí của xã hội VN. Có người Việt bình thường nào có thể
tưởng tượng nổi con đấu tố cha, con dâu tố cha chồng, vợ đấu tố chồng, v.v. Tất
cả đều chỉ là làm theo những vở kịch đã được diễn tập, hoặc bị kích động. Đây
phải nói là một đề tài nghiên cứu tâm lí rất độc đáo.
Một con người bình thường
khi được trang bị cho một thứ chủ thuyết nào đó họ sẽ trở thành những tên sát
nhân nguy hiểm. Đó là bằng chứng từ nghiên cứu vào thập niên 1950. Có lẽ những
người đứng đằng sau cuộc CCRĐ đã rành những chứng cứ đó nên họ áp dụng rất
thành thục, và hệ quả là một xã hội bị đảo lộn về tôn ti trật tự. Sự đảo lộn
vẫn còn để lại hệ quả cho đến ngày hôm nay.
Một trong những ông tổ
cộng sản và cũng là tên đồ tể giết người không gớm tay là Josef Stalin từng nói
rằng “một cái chết là một thảm trạng; hàng triệu cái chết là một con số thống
kê” (The death of one man is a tragedy; the death of millions is a statistic).
Câu nói lạnh lùng hàm ý rằng giết một người thì sẽ có người quan tâm làm lớn
chuyện vì họ động lòng, nhưng giết hàng triệu người thì chẳng mấy ai quan tâm
vì người ta sẽ mệt mỏi với sự thương tâm (emotional fatigue) và nó chỉ là con
số thống kê. Đối với nhà độc tài như Stalin thì mạng sống con người chẳng có
nghĩa lí gì vì nó như là một con số thống kê.
Chúng ta thường hay
kinh hãi trước những cái chết trong cuộc “cách mạng văn hoá” ở Tàu với hàng
chục triệu người bị giết oan. Nhưng trớ trêu thay, ít người trong chúng ta kinh
hãi trước 120,000 người hay 1% đồng hương của mình bị giết chết trong thời
CCRĐ! Có người nghĩ rằng sự kiện CCRĐ là chuyện quá khứ, đảng và Nhà nước đã
chính thức xin lỗi, nhắc lại làm gì. Nhưng tôi nghĩ suy nghĩ đó không đúng.
Nhắc lại hay nghiên cứu về sự kiện trong lịch sử không phải để trả thù ai, mà
để học hỏi từ những bài học quá khứ. Có triết gia từng nói và tôi đồng ý: Những
kẻ nào không học từ lịch sử thì sẽ có ngày lặp lại những sai lầm của quá khứ.
Do đó, phải học từ những sai lầm trong quá khứ để không vấp phải chúng một lần
nữa.
Cải cách ruộng đất: Lệ thuộc Nga – Tàu?
Posted by adminbasam on
12/09/2014
GS Nguyễn Văn
Tuấn
12-09-2014
Có lẽ chẳng phải
là một “phát hiện” vì hai lá thư dưới đây đã xuất hiện khá lâu trên mạng. Đó là
hai lá thư cụ Hồ Chí Minh gửi cho Stalin vào ngày 30/10/1952 và 31/10/1952. Nội
dung thư vừa báo cáo vừa xin ý kiến chỉ đạo của Stalin về cuộc “Cải cách ruộng
đất” (CCRĐ). Hai lá thư là chứng từ cho thấy thời đó miền Bắc VN quá lệ thuộc
vào Tàu và Nga (Liên Xô).
Lá thư thứ nhất
đề ngày 30/10/1952 báo cáo cho Stalin biết rằng ông (Hồ Chí Minh) đang soạn đề
án CCRĐ. Ngoài việc xin viện trợ về thuốc men và vũ khí, ông xin được “chỉ thị”
của Stalin về vấn đề CCRĐ.
Lá thư thứ hai
thì ngắn hơn thư thứ nhất. Đáng chú ý trong thư này là chương trình hành động
CCRĐ có sự trợ giúp của Lưu Thiếu Kỳ (?) và một người Tàu khác tên là Văn Sha
San (*). Thư ghi rõ
ràng là xin được “chỉ dẫn”.
Miền Nam cũng có
cải cách điền địa dưới cái tên (tôi nghĩ) hay hơn: “Người cày có ruộng”. Nhưng
khác với CCRĐ ở ngoài Bắc, người cộng sản du nhập “đấu tranh giai cấp” vào công
cuộc cải cách, ở miền Nam người ta thực hiện một cách êm thắm, không có ai chết
hay bị oan ức (ít ra là trên báo) và cũng chẳng có đấu tố man rợ như vụ CCRĐ
ngoài Bắc. Chính quyền miền Nam lúc đó chẳng xin chỉ thị hay xin hướng dẫn của
ai. Có thể đọc bài của Ts Nguyễn Tấn Hưng để biết thêm chi tiết và thống kê
thời “Người
cày có ruộng”.
Hai lá thư của cụ Hồ thêm những chứng từ về sự lệ thuộc vào Tàu
và Liên Xô của chính quyền ngoài Bắc. Không ai ngạc nhiên về sự lệ thuộc ngoại
bang thời đó. Nhưng vấn đề là chính quyền ngoài Bắc tuyên truyền rằng chính
quyền miền Nam lệ thuộc vào Mĩ. Nói theo cách nói của Tây là vườn nhà mình
không sạch mà chõ miệng sang chê vườn nhà người ta dơ.
====
Thư
ngày 30-10-1952
Tôi đã bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng
Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.
- Tôi gửi tới đồng chí một số yêu cầu, và hi vọng sẽ nhận
được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.
1. Cử một hoặc 2 đồng chí Liên Xô tới Việt Nam để làm quen
và tìm hiểu thực trạng ở đó. Nếu như các đồng chí đó biết tiếng Pháp đủ để có
thể giao tiếp với nhiều người. Từ Bắc Kinh tới chỗ chúng tôi đi đường mất
khoảng 10 ngày.
2. Chúng tôi muốn gửi tới Liên Xô 50-100 du học sinh, với
trình độ văn hóa lớp 9 ở Việt Nam, trong số họ có người là Đảng viên và cũng có
ngừơi chưa phải là Đảng viên, độ tuổi của họ từ 17-22. Đồng chí nhất trí về vấn
đề này chứ.
3. Chúng tôi muốn nhận từ phía các đồng chí 10 tấn thuốc
kí ninh ( thuốc sốt rét) cho quân đội và dân thường, có nghĩa rằng 5 tấn trong
nửa năm
4. Chúng tôi cần những loại vũ khí sau
(a) Pháo cao xạ 37 li cho 4 trung đoàn, tất cả là 144 khẩu
và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu pháo.(b) Pháo trận địa 76,2 li cho 2 trung đoàn,
tất cả là 72 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu(c) 200 khẩu súng phòng không
12,7 li và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu
Sau khi nhận chỉ thị của đồng chí về những vấn đề trên,
tôi dự định vào ngày mùng 8 hoặc là mùng 9 tháng 11 sẽ rời khỏi Moscow.
Gửi tới đồng chí lời chào cộng sản và lời chúc tốt đẹp
nhất
Hồ Chí Minh
30-10-1952 (đã ký)
30-10-1952 (đã ký)
(Trong bức thư thứ 1, Hồ Chí Minh ký tên Tàu.)
=====
Thư
ngày 31/10/1952
Đồng chí Stalin thân mến:
Xin gửi ngài chương trình cải cách ruộng đất của Đảng lao
động Việt Nam.
Chương trình hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp
đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San (*).
Đề nghị ngài xem xét và cho chỉ dẫn.
Gửi lời chào cộng sản.
Hồ Chí Minh, 31/10/1952
Nguồn: FB Nguyen Tuan
——
(*) Ghi chú của trang BS: Lưu Shao
Shi và Văn Sha San là Lưu Thiếu Kỳ và Vương
Giá Tường
MẸ
TÔI TRONG CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Posted by adminbasam on 14/09/2014
Trần Mạnh Hảo
14-09-2014
Năm
cải cách ruộng đất ở làng tôi sau tết 1956-1957, là đợt long trời lở đất cuối
cùng của cuộc tắm máu, trời rất rét, nạn rận chấy hành hạ dân chúng khủng khiếp
hơn bao giờ, có nguy cơ chết vì rận chấy nhiều hơn là chết vì đảng bác xử bắn
oan , (xử bắn, đấu tố toàn người tốt, người nghèo bị quy oan do số phần trăm
đảng đội áp đặt lên từng làng từng xã). Nếu không có nạn rận chấy năm đau
thương khốn khổ tột cùng ấy, có lẽ ba mẹ con tôi đã chết đói ( vì bố tôi đang
bị đảng- đội bắt giam tội địa chủ) vì không có hạt gạo nào để nấu cháo…
Các bạn biết tôi hành nghề gì để cứu đói cả nhà trong khi
mới chỉ 10 tuổi đầu ? Tôi làm nghề bắt rận thuê cho các gia đình cán bộ và gia
đình các ông bà ông nông dân bần cố vừa được chia của từ các gia đình phú nông
địa chủ. Chẳng là thấy có đứa bạn gái cùng học vỡ lòng với tôi con ông đội
trưởng xóm tôi ngồi bắt rận khi tôi đi qua nhà nó, nó hét lên sợ hãi vì rận bám
đầy quần áo nhà nó. Thấy tôi đi qua, nó bảo : thằng con địa chủ Hiền kia, mày
vào bắt rận giúp tao, tao bảo bố tao cho mày bò gạo về ăn cho khỏi chết đói…
Tôi hăng tiết, bắt rận giúp nó nhanh hơn khỉ, bắt được con
nào cũng cho vào miệng cắn cái bép, khiến môi tôi đỏ như ăn trầu. Tôi bắt một
buổi sáng hết sạch rận trong đống áo quần hôi như cú của nhà con gái ông cán
bộ…Gia đình ông trưởng xóm cho tôi đúng một bò gạo vì công bắt rận tài ba. Tôi
mơ ước làm giàu bằng nghề bắt rận. Cầm tí gạo gói trong lá khoai ngứa, đi qua
nhà thờ, tôi quỳ xuống làm dấu thánh giá xin với Chúa và Đức Mẹ rằng : con cám
ơn Chúa và mẹ Maria, con xin Chúa ban cho làng con, xã con, tỉnh con, nước con
mãi mãi tràn ngập rận chấy để con làm giàu bằng nghề bắt rận thuê. Cứ như vậy,
thiên tài bắt rận thuê của tôi vang lừng thôn xóm. Ngày nào tôi cũng kiếm được
gạo, một hay hai bò (bơ, lon) gạo về nấu cháo cho mẹ và hai em ăn khỏi chết
đói…
Hôm
đó khoảng gần 12 giờ trưa tôi về nhà sau khi đã được trả công gần hai lon gạo
vì bắt rận thuê cho hai gia đình cán bộ thôn thì nghe nhà tôi có biến. Đám
người bần cố nông quá đông đúc kéo đến nhà tôi dỡ nhà, dỡ bếp vì họ được đội
cải cách chia cho mọi tài sản trong nhà tôi từ cái thìa cái đũa đến cái bát,
cái mân , cái nồi con dao cái thớt…
Tôi khiếp đảm thấy mẹ tôi vừa khóc vừa chửi bọn chúng và
hai tay cầm hai con dao bầu nhọn hoắt đang xông vào đâm ông Xoan, ông Chúc (
hai ông bần cố nông này được chia cái nhà chính của ông nội tôi đã di cư để
lại), hai ông tí chết vì hai nhát dao đâm sẩy của mẹ tôi. Hình như mẹ tôi điên
rồi, vừa chửi vừa quyết sống mái với bọn đến dỡ nhà cướp của. Mẹ tôi vừa khóc
vừa dứ dứ hai con dao quyết lao vào đâm bọn dỡ nhà, khiến một tên vừa leo lên
mái sợ quá đã ngã xuống gãy chân. May mà có mấy người bà con hàng xóm đến hỗ
trợ mẹ tôi. Tôi bỏ gói gạo trong lá khoai xuống đất, hai tay cầm hai cục gạch
đứng bên mẹ nói : tao thề chết bảo vệ mẹ tao, chúng mày ác Chúa phạt liền đó,
thấy chưa, ngã xuống đất gãy chân kìa…Mẹ tôi lên cơn rồi, bà quyết sống chết
bảo vệ căn nhà chính mà không đủ sức bảo vệ cái bếp đang bị mấy người bần cố
nông khác dỡ mất, phá cướp sạch rồi…
Mẹ tôi vừa khóc vừa múa dao kể rằng : bớ bọn ác nhân kia,
bố chồng tao đêm nào cũng đi cất vó, ngày nào cũng ra đồng cày bừa với ông Mục
cày thuê cho hai mẫu ruộng sao địa chủ được. Chúng mày cứ xông vào cướp, xông
vào dỡ nhà đi, tao sẽ đâm chết hết chúng mày rồi có bị Hồ chủ tịch cắt lưỡi,
xẻo vú cũng cam lòng…Nào thằng kia, con kia, leo lên mái nhà thử coi, tao đâm
chết ngay thằng Xoan, thằng Chúc liền này…
Lão Xoan, lão Chúc gọi dân quân đến với súng ống lên đạn
cạch cạch nghe chết khiếp… Tôi nghĩ phen này chúng nó bắn mẹ mình rồi, hai tay
tôi vẫn cầm hai cục gạch chạy đến đứng trước bụng mẹ. May mà có ông Bính bí thư
làng (người chuyên làm nghề ăn trộm ăn cắp) đến kịp nói nhỏ vào tai lão Thảnh
đội trưởng đội dân quân một lúc thì đội dân quân du kích rút đi… Sau này mới
biết ông Bính (người từng mê mẹ tôi khi mẹ chưa lấy bố tôi) nói với dân quân
rằng: “Nhà thằng Ký Sinh (ông nội tôi đã di cư) và con là thằng Hiền chồng con
điên kia đã nằm trong danh sách sửa sai xuống thành phần…”
Lão Xoan, lão Chúc hai tên bần cố nông chuyên ăn trộm thấy
tình thế không thể dỡ nhà mang đi được vì sợ con mẹ điên cầm dao đang quyết đâm
chúng nếu không có mấy bà con giữ tay can gián, bèn lủi mất… Mẹ tôi gục xuống
đống gạch vụn của căn bếp ba gian vừa bị chúng cướp phá dỡ mang đi từ hòn gạch,
khóc rồi ngất luôn, không còn thời gian đâu ra ngăn bà Y đang phá cổng nhà tôi
lấy gạch…
Chiều đó, mẹ tôi vẫn phải ra đồng bắt cá về cho ba đứa con
ăn với cháo do thằng Hảo bắt rận thuê mà có được tí gạo. Khi mẹ về, giỏ cá đã
mất, vì bị bọn ông bà ông nông dân chăn trâu cướp mất giỏ cá, lại bị chúng dùng
roi trâu quất lên mặt mẹ ba con lươn đỏ như máu vì mẹ quên khoanh tay cúi chào
bọn trẻ trâu đang cưỡi trâu trên đường theo quy định của đảng –bác – đội rằng:
con vợ địa chủ Hiền, con dâu địa chủ đại gian đại ác Ký Sinh đã theo giặc vào
Nam kính chào kính lạy ông bà ông nông dân cưỡi trâu ạ…
Chuyện về mẹ tôi còn dài, viết một cuốn tiểu thuyết về bà
cũng không hết, kỳ sau xin kể tiếp…
Sài Gòn 14 – 9 – 2014
T.M.H.
Cải Cách Ruộng Đất (của Võ
Trường Sơn)
Đây là tài liệu nghiên cứu công phu của Võ Trường Sơn
Tài liệu mô tả những sự thật rõ ràng về Cải Cách Ruộng Đất
mà Hồ chí Minh và đảng Việt cộng miền bắc đã đề xướng
và thi hành đẫm máu kinh hoàng hồi thập niên 1959.
Theo lệnh của Mao Trạch Đông và đồng bọn cộng sản
Tàu,
qua chính sách cải tạo xã hội tàn bạo ghê rợn: chúng
cướp tài sản ruộng vườn nhà cửa, giết mấy trăm ngàn
dân chúng & cán bộ, tàn phá cấu trúc và đạo lý xã hội
Việt Nam. Một tội ác to lớn, Việt Cộng không thể che dấu!
Việt Nam. Một tội ác to lớn, Việt Cộng không thể che dấu!
KÍNH NHỜ QUÝ VỊ PHỔ BIẾN RỘNG RÃI
Cải Cách Ruộng Đất (của Võ
Trường Sơn)
Cuộc cải tạo Nông Nghiệp tại miền Bắc
-Những Vấn đề căn Bản
-Bối cảnh
-Chiến lược và sách lược
-Những Vấn đề căn Bản
-Bối cảnh
-Chiến lược và sách lược
Những giai đoạn đấu tranh trước 1954
-Chính sách thuế nông nghiệp
-Giai đoạn đấu tranh chính trị
-Đấu tranh giảm tô
-Chính sách thuế nông nghiệp
-Giai đoạn đấu tranh chính trị
-Đấu tranh giảm tô
Giai đoạn đấu tranh sắt máu sau 1954
-Giai đoạn đấu tranh đẫm máu
-Phản ứng của nhân dân đưa đến quyết định sửa sai
-Cuộc đấu tranh tiếp theo của nhân dân miền Bắc
-Phản ứng của nhân dân đưa đến quyết định sửa sai
-Cuộc đấu tranh tiếp theo của nhân dân miền Bắc
Mục tiêu của Hợp Tác Hóa Nông Nghiệp
-Giai Đoạn Tổ Đổi Công
-Giai Đoạn Hợp Tác Xã Cấp Thấp
-Giai Đoạn Hợp Tác Xã Cấp Thấp
* Nguyên Tắc Căn Bản
* Chế Độ Đóng Góp
* Chế Độ Hưởng Thụ
* Phản Ứng Của Nông Dân
* Chế Độ Đóng Góp
* Chế Độ Hưởng Thụ
* Phản Ứng Của Nông Dân
Xây dựng lực luợng để xâm chiếm miền Nam
-Tổng Biên Chế Quân Đội Miền Bắc
-Xây Dựng Các Công Trình Sản Xuất Chiến Lược
-Cơ Sở Quân Sự và Xa lộ Chiến Lược
-Xây Dựng Lực Lượng Chính Quy Bắc Việt
-Xâm Chiếm Miền Nam
-Tổng Biên Chế Quân Đội Miền Bắc
-Xây Dựng Các Công Trình Sản Xuất Chiến Lược
-Cơ Sở Quân Sự và Xa lộ Chiến Lược
-Xây Dựng Lực Lượng Chính Quy Bắc Việt
-Xâm Chiếm Miền Nam
(bấm vào link này đọc
Cải Cách Ruộng Đất (của Võ
Trường Sơn)
-------------------------------------------------- (Bài trích)---------------------------------------
I. Những Vấn Đề Căn Bản Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Vào tháng Mười năm 1987, nông dân tại một số tỉnh thuộc
đồng bằng Cửu Long đã biểu tình chống đối Việt cộng vì những hành động tham
nhũng và cướp giật ruộng đất do cán bộ Việt cộng chủ xướng nhân cuộc "cải
cách ruộng đất năm 1983".
Ngày 9 tháng 11, 1987, hàng trăm nông dân từ các tỉnh miền
Tây đã tổ chức biểu tình chống chính quyền Việt cộng ngay tại Sài Gòn. Pháp Tấn
Xã tại Sài Gòn mô tả một tình trạng náo loạn chưa từng thấy kể từ năm 1975.
(Thật ra, kể từ khi Việt cộng trục xuất các phóng viên báo chí và truyền hình
ra khỏi Việt Nam vào năm 1976 thì truyền thông Tây phương hầu như mù tịt về
tình hình Việt Nam. Mãi cho tới 1986, 1987, khi Nguyễn Văn Linh cho phép báo
chí, truyền hình Tây phương trở lại Việt Nam trong mục đích ve vãn dư luận quốc
tế, thì báo chí mới bắt đầu nhìn thấy một số hiện tượng bề ngoài với một mức độ
hạn chế).
Những biến cố nói trên tương đối ôn hoà nếu ta so sánh với
vụ Khởi nghĩa của Nông dân Quỳnh Lưu bị đàn áp đẫm máu vào năm 1956, vụ thanh
niên Nam Bộ tập kết đốt phá bót Cảnh sát bờ hồ Hà Nội, vụ đảng viên Việt cộng
tìm nhau để chém giết trả thù nhân vụ Cải tạo Nông nghiệp đưa đến biện pháp
"sửa sai". Lý do chính khiến có sự khác biệt về mức độ bạo động là vì
hoàn cảnh chính trị đã khác nhiều; năm 1983, bạo quyền Việt cộng đã cực kỳ suy
yếu, ruỗng nát so với năm 1956, và nhân dân ta ở trong Nam đã được tổ chức và hướng
dẫn để đề kháng một cách hữu hiệu hơn thời gian 30 năm trước. Do đó, Việt cộng
đã không dám thực hiện các biện pháp mạnh tay trong chính sách ruộng đất. Mặc
dầu hai cuộc Cải cách Ruộng đất có khác nhau ở mức độ sắt máu; nhưng, những vấn
đề căn bản của cả hai cuộc Cải cách Ruộng đất của Việt cộng chỉ là một: Đó là
các vấn đề Bản Chất, Mục Tiêu và Hậu Quả.
1. Bản Chất Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Quan niệm Cải cách Ruộng đất không phải là quan niệm mới
mẻ. Montesquieu, trong tác phẩm "Espuis des Lois" năm 1748, có viết
rằng:"Trong một nền dân chủ tốt, chia đều đất đai chưa đủ; cần phải
chia nhỏ ruộng đất như người La Mã đã làm" (xem tác phẩm
"Espuis des Lois", quyển V, chương VI). Trong các chế độ dân chủ, bản
chất của Cải cách Ruộng đất là hữu sản hoá dân nghèo để giúp họ có cơ hội phát
triển và xây dựng đời sống kinh tế bắt đầu từ mảnh đất mà họ làm chủ, dù chỉ là
một mảnh đất nhỏ.
Trong các chế độ Cộng sản, bản chất của Cải cách Ruộng đất
là đảo lộn toàn bộ tổ chức xã hội bằng cách phế bỏ quyền tư hữu đối với tất cả
ruộng, đất, vườn, ao, hoa màu, trâu bò và dụng cụ sản xuất như cày, bừa, cuốc,
xẻng, cối xay lúa, cối giã gạo, v.v.... Nói theo ngôn ngữ Việt cộng, đó là tiến
hành cuộc Cách Mạng Quan Hệ Sản Xuất trong đó có việc thay đổi quyền
làm chủ đất đai, quyền làm chủ tư liệu sản xuất, và thay đổi quan
hệ giữa người với người (tức là tương quan chủ - thợ). Có lẽ sự thay
đổi tương quan chủ - thợ có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất đối với số phận của
tất cả mọi nông dân từ bần nông đến chủ đất, vì nó biến họ vĩnh viễn thành
những người thợ vô sản phục vụ cho chủ nhân ông Cộng sản, trong một tương quan
na ná hoặc tệ hơn một nông nô dưới chế độ phong kiến. Một hệ luận quan trọng
của việc phế bỏ quyền tư hữu là sự tập trung đất đai vào tay nhà nước trong chế
độ Cộng sản, thay vì chia nhỏ đất đai như trong một chế độ dân chủ. Điều này
không phải là điều tình cờ phù hợp với mục tiêu của Cải cách Ruộng đất mà ta đề
cập dưới đây.
2. Mục Tiêu Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Mục tiêu tối hậu của việc phế bỏ quyền tư hữu đất đai là
để giành giật khả năng và quyền lực chính trị khỏi tay nông dân, và tập trung quyền
lực chính trị đó vào tay chế độ chuyên chính vô sản. Những người thợ và trí
thức vô sản bị mất hết quyền lực chính trị vì họ bị khống chế bởitên chủ Việt
cộng qua hệ thống hộ khẩu và chế độ bình công chấm
điểm. Họ chỉ được đủ ăn tới một mức... lúc nào cũng còn đói, nếu họ tuân
theo những quy luật do "tên chủ" Việt cộng đề ra. Trong tay họ không
có tài sản, không có tiền, không có vũ khí; họ bị cô lập bởi hệ thống công an,
bởi thế; về phương diện quyền lực chính trị, mỗi nông dân là một con số không
trong chế độ Cộng sản. Trong một chế độ dân chủ, một nông dân dù nghèo rớt cũng
còn có một chút vốn kinh tế vì họ còn làm chủ được tấm thân của họ, nghĩa là họ
còn có một chút quyền lực chính trị. Đem gom góp hàng triệu những quyền lực
chính trị nho nhỏ đó, người ta có thể tạo nên một thế lực tương đối lớn để tự
bênh vực mình.
Trong chế độ Cộng sản, nếu đem gom góp một triệu con số
không (của quyền lực chính trị của mỗi nông dân), ta cũng vẫn chỉ được một con
số không thiệt to. Hiểu được như thế, ta hiểu được hậu quả của cuộc cải cách
ruộng đất đối với việc củng cố bộ máy đàn áp kềm kẹp của Việt cộng ở miền Bắc.
3. Hậu Quả Ngắn Hạn Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Qua sự tập trung đất đai, phương tiện sản xuất và đoàn ngũ
hoá nông dân thành giai cấp nông nô sau cuộc Cải tạo Nông nghiệp, Việt cộng
hoàn toàn nắm hết tài nguyên, lương thực, khởi sự xây dựng các nông trường quốc
doanh, chuẩn bị đạo quân xâm lược Lào và miền Nam Việt Nam (Việt cộng gọi là
lấy lương thực phục vụ chiến trường "C" và "B"). Hậu quả
trước mắt của cuộc Cải tạo Nông nghiệp là giúp Việt cộng xây dựng cơ sở vật
chất để tiến hành chiến tranh. Hậu quả pháp lý của cuộc Cải tạo Nông nghiệp là
việc định chế hoá các cơ cấu quyền lực địa phương để tiến hành đấu tranh phi
quy ước trong nội bộ chống lại nhân dân miền Bắc. Nói một cách rõ hơn, các hợp
tác xã nông nghiệp tại địa phương chính thức trở thành các cơ sở ban phát quyền
lợi, thực thi chính sách và Bí thư Hợp tác xã, Bí thư Chi bộ xã là những kẻ có
toàn quyền sinh sát tại nông thôn đã biến thành các cường hào ác bá dưới triều
đại xã hội chủ nghĩa của "Rợ Hồ". Tóm lại, những hậu quả ngắn hạn và
trước mắt là những điều có lợi cho việc củng cố quyền lực chính trị của giai
cấp thống trị Cộng sản. Nhưng, hậu quả về lâu về dài là một vấn đề khác.
+
4. Hậu Quả Dài Hạn Của Cải Tạo Nông Nghiệp
Là một vấn đề mà Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí
Minh và cấp đầu lãnh các Đảng Cộng sản không nhìn thấy, hoặc vì ảo tưởng trên
mây nên đã nhìn sai và tiên đoán sai. Đó là những vấn đề liên quan đến năng
suất lao động, năng suất đất đai, cơ cấu sản xuất và thị trường, đưa đến những
bế tắc trong nền kinh tế của mọi quốc gia Cộng sản. Vì chủ quan nghĩ rằng quyền
lực chính trị có thể giải quyết và "cả vú lấp miệng em" đối với mọi
bài toán trong xã hội, các cấp đầu lãnh Cộng sản, và Việt cộng nói riêng, đã bị
vỡ mặt khi những bế tắc kinh tế vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của Đảng và
các cơ cấu quyền lực chính trị địa phương biến thành các "sứ quân" tự
chuyên, tự quản nền kinh tế quốc gia. Nhưng, đây là những chi tiết mà ta sẽ
thảo luận khi đi sâu vào các bài nghiên cứu sắp tới.
Một câu hỏi được đặt ra ở đây là cuộc Cải tạo Nông nghiệp
tại Bắc Việt đã diễn ra trong hoàn cảnh nào? Để trả lời câu hỏi này, loạt bài
nghiên cứu sắp tới sẽ trình bày về bối cảnh Địa lý, Kinh tế, Xã hội và Chính
trị của giai đoạn 1949-1957 được tóm lược trong Phần II dưới đây.
Xem toàn bộ tài liệu (bấm vào link này đọc)
Cải Cách Ruộng Đất (của Võ
Trường Sơn)
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment