Posted on August 31, 2011 by 1945quocvietanhpham
Phần XVII : Nguyễn
Mạnh Tường (1909-1997) – Bài 2: Từ 1954 đến 1997
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường
(trái) và Giáo sư Hoàng Xuân Hãn tại Paris năm 1989.
DR
“Chế
độ cộng sản áp dụng lối sùng bái hình thức: Họ trang trí thế giới bằng những đồ
giả. Những tước vị hào nhoáng gáy to nhất, không để tưởng thưởng cho người sống
mà cho những con nộm hình người có kẻ đứng sau lưng, trên đầu hay trong đám đó
dật dây. Những diễn viên múa may trên khán đài thuộc thế giới xi-nê-ma quá đát,
cinéma câm”. Nguyễn Mạnh Tường.
Dự các hội nghị quốc
tế
Mặc dù đã từ chối vào
Đảng và luôn giữ khoảng cách với chính quyền, nhưng Đảng vẫn phải nhờ Nguyễn
Mạnh Tường trong việc đối ngoại, bởi khó tìm được người có đủ khả năng thay
thế: Ông được cử đi dự ba Hội nghị quốc tế vì tài hùng biện.
Về Hội nghị Bắc Kinh,
1952, hiện không có tài liệu.
Về Hội nghị Vienne, cuối
1952, đầu 1953, Boudarel phân tích khá kỹ:
“Năm
1952, vì vì nhu cầu tuyên truyền và viễn ảnh những thương lượng mới về Đông
Dương đi đôi với vấn đề Triều Tiên đang thảo luận, người ta đã lôi Tường
trong nhà tù bóng tối ra ánh sáng. Ông được gọi đi Vienne dự Hội nghị các dân
tộc, do Phong trào hoà bình thế giới ảnh hưởng Liên Xô, tổ chức. Một lần nữa,
ông lại làm phát ngôn viên khôn khéo và hùng biện cho chính phủ Hồ Chí Minh, dù
ông không chia sẻ mọi quan điểm, nhưng đối với ông, chính phủ này, trước hết,
bảo đảm nền độc lập.
Chuyến
đi Vienne đã có thể là cơ hội lý tưởng cho luật sư Nguyễn Mạnh Tường chạy sang
phía bên kia. Nhưng không. Mặc. Ông trở về xứ. Vì yêu nước. Vì muốn độc lập cho
Việt Nam, mà cũng vì muốn làm thay đổi chế độ từ bên trong bằng sức mạnh của
ngôn từ.”(Boudarel, bđd).
Bài phát biểu của Nguyễn
Mạnh Tường tại hội nghị Vienne, viết thành Lettre à un ami de France (Thư gửi người
bạn Pháp), lời lẽ khôn khéo, cảm động, để thuyết phục những người bạn Pháp hãy
vận động cho việc ngừng chiến ở Việt Nam:
“…
Từ Vienne náo động âm nhạc hoà bình trong tiếng xe hơi và tàu điện, tâm tư tôi
hướng về đất nước đang rền vang tiếng đại bác. Từ Vienne chói lòa ánh sáng, tôi
nhìn qua hai mươi ngàn cây số xa, về những thành phố của chúng tôi đang bị
thiêu huỷ; làng mạc, ruộng đồng, trổi dậy sinh hoạt khi màn đêm buông xuống,
nhờ bóng tối, máy bay ngưng cơn cuồng nộ. Tôi thấy con trai tôi, trong đêm
lạnh, tay mang sách vở, lần bước để nhập bọn cùng bè bạn và những người dân
quê, qua những con đường ngoằn ngoèo, cùng họp nhau dưới căn nhà lá dùng làm
trường học. Chúng thắp những ngọn đèn dầu nhỏ mà ánh sáng vàng vọt, mù khói làm
cay mắt, ngứa cổ. Chúng ngồi bệt dưới đất, tay tựa vào cái bàn nhỏ bằng lòng
bàn tay, đem từ nhà đi. Thầy đến và lớp học bắt đầu. Chúng được học nhiều điều,
đặc biệt là lòng yêu mến các dân tộc, sự kính trọng con người và giá trị cần
lao. Có lẽ các bạn cũng không dửng dưng khi biết rằng những đứa con trai ấy còn
học một ngoại ngữ, rằng ngoại ngữ ấy là tiếng Pháp và tiếng đầu tiên chúng được
học là động từ YÊU. (…) Mỗi khi màn đêm buông xuống, chúng tôi giao cảm với
nước Pháp đích thực, nước Pháp sống động, nước Pháp cụ thể, nước Pháp mà chúng
tôi đã ngừng Yêu trong khổ đau nhức nhối, nước Pháp của Joliot-Curie, của Raymonde
Dien, của Henri Martin, của nông dân, của thợ thuyền, của trí thức, của tất cả
những ai đau khổ vì nỗi khổ đau của chúng tôi, những ai đòi hỏi quân đội Pháp
phải rút khỏi Đông Dương, để bi kịch huynh đệ phải chấm dứt, để con cái chúng
tôi khỏi bị đạn bom xé thành trăm mảnh mà có thể nở hoa dưới ánh mặt trời của
cuộc sống và được học tập trong hoà bình.” (dịch Lettre
à un ami de France, Revue Défense de la Paix, tháng 1/1953).
Bức thư dù tha thiết,
cũng không ngăn cản được cuộc chiến kéo dài đến 1954. Khi trở về nước, Nguyễn
Mạnh Tường phải trực diện với bi kịch kinh hoàng Cải cách ruộng đất, trong sự
bất lực hoàn toàn.
Ngày 22/5/1956, Hội nghị
Luật gia Dân chủ họp ở Bruxelles trong lúc phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đang
manh nha, ông lại được “vời ra” lần nữa, và ông cũng lại dùng tài hùng biện để
biện hộ cho sự thống nhất Việt Nam, theo quan điểm của miền Bắc. Nhân chuyến đi
này ông được các luật gia Tiệp Khắc và Nga và mời sang Praha và Moscou.
Khi trở về Hà Nội, ông đã
nhận được rất nhiều vinh dự, nhưng ngày 30/10/1956, ông xuất hiện tại Mặt trận
tổ quốc với bài diễn thuyết lịch sử: Qua
những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo, làm
thay đổi vận mệnh của chính mình.
Nguyễn Mạnh Tường nhớ
lại:
“Ngay
khi trở về Hà Nội, tôi được phủ đầy “vinh dự”. Khoa trưởng Đại học Luật khoa
đang hấp hối, Phó chủ tịch hội luật gia, Thủ lãnh luật sư đoàn, Khoa phó Đại
học sư phạm, Giáo sư đại học dạy văn chương Âu châu, Ủy viên trung ương Mặt
Trận Tổ Quốc và thành viên Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội; thành viên của hội hữu nghị
Việt Pháp và Việt Xô, của Uỷ ban bảo vệ hoà bình, Chủ tịch sáng lập Câu lạc bộ Đoàn
Kết trí thức… dư sức viết đầy hai mặt danh thiếp!
Những
“tước vị hoành tráng” này chẳng phiền hà gì tôi cả, cũng chẳng tổn thương đến
lòng khiêm tốn và tôi cũng không cảm thấy mình to đùng hay bé lại. Chế độ cộng
sản áp dụng lối sùng bái hình thức: Họ trang trí thế giới bằng những đồ giả.
Những tước vị hào nhoáng, gáy to nhất, không để tưởng thưởng cho người sống mà
cho những con nộm hình người có kẻ đứng sau lưng, trên đầu hay trong đám đó dật
dây. Những diễn viên múa may trên khán đài thuộc thế giới xi-nê-ma quá đát,
cinéma câm. Vì cộng sản và ciné câm ra đời cùng một lúc, cho nên người ta tự
hỏi chẳng biết cái nào ảnh hưởng đến cái nào” (dịch Un Excommunié, trang 75-76).
Nguyễn Mạnh Tường tiếp
tục phân tích phong cách của Đảng:
“Phải
chăng Đảng đã ngó ngàng tới tôi và muốn thổi phồng tôi lên thành một trong
những con khỉ bác học được đưa chạy vòng quanh sân xiếc làm trò cười cho trẻ?
Năm 1951, trong chiến khu miền Bắc, giữa kháng chiến chống Pháp, người ta đã đề
nghị cho tôi vào Đảng, nhưng tôi từ chối vinh dự này. Năm 1946, khi đi theo
kháng chiến với gia đình và cha mẹ, tôi đã dâng hết của cải, gồm ba dinh thự ở
Hà Nội cho Cách mạng và Nhân dân. Trong suốt thời gian kháng chiến, tôi chấp
nhận mọi hy sinh và dùng cả hai nghề luật sư và giáo sư để phục vụ dân tộc. Là
thành viên của các phái đoàn Việt Nam đi dự bốn hội nghị quốc tế, Đà Lạt 1946,
Bắc Kinh 1952, Vienne 1953 và Bruxelles 1956, tôi đã giữ vai trò chủ động và
đạt một vài thành quả khiêm nhường… Có thể Đảng cũng muốn cho tôi một chứng chỉ
tán thành bằng cách thăng cho những chức vụ dù chỉ là danh dự cũng có phần khả
kính. Nhưng tôi thừa biết trí nhớ của Đảng tồi lắm, Đảng quên ngay công lao của
cả những người ngày trước đã được Đảng công nhận, chỉ vì tội làm Đảng nổi giận.
Ngay cả những người cộng sản nổi tiếng, đã từng đi tù chung với những lãnh đạo
hiện ở trên ngai, cũng chẳng được hưởng ân sủng gì ngoài sự ngoan cố và độc ác
của họ.
Trong
những ủy ban chỉ đạo các tổ chức quần chúng, Đảng có lệ đem những trí thức nổi
tiếng vào làm phụ tá cho những đảng viên cầm cương, cầm lái. Những con rối ngồi
trên Chủ tọa đài, tuyên bố khai mạc và kết thúc các buổi hội thảo, được người
ta uể oải vỗ tay và cũng uể oải vỗ tay đáp lễ. Cái lối hành xử này đã trở thành
tập quán, chỉ để phô trương có sự cộng tác chặt chẽ giữa trí thức không đảng
phái và những người cộng sản. Tôi biết thừa và chẳng ngạc nhiên gì. Tôi đợi
bánh xe luân hồi của đạo Phật quay và sẵn sàng phòng thủ, không để cho những
bất trắc đánh bại”. (Un
Excommunié, trang 76-77)
Tham gia Cải cách ruộng đất
1953, sau khi dự Hội nghị
Vienne về, ông phải tham gia Cải cách ruộng đất.
Trả lời Hoà Khánh, ông
cho biết:
Hỏi:
Luật sư có đi tham gia Cải cách ruộng đất?
NMT:
Có. Hồi ấy, tất cả mọi cán bộ đều phải về các địa phương để tham gia Cải cách
ruộng đất cả. Tôi cũng phải đi.
Hỏi:
Luật sư về địa phương nào?
NMT:
Phủ Nho Quan.
Hỏi:
Công việc của các cán bộ cụ thể là làm gì?
NMT:
Để phụ với nhân dân tổ chức các cuộc Cải cách ruộng đất thôi.
Trầm
ngâm một lát, luật sư Nguyễn Mạnh Tường kể tiếp:
Chính
trong những đợt đi xuống địa phương ấy tôi mới thấy rõ, thấy hết sự tàn bạo của
nó. Lại im lặng. Chúng tôi cũng im lặng chờ đợi. Giọng của luật sư Nguyễn Mạnh
Tường trầm trầm, buồn buồn:
Đầu
tiên, về Phủ Nho Quan, chúng tôi được học tập là theo lệnh từ trên, tại địa
phương này có cả thảy 80% dân chúng thuộc thành phần địa chủ. Tôi điếng cả
người. Phẫn nộ, thấy ngay cách làm việc như vậy là rất trái khoa học. Khoa học
nào cũng phải sử dụng phương pháp quy nạp, phải căn cứ trên quá trình điều tra
thực tế cẩn thận, từ thực tế mà đúc kết thành nhận định. Đằng này thì mấy ông
từ trung ương cứ tưởng tượng ra các chỉ tiêu rồi ra lệnh xuống bắt các địa
phương phải thực hiện. Cán bộ địa phương muốn hoàn thành công tác thì phải kích
thôi. Có nhiều gia đình nghèo xơ nghèo xác, ở trong một căn nhà hẹp có hai
gian, tài sản đâu chỉ được một hai mẫu ruộng thế mà cũng bị ghép váo thành phần
địa chủ. Để cho đủ số lượng mà! Tội lắm. Oan ức nhiều không sao kể hết được.
Hỏi:
Luật sư có tham gia vào cuộc xử án nào không?
NMT:
Không. Người ta đâu có cần luật sư. Mình đi là cốt để rèn luyện quan điểm, rèn
luyện lập trường thôi, chứ đâu phải để xử án hay biện hộ cho ai.
-
Thế thì ai làm chánh án, luật sư trong các vụ đấu tố?
NMT: Chẳng có chánh án, luật sư gì cả. Phiên tòa
được tổ chức ở một bãi sân rộng đâu đó trong làng. Mấy anh thuộc thành phần bần
cố nông ngồi ngất ngưởng trên bàn để luận tội, còn mấy người bị gọi là địa chủ
thì bị xích cổ, trói chân, trói tay, quỳ mọp giữa sân…
- Có
cả chuyện xích cổ ư?
- Có. Suốt “phiên toà”, hết bần cố nông này lên
tiếng chửi thì đến bần cố nông khác lên chửi tiếp. Xong rồi đến lượt hành hình
địa chủ, vậy thôi.
-
Luật sư có bao giờ can thiệp vào những sự đấu tố dã man như vậy không?
- Có mà muốn chết à? Không. Có chẩy nước mắt thì
cũng rán mà giấu đi.
- Có
địa chủ nào được quyền tự biện hộ, tự thanh minh cho mình không?
- Không. Lúc đó, ai cũng hồn kinh phách
tán cả rồi, mặt mũi xanh rờn, đứng còn không nổi nữa thì nói gì đến chuyện tự
biện hộ. Mà ai cho? Cứ bị khép vào thành phần địa chủ là coi như đã chết” (Hoà Khánh, bđd).
Bối cảnh Phủ Nho
Quan sẽ được đưa vào tiểu thuyết Une
voix dans la nuit – Tiếng vọng trong đêm, và cũng là nền tảng
của bài diễn thuyết Qua
những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo tại
Mặt trận tổ quốc ngày 30/10/1956.
10/10/1954, quân cách mạng tiến vào Hà Nội
Là nhân chứng không thể
loại trừ, Nguyễn Mạnh Tường viết về ngày lịch sử 10/10/1954:
“Mười
giờ sáng ngày 10/10/1954, lực lượng Kháng chiến long trọng bước vào thành phố
đã chinh phục lại. Quân đội mở đầu, cờ cao, trống thúc! Cán bộ dân sự đứng trên
xe vận tải chào mừng quần chúng tụ tập hai bên đường, tay vẫy cờ giấy, hoan hô
cổ võ đến khàn giọng nghẹt thở (…)
Trong
khoảng mười lăm ngày, cán bộ bị cấm trại ở một nơi, vì lý do gì, không ai biết
(…) Về phía mình, một phần, nóng lòng được đặt chân về chốn tôi đã sinh ra,
thành phố không ngừng ám ảnh tôi trong những năm dài xa cách; phần khác, lòng
càng héo mòn ủ rũ vì ngay từ phút đầu đã không thể trở về nhìn lại mẹ cha, mà
tuổi hạc càng làm tăng thêm ước muốn được âu yếm nhìn thấy đứa con đầu lòng, đã
phải xông pha quá lâu, cho dù hai thân đã chấp nhận sự hy sinh ấy là cần thiết
và chính đáng.
Cuối
cùng, rồi nỗi khổ tâm của chúng tôi cũng chấm dứt khi người ta thông báo cho
biết tôi được nhận công tác tiếp quản Đại học Luật khoa. Sau nghi lễ, tôi chạy
vội về nhà, cha mẹ tôi oà khóc khi thấy tôi còn sống! (…) (Un Excommunié, trang 23-24-25-26)
Song song với ngòi bút
nhà văn, ngòi bút luật gia và chính trị gia phân tích tâm lý những người cộng
sản:
“Thời
gian trôi đi, Đảng lần khân và chậm quyết định mở lại hay đóng cửa trường Luật.
Tôi hiểu những ngần ngại này. Trong nhiều năm được nhà cầm quyền chỉ định làm
luật sư (avocat d’office) tại các toà án, và nhờ giao tiếp thường xuyên với
những người được gọi là có trách nhiệm, tôi đo lường được trong cái vô thức bí
mật của họ, sự ghê tởm luật pháp đến thế nào! (…)
Trong
khi người chính trị khẳng định chủ lực (volontarisme), thì người luật pháp chọn
chủ luận (rationalisme). Một bên đặt vấn đề cụ thể, phân tích những yếu tố,
khảo sát mối tương quan và hấp lực hỗ tương giữa các đối tượng, để tìm một giải
pháp lợi hại nhất, và dùng quyền lực để thực hiện giải pháp đó. Họ không cảm
thấy bị trói buộc bởi bất cứ nguyên tắc nào, họ không bị bắt buộc, họ tự do như
con ngựa phi trên vùng thảo nguyên, bạo liệt như trận cuồng phong hung dữ chặt
thủ cấp những nóc nhà, vùi sâu dân chài trong lòng biển cả. Trong cơn mê sảng,
quyền lực chính trị lợi dụng những thế cờ thuận tiện để phất lên lá bài của
mình và tỏ rõ sự sắt đá đã lột xác. Nhưng thời cơ thuận lợi của họ vấp phải sự
cứng rắn của luật lệ, của luật pháp: Họ quyết định quét sạch luật lệ, dầy xéo
luật pháp; tuy nhiên họ vẫn tiếp tục bình thản ngủ vùi, bởi trong chiến khu,
Nhà nước chỉ nói chuyện với cỏ cây, súc vật trong rừng rú, dân chúng thì đã
chín rụng vì lòng yêu nước cao độ và ý thức bổn phận, nên không ai làm phiền sự
nghỉ ngơi của những kẻ thống trị. Nhưng tất cả mọi sự đều thay đổi khi trở về
Hà Nội. Ở đây, dư luận thị thành luôn luôn khuấy động, cả sự ngậm tăm cũng làm
chính quyền lo ngại. Nó tỏ sự tôn trọng luật pháp. Khi quyền lợi của họ bị xâm
phạm, họ gõ cửa luật sư và pháp đình là thành lũy của công bằng và pháp lý.
Nhà
nước cộng sản, để tỏ thiện ý, không thấy bất tiện việc giữ lại Luật sư đoàn,
bởi đó là hàng quan chức tư pháp đã được thay thế bằng những người sùng bái
Đảng và đã được Đảng giáo dục để quyết định số phận các cuộc tranh tụng. Vấn đề
nội trị có thể giải quyết dễ dàng. Nhưng từ khi về Hà Nội, toàn thế giới nhìn
vào Việt Nam, sự giao tế bây giờ thoát khỏi biên thùy các “nước anh em” mà kéo
dài tới các nước tư bản. Nay, những nước này lại tỏ ra rất hâm mộ luật pháp và
đưa cái bản Hiệp định [Genève] mà
họ ký vào trong khuôn khổ pháp luật. Ngoài ra, những pháp viện và những tổ chức
quốc tế chăm chú nhìn vào Việt Nam để phán xét xem họ có thể nghiêng cán cân về
phiá nào: giúp đỡ hay phản đối. Chính nhờ con đường quốc tế mà luật pháp đã xâm
nhập một cách vũ bão vào hiện tình Việt Nam và những người cầm quyền bắt buộc
phải để ý”. (Trích dịch Un Excommunié, trang 28 và 30).
Những dòng trên đây mô tả
cuộc xung đột quyết liệt giữa chính trị và luật pháp, sau 1954, khi quân cách
mạng tiếp thu Hà Nội và sự thủ tiêu luật pháp sau khi Đảng nắm vững chính
quyền, đồng thời giải thích việc Nguyễn Mạnh Tường diễn thuyết tại Mặt trận tổ
quốc, đòi tự do dân chủ và nhà nước pháp trị.
Diễn thuyết tại Mặt trận tổ quốc: Qua những sai lầm trong cải
cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo
Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn
ghi lại lời thầy Tường ở Hà Nội:
“Ở
Hội nghị của Mặt trận Tổ Quốc, họp ở Hà Nội ngày 30 tháng 10 năm 1956, sau khi
ông Trường Chinh, thay mặt Đảng Lao động Việt Nam, tự phê bình về các sai lầm
đã phạm trong Cải cách ruộng đất, tôi đọc bản tham luận “Qua những sai lầm
trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo”. Từ góc độ một người
hoạt động trong lĩnh vực luật pháp, tôi nói đến một chế độ pháp trị chân chính,
một chế độ dân chủ thực sự. Đi Hội nghị về, Nguyễn Hữu Đang đến phỏng vấn,
rồi viết bài đăng lên báo Nhân văn. Tôi như thành một người “phạm pháp quả
tang”, bị sa thải khỏi Đại học và không được hành nghề Luật sư nữa. Từ
1957 là thời kỳ đen tối của cuộc đời tôi. Tuy vậy, tôi đã lợi dụng thời
gian rảnh rỗi này để viết sách, trong đó có cuốn Lý luận giáo dục châu Âu từ
thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, tôi cố ý viết bằng tiếng Việt để lãnh đạo có thể
đọc được.” (Nguyễn Văn
Hoàn, bđd).
Trả lời Hoà Khánh ở
Paris, Nguyễn Mạnh Tường cho biết thêm nhiều chi tiết hơn:
“Các
anh cũng biết là, vụ Cải cách ruộng đất đã thất bại nặng nề đến nỗi ông Trường
Chinh phải mất chức Tổng bí thư đảng cơ mà. Lúc đó có phong trào sửa sai ghê lắm. Trong
cái cuộc vận động sửa sai như thế, ông Tố Hữu, rồi ông Trường Chinh, rồi ông
Xuân Thủy đã lần lượt gọi tôi đến nhà riêng của các ông ấy để yêu cầu tôi,
trong cuộc hội nghị của Mặt trận Tổ quốc, trình bầy cho mọi người biết thế nào
là dân chủ. Các ông ấy nói là sau sai lầm Cải cách ruộng đất, chúng ta phải cố
làm sao để cho chế độ xã hội chủ nghiã trở thành một chế độ thực sự dân chủ.
Nghe thế, tôi mừng quá nên nhận lời ngay. Thế rồi hội nghị được tổ chức. Tôi
thuyết trình trọn cả ngày, ba giờ buổi sáng, ba giờ buổi chiều. Thuyết trình
xong, người ta khen ghê lắm. Ông Trường Chinh, Ông Xuân Thủy, ông Dương
Bạch Mai sau đó lại yêu cầu tôi viết lại bài nói chuyện đó để đưa cho mấy ông
xem.
-
Thế trong cuộc hội nghị, luật sư chỉ nói miệng chứ không đọc bài viết đã soạn
sẵn?
-
Không. Thì giờ đâu. Chính mấy ông ấy bảo thì tôi mới viết lại chứ. Tôi đánh máy
bài viết thành hai bản, nộp hết cho mấy ông. Thế mà không biết tại sao, bài
viết đó lại lọt ra nước ngoài, bọn báo chí ngoại quốc làm ầm ĩ lên thế mới chết
chứ.
-
Luật sư còn nhớ chắc là không hề đưa bài viết ấy cho ai khác?
-
Chắc chắn. Cả hai bản đánh máy tôi đều nộp hết cho ông Trường Chinh và ông
Xuân Thủy. Tôi chỉ giữ lại bản nháp viết tay thôi.
-
Thế thì luật sư có thể đoán được là tại sao, từ nguồn nào, bài biết của luật sư
lại lọt ra nước ngoài được không? Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cười lắc đầu:
Chịu
thôi, ở đời vẫn có những bí mật như thế đó, các anh ạ.
-
Thế sau khi bài viết bị tiết lộ ra ngoài thì cộng sản đối xử với luật sư như
thế nào?
-
Thì còn đối xử thế nào nữa. Kiểm điểm rồi đuổi việc thôi.” (Hoà Khánh, bđd)
Vậy, Trường Chinh và Xuân
Thủy, ai là người chuyển văn bản của Nguyễn Mạnh Tường ra ngoại quốc, và với
mục đích gì?
Ba mươi năm sa mạc
Trả
lời Hoà Khánh:
-
Luật sư có bị bắt, có bị giam cầm gì không?
- Không. Chỉ bị đuổi ra khỏi tất cả
những nơi đang làm việc. Và độc ác nhất là bị cô lập hoàn toàn. Các anh cứ
tưởng tượng suốt mấy chục năm trời, không ai dám đến gặp tôi cả. Họ sợ bị liên
lụy đến bản thân, đến gia đình của họ. Có khi, đi ngoài đường, nhìn thấy tôi từ
xa, là bạn bè, học trò cũ của tôi phải tránh đi chỗ khác. Tôi cũng không trách
gì họ. Vì sự an toàn của họ, họ phải làm thế thôi. Nhưng đau xót lắm.
-
Trong thời gian suốt mấy chục năm trời như vậy, luật sư làm gì để sống?
- Không làm gì cả. Xin việc gì người ta cũng
không nhận. Thoạt đầu, cứ bán dần đồ đạc trong nhà mà ăn tiêu. Bán bàn ghế,
giường tủ, rồi bán quấn áo, giầy dép… cuối cùng phải bán đến cả sách vở tôi
dành dụm thu thập sắm trong hai mươi năm. Bán theo giá bán giấy ký thôi. Rẻ
mạt. Nhưng cần sống thì phải bán. Cứ mỗi lần bán sách là mỗi lần tôi có cảm
tưởng như có ai lấy dao găm đâm vào tim mình. Rồi tất cả đồ đạc cạn dần, cạn
dần. Tôi lại sống bằng sự bố thí của anh em, bạn bè. Lâu lâu người này cho cái
đồng hồ, người khác cho một ít tiền.
-
Những người giúp luật sư thuộc thành phần nào?
- Một số là học trò cũ cũa tôi; một số là bạn bè
của tôi lúc còn ở Pháp và một số khác nữa là hoàn toàn xa lạ vì nghe tiếng tôi,
thương cho hoàn cảnh của tôi, từ Pháp thỉnh thoảng cho một ít quà.
- Họ
là người Việt Nam hay là người Pháp?
-
Người Việt có, người Pháp có”. (Hoà Khánh, bđd)
Trả
lời Phạm Trần:
“Cuộc
sống thật gay. Khó khăn thật lớn. Nhưng cái khó khăn nhất là nỗi cô độc. Không
ai dám tiếp xúc với mình. Học trò thấy mình từ xa thì đã né tránh. Nhưng tôi
hiểu và thông cảm cho họ. Còn sau này, thỉnh thoảng vẫn có anh em cán bộ đi
công tác và họ nhờ tôi chỉ vẽ đôi chút tiếng Pháp. Ai sẵn thì họ giúp chút ít.
Thế thôi”. (Phạm Trần,
bđd).
Đói:
“Tôi
muốn dạy tư Pháp văn tại nhà riêng. Nhưng vừa bắt đầu thì một bọn công an, có
lẽ do thám tử và chỉ điểm quanh tôi, báo, ùa vào nhà, bảo rằng trong chế độ
cộng sản, chẳng có gì riêng tư, kể cả những bài học do người thầy bần cùng
nghèo đói dạy! Làm gì bây giờ? Vì cao tuổi, không thể đạp xích lô như một số
đồng nghiệp trẻ, chứ tôi nào có sợ gì “người ta xầm xì này nọ” (…)
Tôi
bị kết án đói kinh niên. Một sự mệt mỏi mênh mông, vô bờ bến, xâm chiến thân
thể, như nước sông mùa lụt tràn ngập một miền, chỉ ngọn cây và đỉnh đồi là trồi
lên được. Tôi có cảm tưởng như mình bị nhận chìm trong một trạng thái hôn mê mà
sự sáng suốt của ý thức thỉnh thoảng bùng lên chọc thủng. Cố gắng đứng dậy đi
vài bước lảo đảo nhưng rồi lại ngã lăn đùng ra giường, đợt sóng bạc nhược đánh
tan tành tất cả sức lực cơ bắp còn lại. Cùng lúc ấy, dạ dầy quặn thắt trong một
chuyển động tuần hoàn cực kỳ đau đớn. Những co giật làm tôi luân lưu giữa căng
và dãn, trước khi bị vùi sâu trong cơn thuỷ triều bất tỉnh, mất hẳn khả năng
tri giác. Ra khỏi những cơn khủng hoảng này, cật vỡ, hồn bầm. Tôi đã học tập
kinh nghiệm đói!” (Un Excommunié,
trang 254- 257- 258).
Trở lại Pháp (10/1989-1/1990)
Mùa xuân1989, dược sĩ
Tống Lịch Cường, anh rể Nguyễn Mạnh Tường ở Paris, viết giấy bảo lãnh để ông
sang Pháp, chuyến đi do các học trò cũ đài thọ.
Tháng 10/1989, ông đến
Pháp, ở nhà nha sĩ Nguyễn Văn Lung, em ruột bà Hoàng Xuân Hãn, 12 rue
d’Auteuil, Paris 16, gần nhà ông bà Hoàng Xuân Hãn, 60 rue Théophile Gautier
Paris 16. Địa chỉ trên giấy tờ: 51 Boulevard Montparnasse (14/1/1990).
“Năm 1989, ở tuổi 80, những người bạn Pháp Việt
mời tôi đi Pháp. Lúc đó, sau Đại hội VI của Đảng cộng sản, lần đầu tiên trong
lịch sử, họ tuyên bố chủ nghiã tự do oe oe chào đời; tôi lợi dụng cơ hội để xin
cấp giấy thông hành đi Pháp. Tôi cũng không nghĩ là đơn được chấp thuận với quá
khứ chính trị nặng nề như vậy. Nhưng, ngạc nhiên vô cùng, chỉ hai tháng là tôi
có giấy thông hành và hộ chiếu xuất ngoại. Chẳng may chính phủ Pháp lại làm khó
dễ trong nhiều tháng mới cấp giấy nhập cảnh. Đúng là thế giới lộn ngược.
Tôi
đến phi trường Orly một buổi chiều tháng mười. Những người bạn Pháp Việt đón
tôi thật cảm động. Sau 60 năm, tôi tìm lại quê hương của trí tuệ tôi cùng với
sự đón tiếp ân cần và tế nhị của những trái tim vàng. Sức khoẻ suy nhược bởi 40
năm thiếu dinh dưỡng thể xác và khốn đốn tinh thần làm tôi quỵ ngã. Lần đầu
tiên trong đời, ở tuổi tám mươi, tôi vào một bệnh biện của Pháp, và đã được săn
sóc hết lòng. Mười ngày sau, tôi liên lạc lại với bạn hữu và tiếp tục công việc.
Trả lời phỏng vấn đài truyền hình TF1, thuyết trình hai lần, một ở Clermont
L’Hérault, gần Montpellier, nơi tôi đã đến tìm tài liệu về J. Boissières để làm
luận án phụ tiến sĩ văn chương, và một lần ở Paris VII. Tôi đến thăm Thủ lãnh
luật sư đoàn Paris.” (Un Excommunié,
trang 338-340).
Trả lời Phạm Trần, ông
nói:
“80 tuổi rồi, chẳng còn dám đặt chương trình gì
nữa. Có cái ước nguyện ôm ấp bao nhiêu năm nay là được sang đây để cám ơn các
ân nhân (hầu hết là học trò cũ). Những người đã giúp đỡ tôi mấy chục năm qua.
Không có họ thì tôi không chắc sống tới ngày nay. Mà bây giờ đã sang được. Thế
là mãn nguyện.
-
Làm sao sang được đây?
- Mọi chi phí các học trò tôi lo. Chứ
tôi làm gì dám nghĩ một cuộc Âu du như vậy” (Phạm Trần, bđd).
Phượng Linh Đỗ
Quang Trị viết:
“Năm
1990 qua Pháp, thầy được con một ông bạn Pháp cùng học ở Montpellier đóng tiền
bảo kê sức khoẻ. Ông bố đã mất nhưng con nhớ bố kể lại, rất khâm phục tài học
của thầy Tường, nên đã giúp đỡ. Nhờ vậy mà khi thầy Tường ngã ngất vì tim yếu
tại nhà anh Nguyễn Văn Lung là em Hoàng Xuân Hãn phu nhân. Thầy đã được đưa vào
bệnh viện điều trị miễn phí”. (Phượng Linh Đỗ Quang Trị, Thầy Nguyễn Mạnh Tường không còn nữa, tài
liệu đánh máy).
Trong thời gian ở Pháp,
ngoài các buổi trả lời phỏng vấn và nói chuyện ở các đài truyền hình TF1, FR3,
đại học Paris VII v.v… Nguyễn Mạnh Tường còn tiếp xúc rộng rãi với mọi tầng lớp
Việt kiều, đặc biệt ông muốn gặp giới trẻ quan tâm đến tình hình đất nước và
chúng tôi, theo lời yêu cầu của bác sĩ Trịnh Văn Tuất, bạn ông, cũng đã tổ chức
một buổi tại nhà.
Trong những cuộc gặp gỡ
ấy, ông đều nói thẳng nói thật, nhưng khi gặp những câu hỏi có tính cách chính
trị, của những người muốn ông mạnh mẽ phản đối nhà cầm quyền, về sự đối xử với
ông trong 30 năm sau Nhân Văn Giai Phẩm, ông ôn tồn trả lời: bản thân ông đã
quên mọi oán thù. Về Hồ Chí Minh, ông bảo: hãy để lịch sử phán đoán. Lúc đó
phong trào cách mạng nhung vừa khởi xuất, hỏi ông tiên đoán gì về tình hình
Việt Nam? Ông mỉm cười: tôi không phải là nhà tiên tri. Việc gì phải đến sẽ
đến.
Về phía ông, chuyến đi
Pháp dường như là động cơ thúc đẩy ông viết, bởi khi về nước, chỉ trong vòng
bốn năm (từ 1990 đến 1994), ông đã hoàn tất một lượng sách đáng kể.
Trở lại Hà Nội – Những
năm tháng cuối
Thư từ trao đổi giữa
Nguyễn Mạnh Tường và Nguyễn Văn Lung (1916 – 2009)
Vận động Francophonie và viết sách
Chúng tôi công bố những
thư viết tay và đánh máy của Nguyễn Mạnh Tường gửi Nguyễn Văn Lung, vì đây là
chứng từ đích thực về giai đoạn 1990- 1994, thời kỳ ông viết mạnh nhất.
Francophonie (Cộng đồng
quốc tế các nước nói tiếng Pháp) là một tổ chức được thành lập năm 1986, trong
khuôn khổ hội nghị thượng đỉnh các nước nói tiếng Pháp tại Paris. Việt Nam tham
dự tổ chức này từ tháng 12/1989, nhân chuyến thăm của Alain Decaux, bộ trưởng
đặc trách khối Pháp Ngữ. Nha sĩ Nguyễn Văn Lung, qua thư từ trao đổi với những
người Pháp, chứng tỏ ông đã hết sức vận động Bộ Ngoại Giao Pháp tài trợ để mở
các Câu lạc bộ Pháp ngữ tại Việt Nam. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường chấp nhận đứng
ra tổ chức và làm đại diện cho Câu Lạc Bộ Pháp ngữ Hà Nội.
Là bạn thân của Nguyễn
Mạnh Tường, Nguyễn Văn Lung về Sài Gòn tháng 1/1990 và ở lại đến tháng 4/1990,
lo việc mở mang Francophonie ở Việt Nam. Nguyễn Mạnh Tường từ Paris về Hà Nội
tháng 1/1990. Họ gặp lại nhau tại Hà Nội.
Tất cả thư từ trao đổi đều viết bằng tiếng Pháp. Nha sĩ Lung trao cho chúng tôi bản chính,
và dù ông không nói ra, chúng tôi cũng hiểu, ngụ ý của ông, là để sau này, nếu
có điều kiện, nên gửi những tư liệu quý giá này về viện bào tàng lịch sử hay
văn học. Thư viết ngắn gọn, trực tiếp nói vào việc chính, thỉnh thoảng có vài
lời thăm hỏi, vài câu về chuyện gia đình. Chúng tôi dịch các phần chính, liên
quan đến văn học và lịch sử, lược bỏ việc riêng. Lời thư tỏ hết tâm tư và
nguyện ước của Nguyễn Mạnh Tường và nói lên không khí ông sống trong những năm
tháng cuối. Độc giả tiếp xúc trực tiếp với ông, không qua trung gian của ngòi
bút nào.
Thư ngày 26/1/1990, gửi
Fax từ Sài Gòn, của Nguyễn Văn Lung gửi Maharadja Indien, Emir Sarfaraz Husain,
Đại sứ Ấn độ tại Unesco.
Lá thư này khá dài, có
hai mục đích chính:
- Nhờ Emir Husain trợ
giúp mở rộng Francophonie ở Việt Nam, chủ đích tiến tới việc cấp học bổng cho
các bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, đi tu nghiệp ở Pháp.
- Giới thiệu giáo sư
Nguyễn Mạnh Tường như một nhân vật văn hoá Pháp-Việt đầy uy tín, mà ông Husain
có thể giới thiệu với giới trách nhiệm Francophonie, để tổ chức và hình thành
một “sách lược” đưa tiếng Pháp trở lại Việt Nam ở bậc Trung và Đại học.
Thư ngày 10/4/1990, Nguyễn
Văn Lung gửi Nguyễn Mạnh Tường:
Anh Tường,
Việc
in sách tiếng Việt:
Sau
khi thảo luận với luật sư Hiệp [Trần Thanh Hiệp], chúng
tôi đã quyết định:
-
Anh gửi cho tôi 4 tác phẩm viết tiếng Việt về vấn đề nghiên cứu Hy Lạp-La Tinh.
-
Chúng tôi sẽ cố gắng nhờ Hội Văn Bút Pháp hoặc Mỹ; hoặc nhờ l’ACCT (France)
giúp đỡ. [ACCT là Agence de Coopération
Culturelle et Technique-Cơ quan hợp tác kỹ thuật và văn hoá, Jean-Louis Roy làm
Tổng thư ký năm 1990].
Việc
in lại sách tiếng Pháp:
Về
bốn cuốn: Sourires et larmes d’une jeunesse, Pierres de France, Apprentissage
de la Méditérénée và Le voyage et le sentiment, tôi sẽ tìm hai cách:
Hoặc
nhờ l’ACCT in lại. Hoặc nhờ Bộ Ngoại Giao Pháp (qua ông Portiche).
Tôi
đang vận động Bộ Ngoại Giao để xin 20.000 cuốn sách giáo khoa, cho các Câu lạc
bộ Pháp Ngữ Sài Gòn, Đà Lạt, Huế và Hà Nội. Câu lạc bộ Sàigòn đã hoạt động, Đà
Lạt đã có giấy phép. Chỉ còn chờ Hà Nội và Huế.
Thư ngày 8/4/1990, Nguyễn
Mạnh Tường viết cho Nguyễn Văn Lung:
“Anh
nói với Husain và Portiche rằng việc hợp tác và chương trình Francophonie tiến
hành khó khăn, không phải vì chuyện thơ lại, nhưng có lẽ vì tài chính, tuy vậy
tôi vẫn hy vọng.
Anh
nhớ nhắc người bạn dạy Sorbonne (mà tôi quên tên), đã hứa giúp việc in sách của
tôi ở Pháp. Tôi đang đánh máy những tác phẩm mới: “Hồi ức của một người
trí thức và diện mạo Việt Nam trong 80 năm đời tôi, chủ yếu 40 năm dưới sự lãnh
đạo của cộng sản”[Ông muốn nói đến bộ hồi ký Larmes et Sourires
d'une vieillesse]. Hy
vọng cuối năm nay sẽ viết xong.
Tôi
sẽ mở lại văn phòng luật sư với sự cộng tác của một trong những luật sư đã
tập sự với tôi ngày trước (Luật sư Dương Văn Đam) [hay Đàm, vì không để dấu], chúng tôi chỉ chuyên về luật quốc tế,
chủ yếu về kinh tế”.
Thư ngày 1/5/1990:
“Cám
ơn anh đã cố gắng giúp tôi trong việc in tác phẩm. (…) Tôi đang cố cho
xong bộ hồi ký Larmes et Sourires d’une vieillesse và cuốn Triptyque, cả
hai đều viết bằng tiếng Pháp, hy vọng từ giờ đến cuối năm sẽ đánh máy xong. Về
Francophonie vẫn đang gặp khó khăn…
Thư ngày 27/5/1990:
Anh
Lung,
Ông
bạn Fouilloux (Les Echelles -2 allée des Ecuyers- Chambourcy) đã chụp được cuốn
sách thứ tư của tôi, Le voyage et le sentiment- kịch 3 màn. Tôi đã nhờ ông ấy
chuyển cho anh một bản để anh có đủ 4 tác phẩm của tôi đã in ở Việt Nam năm
1940 mà chưa in ở Pháp. Anh xem có thể làm gì được không, và nhất là nhờ anh dò
ý nhà xuất bản Việt (mà tôi quên không ghi tên và địa chỉ) xem họ còn muốn giữ
lời hứa in lại những sách ấy không. Cám ơn anh. Và bây giờ tôi có vài dòng về
Câu lạc bộ Pháp ngữ:
1-
Nhà cầm quyền Việt Nam chưa động tĩnh gì. Họ sợ, không muốn cho phép mở. Có thể
phải nhờ sự can thiệp của chính phủ Pháp.
2-
Phải có trợ cấp để thuê một nơi làm phòng đọc sách và diễn thuyết. Vấn đề tài
chính cũng quan trọng như vấn đề giấy phép của chính quyền.
Ngày 18/6/1990, bác
sĩ Lung gửi Fax cho luật sư Tường qua ông Dominique Gallet [nhân viên Bộ ngoại
giao Pháp], ông này nhờ một dân biểu Pháp sang VN đem lại:
“Anh
Tường,
Từ
tháng tư, khi về lại Paris, tôi vẫn chờ tin của ông Maurice Portiche, về việc
gửi những dụng cụ làm việc (sách học, cassettes, v.v…) về các trung tâm dậy
tiếng Pháp trong nước, như Sài Gòn, Đà Lạt, Huế, Hà Nội.
Ông
Fouilloux cũng đã chụp được cuốn “Le voyage et le sentiment” (kịch) ở Thư viện
quốc gia Pháp và gửi cho tôi. Và bà Musain Claire cũng đã chụp dùm những cuốn
còn lại. Như vậy, tôi đã có đủ 4 cuốn sách của anh để in lại. Hy vọng sớm
tìm được “người bảo trợ” cho việc “làm sống lại” tiếng Pháp ở Việt Nam.
Khi
nào có tin mừng cho các giáo sư và học sinh đang đợi sự bảo trợ để tiến hành
chương trình Francophonie, tôi sẽ báo cho anh.”
Thư ngày 3/7/1990, Nguyễn
Mạnh Tường gửi ông Tống Lịch Cường (anh bà Nguyễn Mạnh Tường), nhờ nhắn với ông
Lung:
“Như
anh [Cường] đã biết, tình trạng Việt
Nam càng ngày càng tồi tệ. Dân chủ lùi bước, nhà cầm quyền thắt chặt kiểm soát,
dân chúng và trí thức chờ đợi những giờ phút đen tối nhất. Vì thế, những cố
gắng xây dựng Câu lạc bộ Francophonie trở thành vô ích. Người ta không cho
phép tôi hành nghề luật sư tư với tư cách cá nhân. Người ta bắt tôi phải vào
Hiệp hội chính thức luật sư nhân dân (La Corporation officielle des défenseurs
populaires) có nghiã là người ta không cho tôi hành nghề luật sư. Đó là
hiện tình Việt Nam. Nhờ anh gọi điện thoại hỏi Lung xem việc in 4 cuốn sách của
tôi tới đâu đâu rồi. Từ khi Lung về lại Pháp tôi không nhận được tin Lung nữa.”
Thư ngày 21/7/1990
Về
việc Francophonie, tôi đã nhận được thư Alain Decaux [Bộ trưởng đặc trách khối Pháp ngữ] và tôi đã trả lời, đại ý:
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment