Tin
về Biển Đông...
TT
TT
ĐÁNH THỨC LƯƠNG TRI TRUNG HOA
Tống
Văn Công
Ngày 22-7 Trung Quốc khai trương
hoạt động trái phép Trạm thu phát sóng di động (BTS) 3G trên đảo Phú Lâm thuộc
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ngày 23-7 họ tổ chức cuộc họp Hội đồng Nhân dân
khóa 1 của cái gọi là thành phố Tam Sa, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa của Việt Nam. Từng ngày, họ ngang nhiên xâm phạm chủ quyền nước ta, chà đạp
lên chính chữ ký của họ thỏa thuận DOC, cam kết cùng đối thoại, hợp tác vì ổn định
và tin cậy trong khu vực.
Để chống lại có hiệu quả những bước leo thang xâm lược
của Bắc Kinh, rất nhiều việc đặt ra trước chúng ta: Trước hết, mọi người Việt
Nam cần nhận thức sâu sắc trách nhiệm trước họa ngoại xâm, đoàn kết, sẵn sàng
gánh vác mọi việc để nâng cao nội lực của đất nước, đặc biệt là kinh tế và quốc
phòng. Về đối ngoại, phải tranh thủ bạn bè ở các quốc gia dân chủ, làm cho nhân
loại tiến bộ hiểu chúng ta, một dân tộc yêu chuộng hòa bình và công lý, đang là
nạn nhân của chủ nghĩa bành trướng, bá quyền.
Khơi dậy lương tri Trung Hoa là một
việc vô cùng hệ trọng trong cuộc đấu tranh này. Phải luôn luôn phân biệt rạch
ròi giữa nhà cầm quyền Bắc Kinh nham hiểm với nhân dân Trung Hoa vốn sống theo
đức nhân của Khổng Tử với nội dung là “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều gì
mình không muốn thì đừng gây cho người khác).
Tất cả bọn bạo quyền, xâm lược
xưa nay đều rất coi trọng việc tuyên truyền , đầu độc quần chúng bằng những điều
dối trá. Bộ trưởng Bộ tuyên truyền Đức quốc xã P.J. Goebbels nổi tiếng với câu:
"Nói 10 lần người ta chưa tin, thì nói 100 lần họ sẽ tin”. Bọn bành trướng
Bắc Kinh còn cao thủ hơn, họ đưa vào sách giáo khoa các vùng biển và các quần đảo
mà họ đơn phương cho rằng thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Họ cho phát hành
23.527 tạp chí nghiên cứu Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) minh họa luận điệu giả
trá của họ. Trong 10 năm, họ khuyến khích cho làm 238 luận văn tiến sĩ về Biển
Đông và các quần đảo, có nội dung xác định chủ quyền Trung Quốc.
Cũng trong thời
gian đó, họ tổ chức 516 cuộc hội thảo về Biển Đông, biển Đông Bắc, các quần đảo
và cho phổ biến rộng rãi trên hệ thống truyền thông, vu cáo các nước trong đó có
Việt Nam chiếm đoạt biển, đảo của Trung Quốc. Họ luôn luôn đòi hỏi chúng ta phải
kiềm chế, coi trọng đại cục, không làm rối tình hình, không đưa tin những vụ va
chạm (do họ gây ra) lên báo chí, nhưng họ làm ngược lại, ngày nào cũng ra rả vu
khống, đe dọa ta, kích động chủ nghĩa dân tộc Đại Hán trong nhân dân Trung Quốc.
Chắc chắn những người có lương
tri muốn nói lên lòng mong muốn sự công bằng với lân bang láng giềng từng một
thời “môi hở răng lạnh” không khỏi bị nhà cầm quyền độc đoán răn đe. Trong tình
hình như vậy, chúng ta vô cùng xúc động trước sự thức dậy của lương tri Trung
Hoa.
Năm ngoái, giữa lúc căng thẳng do tàu hải giám Trung quốc liên tục cắt cáp
2 hai tàu thăm dò của ta, đài truyền hình Phượng Hoàng (Hồng Công) mời giáo sư
Vũ Cao Phan trả lời phỏng vấn. Giáo sư đã được dịp nói rõ Hoàng Sa vốn là của
Việt Nam, do đó không thể “gác tranh chấp, cùng khai thác”.
Năm nay, giữa lúc Bắc
Kinh hung hăng diễu võ dương oai thì hằng loạt các trí thức, nhà nghiên cứu lên
tiếng rất mạnh mẽ, vạch rõ những sai trái không thể bào chữa của nhà cầm quyền:
Thạc sĩ, biên tập viên Tân hoa xã Chu Phương: ”Hãy lập tức xóa bỏ cái gọi là
thành phố Tam Sa, bởi vì nó là trò cười quốc tế điển hình”.
Nhà nghiên cứu Lý Lệnh
Hoa:”Đường lưỡi bò chiếm 80% Biển Nam Trung Hoa là do Trung Quốc tự vẽ”. Giáo
sư Hà Quang Hộ cho “đòi hỏi vô lý là không biết giữ nhân tình”. Giáo sư Trương
Thư Quang:” Quyền lợi của Trung Quốc cần phải được các nước thừa nhận”. Giáo sư
Trương Kỳ Phạm khuyên nhà cầm quyền đừng theo luật rừng, nên theo luật biển vv…
và vv…
Lương tri từ các trí thức sáng suốt
và dũng cảm chắc chắn sẽ nhanh chóng lan tỏa đến 1,3 tỉ người, đánh thức lương
tri Trung Hoa.
T.V.C
Tác giả gửi cho viet-studies
ngày 25-7-12
* * *
RFI 27-7-12
Sự thực về thất bại của Hội nghị Ngoại trưởng
ASEAN lần thứ 45
Trọng
Nghĩa
Cam Bốt là nước duy nhất chống lại
việc nêu các hành động gây hấn của Trung Quốc tại Biển Đông trong tuyên bố
chung của ASEAN. Sự thực này vừa được giáo sư Carlyle Thayer nêu rõ trong một
bài đăng trên báo mạng Asia Times ngày 27/07/2012, tựa đề “Trong hậu trường của
sự cố tại ASEAN / Behind the scenes of ASEAN's breakdown”, dựa theo một tài liệu
“nội bộ” ghi lại cụ thể diễn tiến cuộc họp kín (Retreat) ngày 09/07/2012 của
các Ngoại trưởng ASEAN nhân Hội nghị thường niên AMM 45 tại Phnom Penh.
Tài liệu này xác định rõ các yêu
cầu cụ thể của Việt Nam và Philippines trong cuộc họp, cũng như vai trò chủ chốt
của Cam Bốt trong việc phá vỡ đồng thuận trong ASEAN về hồ sơ Biển Đông. RFI
xin giới thiệu cùng quý vị bài phân tích của giáo sư Thayer :
Mới đây, Ngoại trưởng Indonesia
Marty Natalegawa đã tiến hành một chuyến ngoại giao con thoi căng thẳng
(24-25/07/2012), đến Cam Bốt, Việt Nam, Philippines, Singapore và Malaysia để bảo
đảm được một thỏa thuận của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) về Sáu
Nguyên tắc về Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Khi được đài truyền hình Úc ABC
yêu cầu tóm lược kết quả của những nỗ lực của ông, ông trả lời rằng ASEAN đã
“trở lại hoạt động như bình thường”.
Ông Natalegawa hàm ý rằng ông đã
khắc phục được khó khăn nẩy sinh từ việc ASEAN đã phô bày tình trạng xáo trộn
khi các ngoại trưởng của nhóm đã không thể đạt thỏa thuận về bốn đoạn liên quan
đến Biển Đông trong một dự thảo thông cáo chung để tóm tắt kết quả cuộc họp của
họ. Lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm của khối, Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) do
Cam Bốt là chủ nhà đã không đồng ý được về một tuyên bố chung.
Sau vòng công du chớp nhoáng của
Ngoại trưởng Indonesia, ngày 20/07/2012, ASEAN đã công bố bản Tuyên bố 6 điểm về
Biển Đông. Thế nhưng, theo ghi nhận của Giáo sư Thayer, Ngoại trưởng Cam Bốt Hor
Nam Hong đã không nhịn được việc quy tội cho Việt Nam và Philippines là đã làm
hội nghị ASEAN thất bại trong việc đưa ra thông cáo chung. Ông Thayer viết tiếp
:
(…) Diễn tiến cuộc họp kín
Retreat của Ngoại trưởng ASEAN (AMM), tuy nhiên, đã kể lại một câu chuyện hoàn
toàn khác. Theo các ghi chú về những gì được thảo luận do một người tham gia cuộc
họp thực hiện mà tác giả bài viết này đã xem xét, thì Cam Bốt đã hai lần bác bỏ
cố gắng của Philippines, Việt Nam và các thành viên khác của ASEAN, muốn đưa vào
văn kiện một điều nhắc đến những diễn biến gần đây ở Biển Đông). Lần nào cững vậy,
Cam Bốt đều đe dọa rằng họ không ra thông cáo chung.
Có 5 nước trực tiếp đòi đề cập
đến các diễn biến tại Biển Đông
Vấn đề Biển Đông đã được thảo luận
trong phiên họp toàn thể của cuộc họp kín AMM Retreat. Philippines phát biểu đầu
tiên, tiếp theo là Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Brunei, Lào, Miến
Điện, Singapore và Cam Bốt.
Ngoại trưởng Philippines Albert
Del Rosario đã mô tả một số ví dụ trong quá khứ và hiện tại về hành động “bành
trướng và gây hấn” của Trung Quốc, ngăn không cho “Philippines thực thi pháp luật
và buộc Philippines phải rút ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của chính
mình”.
Ông Del Rosario nêu lên một câu hỏi
mang tính chất tu từ : “Giá trị thực thụ của các Quy tắc Ứng xử (COC) sẽ là gì
nếu chúng ta không thể duy trì được bản DOC [Tuyên bố về ứng xử của các bên]
?”, đạt được lần đầu tiên với Trung Quốc vào năm 2002. Ông Del Rosario đã kết
thúc bài phát biểu của ông bằng nhận định : “Điều quan trọng là cam kết chung của
ASEAN tôn trọng bản [DOC] được phản ánh trong thông cáo chung của Hội nghị Ngoại
trưởng ASEAN.”
Bốn quốc gia khác cũng đã trực tiếp
đề cập đến điểm này. Việt Nam đã mô tả việc Trung Quốc gần đây đã thiết lập
thành phố Tam Sa, bao trùm các đảo tranh chấp tại Biển Đông và việc Tập đoàn dầu
khí Trung Quốc CNOOC mời ngoại quốc đấu thầu thăm dò các vùng biển đang tranh
chấp khác như là những hành động “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền tài phán
của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa (của mình)”. Việt
Nam cho rằng thông cáo chung nên phản ánh điều này.
Indonesia nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc ASEAN có chung một tiếng nói và cho rằng những diễn biến gần đây là mối
quan ngại chung của tất cả các nước ASEAN. Indonesia tán đồng việc đúc kết một bộ
Quy tắc Ứng xử và hứa sẽ “lưu hành một văn kiện để thảo luận không chính thức
(non-paper) về các yếu tố có thể có và có thể bổ sung vào bản COC”.
Malaysia tán đồng ý kiến của
Indonesia và nhấn mạnh : “Chúng ta phải nói một tiếng nói duy nhất; ASEAN phải
cho thấy là mình có một tiếng nói thống nhất, (nếu không) uy tín của chúng ta sẽ
bị xói mòn”.
Malaysia kết luận, “Chúng ta phải
đề cập đến tình hình Biển Đông, đặc biệt là đến bất kỳ hành động nào đi ngược lại
luật pháp quốc tế về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Hoàn toàn không thể
chấp nhận việc chúng ta không ghi vấn đề này vào thông cáo chung. Điều quan trọng
là ASEAN phải thể hiện rõ ràng trong thông cáo chung mối quan ngại của chúng ta
về vấn đề Biển Đông.”
Singapore ghi nhận rằng “các diễn
biến gần đây đặc biệt đáng quan ngại” vì làm dấy lên “những cách giải thích lạ
kỳ về luật pháp quốc tế có thể làm suy yếu toàn bộ cơ chế của UNCLOS” (Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển ). Singapore kết luận bằng lập luận : “Điều quan trọng
là ASEAN phải thể hiện rõ ràng trong thông cáo chung mối quan ngại của chúng ta
về Biển Đông… [Sẽ] tai hại cho chúng ta nếu chúng ta không nói gì”.
Đồng thuận của 9 nước ASEAN bị
một mình Cam Bốt phá vỡ
Trước lúc Cam Bốt lên tiếng,
không một nước nào lấy làm lạ về các phát biểu của Philippines, Việt Nam,
Indonesia, Malaysia và Singapore.
Khi đến phiên Cam Bốt, Ngoại trưởng
nước này thắc mắc là tại sao lại cần phải đề cập đến bãi cạn Scarborough Shoal,
nơi Trung Quốc và Philippines đối đầu nhau trong hai tháng trời.
Sau đó ông đột ngột tuyên bố,
"Tôi cần phải nói thẳng với quý vị : Trong trường hợp chúng ta không tìm
ra lối thoát, Cam Bốt sẽ không còn phương cách nào khác để xử lý vấn đề này. Và
do đó, sẽ không có văn bản nào cả. Chúng ta không nên áp đặt quan điểm quốc
gia, chúng ta nên cố gắng phản ánh quan điểm chung trên tinh thần thỏa hiệp với
nhau”.
Đến lúc đó, các cuộc thảo luận đã
trở thành nóng bỏng, với cả Philippines lẫn Việt Nam tiếp tục tranh luận về lập
trường của mình. Malaysia, Indonesia và Singapore đã can thiệp bổ sung.
Cuộc họp kín AMM Retreat đã kết
thúc với tuyên bố của Ngoại trưởng Cam Bốt Hor Nam Hong : “Chúng ta sẽ không
bao giờ đạt được [thỏa thuận] dù có ngồi lại đây thêm bốn hoặc năm tiếng nữa...
Nếu quý vị không thể đồng ý về nội dung của thông cáo chung, (thì) chúng tôi
không còn cách nào khác để xử lý vấn đề trong tư cách Chủ tịch ASEAN.”
Ngoại trưởng Indonesia Natalegawa
đã hoàn toàn đúng khi nói rằng mặc dù không có thông cáo chung, nhưng các Ngoại
trưởng ASEAN đã đạt được thỏa thuận về "các yếu tố then chốt" của một
Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông. Theo ông, vòng ngoại giao con thoi của ông đã có
kết quả là các ngoại trưởng ASEAN đã đồng ý để “sớm đúc kết một bộ Quy tắc Ưng
xử Khu vực ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)”.
Cam Bốt, trong tư cách là Chủ tịch
ASEAN, đã chủ trì hai cuộc họp không chính thức các quan chức cấp cao ASEAN và
Trung Quốc để thảo luận về bước tiến tới bộ COC. Trung Quốc công khai thông báo
rằng họ sẵn sàng để tham gia vào các cuộc thảo luận chính thức với ASEAN “khi
điều kiện chín muồi”
Nếu mọi sự diễn tiến theo kế hoạch,
quan chức cao cấp của ASEAN và Trung Quốc sẽ thảo luận về các thủ tục thảo luận
sắp tới. Họ vẫn cần phải xác định xem sẽ gặp nhau ở cấp nào, theo nhịp độ nào,
và báo cáo cho ai. Các cuộc thảo luận chính thức được lên kế hoạch vào tháng
Chín và các quan chức ASEAN hy vọng sẽ hoàn tất đàm phán vào tháng Mười Một.
Sự can thiệp của Indonesia là
lời cảnh cáo Cam Bốt
Vòng ngoại giao con thoi của ông Natalegawa
đã mang lại nhuệ khí cần thiết cho ASEAN. Nỗ lực của ông cũng đã giúp xua tan
những suy nghĩ bên ngoài khu vực Đông Nam Á rằng đã có mất đoàn kết giữa các
thành viên ASEAN về việc làm thế nào để xử lý vấn đề Biển Đông.
Quan trọng hơn, sự can thiệp của
Indonesia là lời cảnh cáo đối với Cam Bốt rằng dù là chủ tịch ASEAN năm 2012, họ
không thể đơn phương kiểm soát chương trình nghị sự của ASEAN.
Quyết định can thiệp của ông
Natalegawa là điều chưa từng thấy vì ông thực hiện vai trò lãnh đạo vốn thường
do chủ tich ASEAN đảm trách. Điều này còn là tín hiệu cho thấy là Indonesia sẵn
sàng đóng một vai trò chủ động hơn trong các vấn đề khu vực. Điều đó trái ngược
hẳn với những năm Suharto khi Indonesia, dù được xem là nhà lãnh đạo tự nhiên của
khu vực Đông Nam Á, nhưng vẫn thường đóng một vai trò kín đáo “mềm mỏng, nhẹ
nhàng” hơn.
Trung Quốc sẽ vẫn vừa đàm phán
COC với ASEAN vừa thúc ép Việt Nam và Philippines
Tuy nhiên, câu nói của ông
Natalegawa rằng ASEAN đã “trở lại hoạt động như bình thường” có thể có một ý
nghĩa khác. Ý nghĩa thứ hai này liên can ít nhiều đến các hành động quyết đoán
mới của Trung Quốc nhằm áp đặt quyền tài phán của họ trên Biển Đông.
Điều đó đã được thực hiện dưới ba
hình thức : Một là, Trung Quốc nâng Tam Sa từ cấp quận đến cấp thành phố và
trao cho đơn vị này trách nhiệm quản lý hành chính trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa và Macclesfield Bank (Trung Sa). Chính quyền tỉnh Hải Nam đã vội vã bổ nhiệm
các quan chức địa phương cho đơn vị mới này, và cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng
Nhân dân được tổ chức.
Hai là, chính quyền tỉnh Hải Nam
cũng đã cử ngay 30 chiếc tàu thuyền đánh cá và bốn tàu hộ tống xuống đánh bắt
cá ở vùng biển quần đảo Trường Sa. Đội tàu thoạt đầu đánh bắt ngoài khơi đảo Chữ
Thập (Fiery Cross Reef) trước khi chuyển sang Bãi Gạc Ma (Johnson South Reef),
cả hai nơi này đều là khu vực có tranh chấp.
Điểm thứ ba, và quan trọng nhất,
Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã ban hành một chỉ thị thành lập một đơn vị quân
sự đồn trú quân sự ở thành phố Tam Sa. Đơn vị đồn trú này, với trụ sở chính đặt
tại đảo Phú Lâm (Woody Island), sẽ có trách nhiệm về quốc phòng trên một vùng
biển rộng hai triệu dặm vuông.
Trở lại như bình thường, theo
cách hiểu thứ hai đó, có thể có nghĩa rằng trong khi ASEAN đàm phán về COC với
Bắc Kinh, Trung Quốc được cho là sẽ có thể cùng lúc tiếp tục gây áp lực và hăm
dọa cả Philippines lẫn Việt Nam, và tìm kiếm những cách khác để gieo mầm bất
hòa giữa 10 thành viên của nhóm
* * *
RFA 26-7-12
Thuốc súng biển Đông đang cháy?
Việt-Long, RFA
2012-07-26
Trung Quốc điều động hải quân xuống
Trường Sa tập trận sau khi thiết lập căn cứ quân sự, dựng HĐND cùng với nhà
giam ở đảo Phú lâm, mà họ gọi là thủ phủ của "thành phố Tam Sa". Tàu
cảnh sát biển Việt Nam và tàu hải giám Trung Quốc đối đầu ngoài khơi Cù Lao Ré,
trong khi cố vấn an ninh toà Bạch ốc rời Bắc Kinh đi Tokyo. Cuộc xung đột quân
sự phải chăng đang ló dạng? Việt Nam trông cậy được vào ai?
Nguy cơ tăng cao
Hôm nay Phó chủ tịch Tập Cận Bình
của Trung Quốc tuyên bố Trung Quốc và Hoa Kỳ đạt được thoả thuận về nhiều điểm
trong những cuộc thảo luận giữa cố vấn an ninh toà Bạch ốc Thomas Donilon với những
giới chức lãnh đạo hàng đầu về quân sự và ngoại giao của Bắc Kinh trong hai
ngày nay.
Nhân dân nhật báo cho biết chủ tịch
họ Hồ và cố vấn Donilon hứa hẹn tăng tiến quan hệ song phương, nhưng tờ báo viết
tiếp, rằng chủ tịch Trung Quốc đã yêu cầu Hoa Kỳ thận trọng trong những vấn đề gọi
là tế nhị.
Trong khi đó thì nghị sĩ Mc Cain
cảnh cáo Trung Quốc là đã có hành động khiêu khích không cần thiết tại nơi mà
ông nói là Việt Nam cũng cùng nhận chủ quyền. Và “Tổ chức nghiên cứu về khủng
hoảng quốc tế”, gọi tắt là ICG, cảnh giác rằng tình trạng căng thẳng tại biển
Đông rất có thể dẫn đến xung đột quân sự, vì không đạt được một cơ chế giải quyết.
Cùng lúc, Đài Loan cũng tăng cường võ trang cho đảo Ba Bình ở Trường Sa.
Đối chiếu những sự kiện vừa
nêu, liệu có nguy cơ xảy ra xung đột võ trang ở biển Đông không?
Nguy cơ xung đột thì lúc nào cũng
sẵn sàng bùng nổ, từ lâu nay, nhưng tình hình này làm cho nguy cơ đó tăng cao.
Trong những sự kiện mới nhất như vừa kể thì điều đáng chú ý hơn hết là Trung Quốc
thiết lập căn cứ phòng thủ và cho bầu cử HĐND của cái gọi là thành phố Tam Sa, ở
ngay trên đảo Phú Lâm theo Việt Nam đặt tên, thuộc Hoàng Sa. Trung Quốc gọi nó
là Vĩnh Hưng đảo. Đây là một hành động quả quyết của Trung Quốc để áp đặt vững
chắc chủ quyền và thực hiện quyền chủ quyền đó của Bắc Kinh, trước hết là trên
vùng biển Hoàng Sa và kế tiếp là trên toàn biển Đông.
Nhưng Việt Nam sẽ tiếp tục cho
ngư dân đánh cá quanh vùng biển Hoàng Sa, với tàu hải quân hay cảnh sát biển hộ
tống. Hoạt động đó sẽ đụng chạm với tàu Hải giám Trung Quốc, gây nguy cơ xung đột
cao hơn nữa.
Chưa sẵn sàng
Tuy nhiên, ngay lúc này hai bên vẫn
phải cố gắng kềm chế để không bùng nổ thành xung đột võ trang. Việt Nam chưa sẵn
sàng, và Trung Quốc chưa dám làm.Tuy nhiên tình hình đã rất nguy hiểm.
Người ta thấy trên you tube một
tin của đài CCTV 13, là kênh tin tức của truyền hình trung ương Trung Quốc,
đăng hôm thứ hai, tàu hải giám Trung Quốc và tàu cảnh sát biển của Việt Nam đã
đối đầu ở vùng biển Hoàng Sa cách cù Lao Ré 131 hải lý. Nhưng hai bên chỉ đánh
võ miệng. Theo phía Trung Quốc thì tàu Việt Nam mắng chửi thậm tệ, nói là
"Đề nghị tàu Trung Quốc ra khỏi lãnh thổ Việt Nam không chúng tao bắn chết".
Phóng viên CCTV nói phía Trung Quốc chỉ trả lời là “ngôn ngữ của Việt Nam các
anh thô lỗ và mất lịch sự”, nhưng liền nói thêm một cách trịch thượng: “tàu Việt
Nam các anh cần chú ý ngôn ngữ và THÂN PHẬN của mình”.
Việt Nam ở vào thế phải tử kềm chế
hơn nữa vì lực lượng hải quân– không quân chưa sẵn sàng trước khi được giao
hàng đủ số tàu ngầm, tàu chiến, máy bay. Trong khi đó Trung Quốc cũng không muốn,
hay là chưa muốn gây chiến, vì thể diện nước lớn đối với quốc tế và vì chiến lược
ngoại giao quốc tế của Bắc Kinh. Bắc Kinh chưa thể để lộ bộ mặt hiếu chiến và
chỉ giỏi ức hiếp nước nhỏ, nhất là một láng giềng đồng chí Cộng Sản với nhau.
Đài Loan muốn gì?
Giữa lúc đó thì Đài Loan gấp rút
tăng cường và đổi mới võ trang cho đồn phòng thủ ở Ba Bình, với súng cối 120 ly
và đại bác 40 ly phòng không và chống tàu chiến nhỏ, không rõ số lượng bao nhiêu.
Trước đó Đài Loan đã có kế hoạch nối dài đường băng phi cơ ở đó, và đã tổ chức
một lực lượng hành quân không vận phản ứng nhanh, nhắm đến Ba Bình. Việt Nam phản
đối hành động tăng cường vũ trang, trong khi Trung Quốc không có phản ứng gì.
Có ý kiến cho là Đài Loan thừa
gió bẻ măng, củng cố vị trí trên hòn đảo chiếm ở Trường Sa năm 1953 mà họ gọi
là đảo Thái Bình. Tuy nhiên về mặt quân sự thì động tác này có vẻ nhằm bảo vệ đảo
chống lại cả Việt Nam lẫn Trung Quốc. Đặc tính kỹ thuật của các vũ khí phòng thủ
mới tăng cường cho thấy, Đài Bắc e ngại không quân và tàu chiến Trung Quốc nhiều
hơn là các lực lượng của Việt Nam và Philippines. Đài Loan phải biết chắc chắn
Việt Nam không thể khai triển lực lượng mạnh ra tới Trường Sa, trong khi lực lượng
hải quân không quân Philippines không đáng kể, trong khi và Manila cũng như Việt
Nam không có ý định giành chiếm lại đảo Ba Bình.
Hành động của Đài Loan trong thực
chất nhắm mục đích chính trị nhiều hơn là do sự e ngại về quân sự. Trong khi
tình hình đang sôi nổi và căng thẳng quanh Hoàng Sa, Trường Sa với kế hoạch liếm
trọn biển Đông của cái lưỡi bò Bắc Kinh, Đài Loan không thể im lặng đứng nhìn,
mà phải làm một điều gì đó để mạnh mẽ xác định chủ quyền trên hòn đảo đã chiếm
giữ hơn nửa thế kỷ nay.
Mỹ-Trung thoả thuận về biển
Đông?
Sang đến hoạt động của cố vấn toà
Bạch ốc Tom Donilon ở Bắc Kinh, khi Trung Quốc nói đến “những vấn đề tế nhị”
thì đó là vấn đề biển Đông chứ không phải vấn đề Syria, là những đề tài mà hai
bên thảo luận trong hai ngày thứ ba và thứ tư.
Như vậy khi tin loan báo hai bên
đạt được những thoả thuận về nhiều vấn đề, thì người ta tin rằng không thể có
thoà thuận hoàn toàn về vấn đề biển Đông. Nếu đạt thoả thuận về biển Đông thì
chủ tịch Trung Quốc đã không cần nhắn nhủ cố vấn Donilon và toà Bạch ốc là Bắc
Kinh mong Washington thận trọng khi tiếp cận những vấn đề tế nhị.
Trong khi đó, nghị sĩ Mỹ John McCain,người
thường chỉ trích chế độ chính trị của Cộng Sản Việt Nam nhưng lại luôn luôn
bênh vực Việt Nam trong vấn đề biển Đông, đã lên tiếng chỉ trích Trung Quốc “có
hành động khiêu khích không cần thiết” khi lập căn cứ phòng thủ ở đảo Phú Lâm,
hay Vĩnh Hưng, hay Woody Island, và tổ chức bầu cử xong HĐND cho cái gọi là “thành
phố Tam Sa” do họ dựng ra trên hải phận của nước khác!
Ông McCain cũng là người chủ
trương Mỹ nên liên kết quân sự với Việt Nam để giúp Việt Nam chống Trung Quốc đồng
thời để Hoa Kỳ giữ ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á phía nam Trung hoa.
Lập trường của hành pháp của Tổng
thống Obama hiện nay về biển Đông và quan hệ Việt Nam-Trung Quốc cũng không thể
mâu thuẫn với lập trường đó của nghị sĩ McCain, có thể đã được bày tỏ trong
chuyến đi của cố vấn Donilon sang Bắc Kinh.
Chưa rõ về Việt Nam
Tuy nhiên Hoa Kỳ chưa thể liên kết
quân sự hay giúp bán vũ khí sát thương cho Việt Nam khi chưa biết Việt Nam có
thực tâm muốn có Mỹ sau lưng để chống Trung Quốc hay không. Việt Nam có thực sự
muốn “chọn bạn mà chơi”, có thực tâm cắt đứt tình đồng chí Cộng Sản với người
láng giềng Trung Quốc là kẻ không cần coi họ là đồng chí mà còn bày tỏ dã tâm xâm
chiếm?
Hoa Kỳ cũng chưa biết Việt Nam có
tiếc nuối 16 chữ vàng hay không, có tiếc nuối quan hệ kinh tế có lợi cho Trung
Quốc hay không, có tiếc tấm tình hữu nghị “răng cắn sứt môi” sau khi đã mất cả đất
ở Hà Giang lẫn biển ở vịnh Bắc Bộ và còn mất cả những lô dầu mà Trung Quốc đang
gọi thầu?
Nhưng người Mỹ biết rõ Việt Nam
hiển nhiên còn tiếc nuối cái mô thức hệ thống chính trị “Vô sản nhân dân nô lệ,
tư bản nhà nước độc tài” của Trung Quốc đang áp dụng ở Việt Nam, là hệ thống
chính trị “Cộng sản nhân dân” duy nhất còn lại trên thế giới.
Việt Nam vẫn cần dựa vào Trung Quốc
để áp dụng thể chế cai trị đó với người dân và xã hội Việt Nam, liệu có thể dứt
bỏ hẳn mẫu mực chính trị để quay thẳng mũi súng vào nhau?
Cuối cùng, chính sách đi xa nhất
của Mỹ để giúp Việt Nam chỉ có thể nằm trong lãnh vực kinh tế, quốc phòng một
khi Việt Nam dứt khoát hẳn với Trung Quốc về sự chọn lựa chính trị.
Về ngoại giao, dù sao Mỹ cũng
không thể ủng hộ những công bố xác định chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trong
khi ngoài Trung Quốc còn có Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan công bố chủ
quyền trên những diện tích lãnh hải chồng lấn với nhau.
* * *
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/82305/bien-dong--khi-hoc-gia-trung-quoc-phan-tinh.html
Biển Đông: Khi học giả Trung Quốc phản tỉnh
Đâu là lời giải thích hợp lý
cho những tuyên bố của các học giả trên khi mà chiêu bài "lộng giả thành
chân" của Trung Quốc đang mất dần tác dụng?
Phát triển hòa bình
Những học giả Trung Quốc từ lâu
đã lên tiếng cảnh báo về sự không phù hợp của một chính sách "diều
hâu" đối với tranh chấp tại Biển Đông.
Trong bài viết "Sức mạnh mềm
luôn tốt hơn chiến tranh biển đảo" đăng trên tờ Global Times vào ngày
28/12/2011, tác giả Sun Zhe đã khẳng định Trung Quốc cần phải hợp tác hơn, mềm
dẻo hơn với chính sách của các quốc gia trong khu vực đối với vấn đề tranh chấp
biển Đông. Đồng thời, học giả này cũng cảnh báo rằng đe dọa sử dụng vũ lực để
giải quyết những tranh chấp lãnh hải chỉ đưa Trung Quốc vào thế khó, khi mà những
cơ sở pháp lý mà họ đang nắm trong tay cũng như hình ảnh đối với cộng đồng quốc
tế đều thiếu tính vững chắc.
Trong một bài viết của học giả
Chu Hạo - Chuyên viên của Viện Quan hệ Quốc tế đương đại Bắc Kinh - đăng trên tờ
China Daily vào ngày 06/07 vừa rồi, điểm nóng tranh chấp tại Biển Đông đã làm xấu
đi hình ảnh trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt từ năm 2010 đến nay.
|
Tấm
bản đồ của Trung Quốc được lập dưới thời nhà Thanh, xuất bản năm 1904, trong
đó ghi rõ cực nam nước này là đảo Hải Nam, không hề có Hoàng Sa, Trường Sa của
Việt Nam.
|
Trong bối cảnh cả thế giới đang
nhìn về Biển Đông với sự trở lại của Hoa Kỳ tại Châu Á - Thái Bình Dương, việc
Trung Quốc đe dọa sử dụng vũ lực chỉ làm cho các nước ASEAN nhích lại gần Hoa Kỳ
và Phương Tây hơn. Khi đó, mọi nỗ lực về ngoại giao với khu vực Đông Nam Á
trong nhiều thập kỷ qua của Trung Quốc đều thất bại, và chính quyền Bắc Kinh sẽ
phải đối mặt với cuộc khủng hoảng lòng tin từ phía các quốc gia này.
Theo như học giả Chu Hạo, hợp tác
trong hòa bình và hữu nghị với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đã luôn là
xu hướng chủ đạo trong chu chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Đây là một nhân
tố cốt lõi trong quá trình "phát triển hòa bình" của chính quyền Bắc
Kinh.
Tuy nhiên, cùng với làn sóng tinh
thần dân tộc ngày càng lên cao, và những mối lo ngại của khu vực đối với một
Trung Quốc liên tục hiện đại hóa quân sự, ông Chu Hạo cảnh báo trên China Daily
rằng, nếu tiếp tục chính sách ngoại giao pháo hạm, sự phát triển của Trung Quốc
sẽ bị cho là mối đe dọa với nhiều nước khác; không tỉnh táo thì "Biển Đông
sẽ là cái bẫy giam hãm Trung Quốc".
Đường chữ U: Không chứng cứ
pháp lý tin cậy
Một số học giả khác cho rằng đường
lưỡi bò chỉ là tuyên bố đơn phương của Trung Quốc mà không hề có cơ sở pháp lý
vững chắc.
Các phương tiện truyền thông và
các nhà phân tích Trung Quốc đã sử dụng thuật ngữ "đường chín đoạn" lỏng
lẻo để tuyên bố rằng Trung Quốc đang sở hữu 2.000.000 km vuông lãnh thổ đại
dương, nằm trong "đường chín đoạn" của biển Nam Hải (biển Đông).
Nhà nghiên cứu Lý Lệnh Hoa, thuộc
Trung tâm Tin tức hải dương Trung Quốc, cho rằng: "Chúng ta - Trung
Quốc vẽ đường chín đoạn mà không có một kinh độ hoặc vĩ độ cụ thể, và cũng
không có căn cứ pháp luật." Nhà nghiên cứu này cũng khẳng định: "Đường
chín đoạn (chiếm gần 80% biển Đông) là do Trung Quốc tự vẽ ra năm 1974".
Giáo sư Trương Thự Quang, Đại học
Tứ Xuyên, thì nhấn mạnh, Trung Quốc không thể tự vẽ ra đường chín đoạn. Theo
giáo sư Trương, khi Trung Quốc khăng khăng đưa ra "đường lưỡi bò"
nhưng không có căn cứ để khẳng định và không được bất kỳ nước nào thừa nhận thì
nó vô giá trị: "Quyền lợi của anh (Trung Quốc) cần được người khác thừa nhận,
người khác không thừa nhận thì anh không có quyền".
Mặc dù không hiểu rõ về các điều
khoản do sự "đầu độc " về thông tin của các phương tiện truyền thông
Trung Quốc, công chúng nước này nói chung dường như vẫn tin rằng Trung Quốc được
hưởng một số quyền lợi độc quyền tại Biển Đông.
Các học giả nước này cũng bất đồng
với cách Trung Quốc diễn giải về Công ước Luật biển của LHQ (UNCLOS). Cách diễn
giải mơ hồ về quyền tài phán, không đề cập đến các yếu tố địa lý của đường bờ
biển hay đường cơ sở là hoàn toàn không thuyết phục.
Giáo sư Sun Zhe, Đại học Thanh
Hoa, lưu ý rằng Trung Quốc nên hiểu: "Nam Hải (Biển Đông) không phải là
"ao nhà" (internal lake) của Trung Quốc, bởi phần nhiều vùng biển này
thuộc về vùng biển quốc tế".
Ông cũng cảnh báo rằng, với đường
lưỡi bò này Trung Quốc có nguy cơ bị cộng đồng thế giới hiểu rằng Bắc Kinh đang
cố gắng kiểm soát Biển Đông như một "ao nhà" của chính mình.
Gần đây khi tình hình Biển Đông
căng thẳng, biên tập viên Tân Hoa xã Chu Phương, người có uy tín và nổi tiếng
thẳng thắn trong làng báo Trung Quốc, đã nhiều lần phản đối chính sách sử dụng
vũ lực ở Biển Đông và yêu cầu xóa bỏ cái gọi là "thành phố Tam Sa" mà
Bắc Kinh vừa dựng lên.
Trong bài viết "Hiện trạng
Nam Hải (Biển Đông) có lẽ sẽ kéo lùi cải cách chính trị của Trung Quốc"
đăng ngày 17/7 ông viết: "Ý nghĩa lớn nhất của việc lập ra "thành phố
Tam Sa" là chường cho bàn dân thiên hạ thấy nỗi nhục của Trung Quốc; đồng
thời cũng sẽ buộc chính phủ và quân đội Trung Quốc phải giở bài ngửa với các quốc
gia xung quanh và quốc tế...".
Trước đó, ngày 29/6, Chu Phương
viết bài: "Thiết lập "thành phố Tam Sa" là trò cười quốc tế, mạnh
mẽ yêu cầu hủy bỏ ngay!"
Đừng làm nghịch lòng người
Nhiều nhà phân tích Trung Quốc
bác bỏ hoàn toàn các tùy chọn của việc sử dụng vũ lực ở biển Nam Trung Hoa (Biển
Đông).
Xue Li, chuyên gia chiến lược quốc
tế Trung Quốc tại Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (CASS) nhấn mạnh đến các
biện pháp hòa bình và tăng cường xây dựng lòng tin để giải quyết tranh chấp thay
vì dùng đến các biện pháp quân sự.
Các giáo sư Trung Quốc đã công
khai tuyên bố về quan điểm của mình và nhận thức sâu sắc việc đưa ra yêu sách
đường lưỡi bò phi lý là hết sức phi lý, khiến các quốc gia còn lại không thể
nào chấp nhận được.
"Chúng ta không nên chỉ nghĩ
lợi ích cho mình mà cần phải quan tâm đến lợi ích của toàn thể thế giới bằng
cách tuân thủ các quy tắc quốc tế" - giáo sư Thịnh Hồng thuộc ĐH Sơn Đông
nhấn mạnh.
Một số học giả lại có tầm nhìn xa
hơn khi cho rằng trong tương lai, các nước láng giềng kinh tế phát triển thì
Trung Quốc cũng được hưởng lợi. Vì thế, nhìn vấn đề từ góc độ toàn nhân loại,
Trung Quốc cần có quan điểm toàn cục, tiến cùng thời đại.
Zhang Yunling, thuộc CASS, lập luận
rằng "Trung Quốc không nên bám víu vào tư duy truyền thống của mình".
Ông đề xuất việc thảo luận về các biện pháp cụ thể để phân định vùng đặc quyền
kinh tế trong vùng biển này phù hợp với UNCLOS, trong đó ASEAN sẽ đóng một vai
trò phối hợp.
Ngoài ra, Zhang còn cho rằng các
bên liên quan luôn luôn có thể khám phá những ý tưởng phát triển chung trong
khu vực tranh chấp.
Không may, ý tưởng của Zhang hoàn
toàn đi chệch so với quan điểm chính thức của chính phủ Trung Quốc.
Rõ ràng, thực tế là hiện nay ngay
cả nội bộ Trung Quốc cũng không hoàn toàn đồng tình với Chính phủ nước này và
các quan chức quân sự diều hâu
Với những luận điểm chính để bác
bỏ lập luận về đường lưỡi bò phi lý, các học giả Trung Quốc đề xuất sử dụng
Công ước Luật biển để giải quyết tranh chấp theo tinh thần tôn trọng luật quốc
tế, đàm phán hòa bình theo cơ chế song phương hoặc đa phương và tránh sử dụng
vũ lực nhằm giảm nguy cơ "biển Đông dậy sóng".
Từ những tuyên bố của các học giả
nổi tiếng Trung Quốc, có thể thấy rằng vẫn còn những người luôn tỉnh táo,
tôn trọng lẽ phải và biết rằng "chân lý thuộc về mọi người". Việc thẳng
thắn thừa nhận tính phi lý, ngang ngược của đường chín đoạn của các trí thức
Trung Quốc có thể khẳng định: Những gì không tôn trọng sự thật sớm muộn gì cũng
như "cây kim trong bọc". Các tiếng nói yêu chuộng hòa bình, thái độ
tôn trọng sự thật, dám bày tỏ chính kiến vẫn không ngừng gióng lên những hồi
chuông cảnh tỉnh với bộ phận những người chưa nhận thức đúng đắn về yêu sách đường
lưỡi bò phi lý của Trung Quốc.
Huỳnh Tâm Sáng - Lê Thành
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment