Đầu năm DL 2013, thân
chúc quí bạn bình tâm tin tưởng vào tương lai và nối vòng tay lớn hành động
giúp nước cứu dân !
Mong thay;
Nhật Thiện Thái Sơn.
-Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: 2013 : sắp
hết đời satan quỉ sứ /// 2014 : quỉ sứ nhăn răng !
Thời gian và thế sự
xoay vần
Chuột sa chỉnh
gạo nằm chơi (2008)
Trâu
cày ngốc lại chào đời bước ra (2009)
Hùm
gầm khắp nẽo gần xa (2010)
Mèo
kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời (2011)
Rồng
bay năm vẽ sáng ngời (2012)
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
(2013)
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng.(2014)
Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM
(1491 - 1585)
Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 bis 1585) sinh năm Tân hợi đời vua Lê Thánh
Tông Hồng Ðức thứ 22 tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn
Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) Thân phụ của ông
là giám sinh Nguyễn Văn Định, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong
đường khoa cử. Thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của Thượng thư bộ hộ
Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông. Quê ông ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh,
phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên
Lãng, Hải Phòng.
Theo
tài liệu để lại bà Nhữ Thị Thục là bậc nữ lưu tài hoa giỏi văn chương và
tài học về lý số. Biết trước những gì có thể xảy ra và mộng lớn con cái nên
danh phận.
Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc trẻ học với Lương Ðắc Bằng từng là đại
thần giữ chức Thượng thư dưới triều Lê sơ, ông dâng những điều trần nhằm ổn
định triều chính không được vua Lê thi hành, Lương Đắc Bằng cáo quan về quê
sống đời dạy học (1509). Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh chăm chỉ trở thành
học trò xuất sắc.
Bởi vậy trước khi qua đời, Bảng nhãn Lương Đắc Bằng trao
cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý về Dịch học (Chu Dịch) là Thái Ất thần
kinh, từ đó ông tinh thông về lý học và tướng số, nghiên cứu về lý số với
thiên tài “thần thông” có khả năng siêu quần, quán chúng về thấu thị, thần
giao cách cảm, Nguyễn Bỉnh Khiêm bỏ qua 9 kỳ đại khoa (trong đó có 6 khoa
thi dưới triều Lê sơ).
Ngay cả khi nhà Mạc lên thay nhà Lê sơ (1527), xã
hội dần đi vào ổn định nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không vội vã ra ứng thí
(ông không tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới triều Mạc). Tới năm Đại Chính
thứ sáu (1535) đời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) thịnh trị vương đạo nhất
triều Mạc (1527-1592), ông quyết định đi thi và đậu ngay Trạng Nguyên. Năm
ấy ông đã 45 tuổi. được bổ nhiệm làm Đông Các hiệu thư rồi sau giữ nhiều
chức vụ khác nhau như Tả Thị Lang Bộ Hình, Tả Thị Lang Bộ Lại, kiêm Đông
Các Đại Học, làm quan được 8 năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần vua
không nghe.
Ông cáo quan năm 1542 về vườn, lập Bạch Vân Am và hiệu Bạch Vân
Cư Sĩ mở trường dạy học cạnh sông Hàn Giang còn có tên Tuyết Giang, các môn
sinh tôn ông là “Tuyết Giang phu tử”. môn sinh của ông có nhiều người hiển
đạt sau này như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thời Cử, Đinh
Thời Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con trai cả của ông)… thơ
Trạng Trình với triết lý của Thái Ất là nguồn tri thức hữu
thể, về đời sống nhân sinh với càng khôn trong vũ trụ. Thái Ất còn gọi là
Lý Thiên, Lý Địa và Lý nhân.
Ngư ông bất ngộ
Ðào Nguyên khách
Khởi thức hưng
vong thế cổ kim
Nhàn trung hoa
thảo túc cung xuân
Tà dương độc lập
đô vô sự
Ta dại ta tìm nơi
vắng vẻ
Người khôn người
đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc,
đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen,
hạ tắm ao…
Dù Nguyễn Bỉnh Khiên không còn làm
quan, nhưng vua Mạc Phúc Hải phong cho ông tước Trình Nguyên Hầu vào năm
Giáp thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, sau đó
được thăng chức Thượng Thư Bộ Lại, tước hiệu Trình Quốc Công. Từ đó người
đời gọi ông là Trạng Trình. Nhờ học phương pháp tính theo Thái Ất, tiên
đoán được biến cố trước và sau 500 năm. Người Trung Hoa khen Trạng trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm “An Nam lý học hữu Trình Tuyền”.
Tục truyền rằng
Năm Bính ngọ (1546) Mạc Phúc Hải mất truyền ngôi lại cho con Mạc Phúc
Nguyên mãi đến năm mậu thân (1548) vua Trang Tông mất, Trịnh Kiểm lập Thái
tử tên Duy Huyên lên ngôi tức Trung Tông được 8 năm thì mất không có con
nối nghiệp.
Trịnh Kiểm muốn làm vua nhưng còn sợ dư luận, nên sai người đến
Hải Dương hỏi ý khiến Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. ông không chỉ bảo
người giúp việc ngụ ý: “năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày
nên tìm giống cũ mà gieo mạ, gữi chùa thờ Phật thì ăn oản.. “ Sau đó
Trịnh Kiểm tìm con cháu họ Lê lên làm vua.
Dù Trạng Trình ở ẩn, vua Mạc cũng
như các chúa Trịnh, chúa Nguyễn có việc hệ trọng vẫn cho người đến hỏi ý
ông. Ông thường kín đáo khuyên Vua cố gắng tránh chiến tranh để nhân dân
khỏi chết chóc. Trong năm Quang Thiêu (Lê Chiêu Tôn) có việc biến loạn,
Nguyễn Bỉnh Khiêm không muốn tiếng tăm với đời lúc bấy giờ Trịnh Tuy, Mạc
Ðăng Dung cũng cố ý muốn tranh quyền, đánh nhau mấy năm dài. Ông tính số
Thái Ất, biết nhà Lê lại khôi phục được và làm bài thơ:
Non sông nào phải
buổi bình thời
Thú đánh nhau chi
khéo nực cười
Cá vực, chim
rừng, ai khiến đuổỉ
Núi xương sông
tuyết, thảm đầy vơi
Ngựa phi chắc có
hồi quay cổ (1)
Thú dữ nên phòng
lúc cắn người (2)
Ngán ngẫm việc
đời chi nói nữa
Bên đầm say hát,
nhởn nhơ chơi
Sau khi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung
(1483-1541) chiếm ngôi, con của vị tướng triều Lê là Nguyễn Hoàng Dụ trốn
sang Lào, được vua Lào cho nương náu ở xứ Cẩm Châu, trấn Nam Phủ, tỉnh
Thanh Hóa. Năm Quý Tỵ (1532) Nguyễn Kim lập con út vua Chiêu Tông lên làm
vua, gọi là Trang Tông. Để mưu đồ đại sự, Nguyễn Kim (1467-1545) thu nạp
kiện tướng ở tỉnh Thanh Hóa là Trịnh Kiểm, sau là rể của Nguyễn Kim. Năm
Canh Tý (1540), Nguyễn Kim đem quân đánh chiếm Nghệ An và thu phục luôn cả
Thanh Hóa. Nhưng bỗng dưng Nguyễn Kim chết vì ngộ độc (1545), mọi bình
quyền về tay Trịnh Kiểm. Việt Nam lúc bấy giờ bị chia đôi: từ Sơn Nam trở ra
thuộc nhà Mạc, gọi là Bắc Triều. Từ Thanh Hóa trở vào là khu vực của nhà Lê
hay gọi là Nam Triều.
Nguyễn Kim mất, để lại hai người
con trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng (1525-1613) cả hai tuy còn ít tuổi
nhưng đã bộc lộ tài năng xuất sắc hơn người. Trịnh Kiểm lo sợ cả hai sau
này có thể tranh giành địa vị với mình, nên ngấm ngầm ngăn trở dù Nguyễn
Uông chỉ mắc một lỗi nhỏ, Trịnh Kiểm cũng buộc Nguyễn Uông phải chịu phép
gia hình. Nguyễn Hoàng thấy anh bị hại, sợ đến lượt mình, liền cử người kín
đáo lên hỏi Trạng Trình. Trạng không trả lời cụ thể, chỉ đứng ngắm đàn kiến
bò trên hòn non bộ trước sân nhà và nói một câu:
Hoành sơn nhất
đái, vạn đại dung thân.
Nghĩa là từ núi đèo ngang ở Quảng
Bình kia có thể yên thân được muôn đời. Từ câu nói đó, Nguyễn Hoàng nghiệm
ra rằng trạng Trình bày cho kế đi vào phương Nam lập nghiệp. Từ năm 1558
Nguyễn Hoàng vội vàng đến nói riêng với chị là bà Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm
cho vào trấn phiá Nam, năm Mậu ngọ (1558) đời vua Anh Tông Trịnh Kiểm tâu
vua cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa, phía Nam dãy Hoành Sơn. Nhờ
thế mà lập nên cơ nghiệp của họ Nguyễn ở Đàng Trong, truyền nối lâu dài.
Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan,
có lòng nhân đức thu dụng hào kiệt giúp dân cho nên được lòng dân kính
phục. Trấn giữ đất Thuận Hóa, mở đầu cho triều đình nhà Nguyễn từ từ khai
phá cho đến vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày nay.
Ngoài ra rất nhiều lời sấm
được lưu truyền qua dân gian nhiều lời bàn diễn giải khác nhau như câu: ”
Cẩu vĩtrư đầu, xuất thánh nhân ” ứng nghiệm vào việc vua Gia Long lên
ngôi từ (1802-1819) thống nhất sơn hà vào năm Nhâm tuất ngày 02-05-1802.
trải qua 13 triều đại. Hoàng đế cuối cùng Bảo Ðại trị vì từ 1929 và thoái
vị năm 1945.
Tương truyền Trạng Trình nói trước
nhà Mạc suy vong, ông đọc hai câu thơ: “Cao Bằng tàng tại- tam đại tồn
cô” (nghĩa rằng rút về đất Cao Bằng thì sẽ sống thêm được ba đời nữa)
con cháu họ Mạc về đất Cao bằng tuy nhỏ nhưng được 3 đời là Mạc Kính Cung,
Mạc Kinh Khoan và Mạc Kinh Vũ. Dòng dõi họ Mạc bị bắt, bị giết nhiều người
đổi họ lưu lạc khắp nơi để mưu cầu sự sống.
Trạng Trình có 3 người vợ và 12
người con (7 trai 5 gái) các con trai đều có chức tước sau nầy. Ông mất
ngày 28 tháng 11 năm Đinh dậu, niên hiệu Diên Thành thứ 8 nhà Mạc (1585)
hưởng thọ 94 tuổi.
Theo sử sách Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có
công lớn đối với triều đình nhà Mạc nên sau khi mất (1585) vua Mạc Mậu Hợp
ứng cử Ứng Vương Mạc Đôn Nhượng, phụ chính triều đình làm khâm sai cùng với
văn võ bá quan về dự lễ tang. Tháng Giêng năm sau (1586), vua Mạc ban cho
làng Trung Am 3.000 quan tiền để lập đền thờ ông và cấp 100 mẫu ruộng để
lấy hoa lợi dùng vào việc thờ cúng. Đền thờ được dựng trên nền Giảng học –
Am Bạch Vân và tự tay nhà vua đề biển ngạch: “Mạc Triều Trạng Nguyên Tể
Tướng Từ” (Đền thờ Tể tướng Trạng nguyên Triều Mạc).
Trải qua những
biến cố lịch sử ngôi đền được trùng tu, xây dựng lại nhiều lần vào các năm:
Vĩnh Hựu nguyên niên (Ất Mão 1735, đời vua Lê Ý Tông); Minh Mạng thập tứ
(1833). Ngôi đền hiện nay được dựng lại vào năm Mậu Thìn (1928) đời vua Bảo
Đại. Đến năm 1985, nhân kỷ niệm 400 năm ngày mất của ông, một lần nữa đền
lại được trùng tu làm thêm nhà khách, hồ nước, cổng đền, tường bao, đường
vào đền…
Trước khi qua đời, Trạng trình có
ghi vào gia phả và dặn con cháu rằng: Bình sinh ta có tấm bia đá sẵn và đã
sơn kia. Khi ta mất rồi, hễ hạ quan tài xuống phải để tấm bia đá ấy lên nắp
rồi lấp đất. Chờ khi nào có khách tới viếng mộ và nói rằng: “Thánh nhân
mắt mù” thì phải lập tức mời người ấy vào nhà, yêu cầu họ đổi hướng lại
ngôi mộ cho ta. Nếu trái lời ta, dòng dõi về sau sẽ suy đồi lụn bại đấy.
Con cháu nghe lời, làm y như đã dặn. Nhưng chờ mãi đến năm mươi năm sau,
mới có người khách đến nhìn mộ cụ một lúc rồi nói: Cái huyệt ở đằng chân sờ
sờ thế kia mà không biết, lại tự đem để mả thế này.
Vậy mà thánh nhân gì
chớ, hoạ chăng là thánh nhân mắt mù. Người trong họ nghe được, chạy về báo
với trưởng tộc. Ông này vội vàng ra đón người khách Tàu kia về nhà, xin để
xoay ngôi mộ kia lại. Ra đó là một nhà phong thuỷ (Feng Shui) trứ danh ở
phương Bắc. Ông ta sang là để đi tìm xem di tích của Trạng, bấy lâu ông ta
đã nghe tiếng đồn.
Khi nghe vị trưởng tộc nói, ông ta sẵn lòng làm ngay, và
tự đắc cho rằng mình giỏi hơn Trạng Trình. Ông ta bảo: Không cần phải đem
đi đâu xa cả, chỉ đào lên rồi xoay lại, nhích đi một chút là được. Ông
trưởng tộc bèn tụ họp con cháu lại, đưa thầy địa lý Tàu ra đổi lại ngôi mộ.
Lúc đào đến tấm bia đá, ông ta làm lạ bảo đem rửa sạch xem những gì trên
đó. Khi tấm bia được rửa sạch, mới thấy mấy câu thơ hiện ra, tạm dịch
nghĩa:
Ngày nay mạch lộn
xuống chân
Năm mươi năm
trước mạch dâng đằng đầu.
Biết gì những kẻ
sinh sau?
Thánh nhân mắt có
mù đâu bao giờ?
Đọc tới đâu vị khách Tàu phải khâm
phục Trạng Trình mà ông ta nghe đồn là giỏi thật. Năm 1930 Việt Nam Quốc
Dân Ðảng lãnh tụ Nguyễn Thái Học (1901-1930) lãnh đạo cuộc tổng khởi nghiã
ngày 10.2.1930 đánh Tây ở các tỉnh: Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Hải Dương,
Kiến An. Thất bại bị Pháp điên cuồng ném bom tàn phá làng Bảo An để trả
thù. Có lời đồn Trạng Trình đã tiên đoán:
Kìa kìa gió thổi
lá rung cây
Rung Bắc rung Nam
rung tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am cây
Lâm giang nổi gió mù thao cát
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy
Một ngựa một yên ai sùng bái
Nhắn tin nhà vĩnh bảo cho hay „
Thoát nạn sập nhà
Trạng Trình giao cho con cháu một
ống tre sơn son thếp vàng, bịt kín hai đầu, và dặn đúng năm tháng ấy, ngày
giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh Thống đốc Hải Dương, trao
cái ống này cho quan thì sẽ cứu được tình thế gia đình. Khi Trạng mất, hằng
trăm năm sau, con cháu Trạng lâm vào cảnh đói nghèo, sa sút, nhưng tuyệt
đối không được mở ống ra xem trước thời hạn.
Trạng còn dặn kỹ trừ quan Tổng
đốc ra, không ai được mở ống, vì thế ống vẫn giữ nguyên vẹn. Trải qua bảy
đời, cái ống tre ấy mới được rước lên dinh quan Tổng đốc, đúng ngày giờ đã
ghi trong gia phả. Đang nằm nghỉ, nghe tin con cháu cụ Trạng mang thư đến
gặp, quan Tổng đốc rất ngạc nhiên, không biết vì cớ gì, nên truyền cho vào,
đồng thời quan ngồi dậy để đi ra cửa.
Quan Tổng đốc vừa bước khỏi giường
nằm được mấy bước thì bỗng rầm một cái, chiếc sà nhà không biết bị mọt ăn
hỏng từ bao giờ, rơi ngay xuống chỗ giường vừa nằm. Thật là một phen hú
vía! Nếu ông không kịp ngồi dậy nhận thư Trạng, thì mạng ông đã khó mà sinh
tồn. Quan Tổng đốc mở ống tre ra xem, thấy bên trong có một cuộn giấy, đề
hai câu thơ:
Ngã giải nhĩ
thượng lương chi ách,
Nhĩ cứu ngã tử
tôn chi bần
Nghiã là
Cứu người thoát
nạn đổ nhà,
Ngươi nên cứu
cháu con ta khỏi nghèo
Chưa hết kinh hoàng vì chuyện chiếc
sà nhà vừa rơi xuống, ông thoát nạn nhờ ra lấy lá thư. Quan Tổng đốc biết
rằng Trạng Trình cứu ông thoát chết, nên ông ta ân cần mời cháu Trạng Trình
về tư thất đãi hậu hỹ, sau đó đưa ra rất nhiều tiền giúp khỏi cảnh nghèo
đói.
Nguyễn
Công Trứ (1778-1858) phá đền
Năm Minh Mạng (1791-1840) năm thứ
14, Nguyễn Công Trứ được vua điều đi khẩn hoang ở vùng Hải Dương, Nguyễn
Công Trứ thấy địa thế cần phải đào con sông, đào sông thì phải phá đền thờ
Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông ra lệnh cho dân phu phá đền để khai phá
công trường. Khi sai người đào mang bát hương ra, Nguyễn Công Trứ chợt thấy
dưới bát hương có một tấm bia đá nhỏ phủ vải điều. Nguyễn Công Trứ lau sạch
đọc được các câu đã ghi:
Minh Mạng thập tứ
Thằng Trứ phá đền
Phá đền phải làm
đền
Nào ai đụng đến
doanh điền nhà bay
Nguyễn Công Trứ lập tức viết sớ về
kinh, xin bãi bỏ lệnh phá đền. Ông còn cho người sửa sang lại đền Trạng
Trình khang trang hơn. Từ đó ông không còn nghĩ đến việc phá đền để đào sông
nữa.
Cha con thằng Khả
Tục truyền trong làng có cha con
ông Khả đi bắt dế (chuột) kiếm sống. Khi đến bên mộ Trạng, hai cha con
vướng víu thế nào lại làm đổ tấm bia trên mộ. Dân làng rất sùng kính Trạng
Trình, nên khi thấy bia mộ bị đổ, họ nổi giận bắt cả hai cha con, kêu nộp
phạt ba quan tiền mới tha, vì khi tấm bia đổ xuống thấy có hàng chữ ở sau:
Cha con thằng
Khả.
Đánh ngã bia tao
Làng xóm xôn xao
Bắt đền quan tám
Cha con ông Khả chịu nộp phạt,
nhưng dân làng phải tha cha con về nhà chạy tiền. chỉ tìm được có một quan
tám, dân làng không chịu, cha con ông Khả ngẫm nghĩ phải nói với dân làng:
Cha con tôi bị Trạng Trình bắt phạt có quan tám, “Tam quán” nói lái lại
thành quan tám.
Thời gian và
thế sự xoay vần
Chuột sa chỉnh
gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời
Rồng bay năm vẽ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa hồng qủy mới nhăn răng.
Những điều tiên đoán trên, liên
quan với hiện tình đất nước Việt Nam. Hy vọng năm 2013 Qúy Tỵ cầm tinh con
rắn Việt Nam bước vào giai đoạn lịch sử mới mẻ hơn, người dân biết những gì
xảy ra tại các nước khác, giới trẻ ra nước ngoài học và trở về.
Tôi hy vọng
toàn dân cùng đoàn kết hổ trợ và tiếp tay với những người yêu nước giải thể
đảng CSVN để canh tân đất nước đem lại tự do, dân chủ đưa VN đến phú cường
và thịnh vượng.
Đảng cộng sản Việt Nam hãy thức dậy! mở to đôi mắt nhìn xa
hơn, bài học lớn nhất trong lịch sử, Thiên đường cộng sản Liên Sô (Soviet
Union) sụp đổ kéo theo các nước trong các nước Đông Âu: Poland, Romania,
Hungary, Bulgaria, Czechoslovakia (Slovakia/ Slovenia) bỏ chế độ cộng sản
để có tự do, độc lập và nhân quyền được tôn trọng . Noi gương nước láng
giềng Miến Điện cởi mở, trả tự do cho những tù nhân chính trị, chấm dứt
chính sách đàn áp, kiểm duyệt truyền thông báo chí, cho bầu cử tự do…
Những người cầm quyền đã quá giàu
rồi nên thức tỉnh để hưởng phúc, đừng tham quyền cố vị, không có khả năng
đưa đất nước phục hưng về kinh tế, chính trị giữ vững bờ cõi nên từ chức
cho người tài giỏi hơn lãnh đạo. Những nhà độc tài giàu sang hàng trăm tỷ USD
như Saddam Hussein, (Iraq) Gadhafi, (Lybia) N. Ceausescu (Romania) người
đời nguyền rủa và bị giết kéo xác trên đường phố như một con chó, con cháu
họ cũng bị giết hay bị tù tội, gia đình ly tán tài sản bị tịch thu.
Thơ văn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Kiêm còn lại hơn 100 bài trong bộ Bạch Vân Thi Tập, được dịch ra chữ quốc
ngữ, thơ mang nặng tình người, khuyên người đời biết điều nhân nghĩa, ngoài
ra còn một số giai thoại truyền tụng trong nhân gian…và những lời sấm ký có
giá trị. Đời sống của tiên sinh thật xứng đáng với câu đối ở đền thờ tại
Bạch Vân Am: “Kế tuyệt, phù suy Chư Cát Lượng – Tri lai, tàng vãng Thiệu
Nghiên Phu” (Nối được cái đã đứt, đỡ được cái đã suy như Chư Cát Lượng.
Tìm hiểu việc đã qua, dự đoán việc mai sau như Thiệu Nghiên Phu).
Nhà thờ ở
huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, có bức hoành phi đại tự ở chính giữa có 4 chữ “An
Nam lý học” từ câu “An Nam lý học hữu trình tuyền” có nghĩa là
am hiểu về lý học ở nước An Nam có Trình tuyền hầu (tước vị của Nguyễn Bỉnh
Khiêm), Đặc biệt có một số câu đối nói rõ chính kiến của ông về thế sự và
hậu thế ca ngợi công đức của ông.
Nguyễn Qúy Đại
1/ ứng nghiệm về sau nhà Lê khôi
phục
2/ ứng nghiệm nhà Trịnh giữ nhà Lê
Tài liệu
tham khảo
Việt Nam Sử lược: Trần Trọng Kim
Tự Ðiển nhân vật lịch sử: Nguyễn
Quyết Thắng
Những câu chuyện lịch sử tập 3:
Trần Gia Phụng
Thái Ất Thần Kinh nhà xuất bàn văn
Hóa
Trang Wikipedia. hình trên Internet
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment