Những sự thật
không thể chối bỏ (phần 15) - Người chồng, người cha tồi tệ
Đặng Chí Hùng
(Danlambao) - Kính thưa bạn đọc Danlambao, thông suốt 14 phần của loạt
bài gồm 15 phần “Những sự thật không thể chối bỏ”, tôi hoàn toàn đề
cập đến những lỗi lầm lớn của ông Hồ Chí Minh với dân tộc và đất nước Việt
Nam như: bán nước, giết người hàng loạt, làm gián điệp cho Trung cộng, âm
mưu Hán hóa Việt Nam và tội ác chiến tranh… Đó chính là những sự thật, những
tội ác mà dân tộc ta cần được biết trước sự bưng bít của đảng cộng sản Việt
Nam.
Bài thứ 15 này tôi xin trình bày
về một tội ác cá nhân của ông Hồ với những người vợ và con ông ta. Trong
phần này tôi xin không trình bày liệt kê ông ta có bao nhiêu vợ, bao nhiêu
con mà tôi xin chứng minh những điều sau đây: Ông Hồ có vợ con chứ không phải
không có như ông ta và đảng cộng sản tuyên truyền “Cả đời hi sinh hạnh
phúc riêng tư cho dân tộc”; tại sao lúc còn sống ông ta không dám công
khai thừa nhận chuyện này; và sự thật về một đảng cộng sản lừa dối nhân dân
cả về đời tư của ông ta.
Thật ra, trước tôi đã có nhiều
tác giả viết về đề tài vợ con của ông Hồ, hay như DVD “Sự thật về Hồ Chí
Minh” của linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã nói rất rõ. Tuy nhiên tôi viết bài
này không nhằm chỉ trích việc ông Hồ có nhiều vợ con, vì với tôi chuyện có
nhiều vợ con không phải là tội ác, mà cái chính là ông ta cư xử thế nào với
vợ con ông ta và tại sao ông ta lại phải lừa dối dân tộc điều này. Xin được
trình bày cùng bạn đọc.
A. Bác đâu
có “Cả đời hi sinh hạnh phúc riêng tư cho dân tộc”:
Theo tôi đối với ông Hồ: Vợ,
người tình chỉ để “giải khuây”- con chỉ là “kết quả không mong
đợi”. Sở dĩ tôi phải nói vậy vì nếu là một người chồng, người cha tốt
thì dù thế nào họ cũng phải thừa nhận với mọi người và chăm sóc vợ con đàng
hoàng. Đằng này ông Hồ không hề thừa nhận mình có vợ, con và đối xử với họ
tàn tệ. Xưa có câu “Hổ dữ không ăn thịt con” vậy mà ông Hồ không coi
trọng nghĩa cũng phu thê, cũng chẳng thương con cái thì làm sao ông ta có
thể là vị “Thánh” yêu nước, thương dân như đảng cộng sản tuyên
truyền và ông ta tự nhận? Hãy điểm qua những sự kiện chính để thấy điều
này.
Người Vợ
Tăng Tuyết Minh:
Bà Tăng Tuyết Minh là một người
Trung quốc đã kết hôn với ông Hồ khi ông ta còn mang danh là Lý Thụy.
Cho đến bây giờ đảng cộng sản vẫn giấu nhẹm việc này, nhưng để chứng minh
cho bạn đọc nhất là những người còn tin vào ông “thánh” Hồ Chí Minh thì
không phải là một điều khó khăn.
Đầu tiên, trên
Wiki có bài viết về bà Tăng Tuyết Minh với đoạn như sau:
“Tăng Tuyết Minh (chữ
Hán: 曾 雪明, 1905–1991) là một phụ nữ Trung Quốc. Theo nghiên cứu của một
số học giả Trung Quốc, Pháp, và Hoa Kỳ thì bà đã kết hôn với Hồ Chí Minh,
khi đó có bí danh là Lý Thụy vào năm 1926 và đã sống chung với ông được nửa
năm cho đến khi ông phải rời Trung Quốc sau vụ chính biến năm 1927.[1][2]
Sau này khi Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
hai người đã tìm cách liên lạc nhau nhưng không được… Tháng 10 năm 1926,
hôn lễ giữa Lý Thụy, (bí danh hoạt động của Nguyễn Ái Quốc khi đó) và Tăng
Tuyết Minh được tổ chức tại nhà hàng Thái Bình, với sự chứng kiến [3] của
Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu (vợ của Chu Ân Lai) và một số học viên khóa huấn
luyện phụ vận.[4] Đây cũng là địa điểm mà Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu tổ
chức kết hôn trước đó một năm.”
Hẳn mọi người còn nhớ ở phần 8 tôi
đã chứng minh Lý Thụy chính là một bí danh của ông Hồ khi ông ta hoạt động
ở Trung Quốc và Thái khi ông ta chủ mưu bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp.
Và bài viết trên Wiki chỉ rõ ông Hồ-Lý Thụy đã cưới bà Tăng Tuyết Minh. Như
vậy có thể coi bà Minh là vợ đầu tiên của ông Hồ có hôn thú và hôn lễ đàng
hoàng.
Thứ hai, hiện
nay có một bức thư của ông Hồ - Lý Thụy
gửi bà Tăng Tuyết Minh, đã bị mật thám Pháp tại Đông Dương
chặn được và giữ lại ngày 14 tháng 8 năm 1928, hiện được lưu trữ tại CAOM (viết tắt của Centre des Archives d’Outre-Mer - Trung
tâm Lưu trữ Hải ngoại) đặt tại Aix-en-Provence (Daniel Hémery, HO CHI MINH De L'Indochine au
Vietnam, Gallimard, Paris 1990, tr.145.) Khi ở Thái Lan ông Hồ đã
viết bức thư này có nội dung như sau:
“Dữ muội
tương biệt,
Chuyển
thuấn niên dư,
Hoài niệm
tình thâm,
Bất ngôn tự
hiểu.
Tư nhân
hồng tiện,
Dao ký thốn
tiên,
Tỷ muội an
tâm,
Thị ngã
ngưỡng (hoặc sở) vọng.
Tinh thỉnh
Nhạc mẫu
vạn phúc.
Chuyết
huynh Thụy.”
Dịch nghĩa: “Từ ngày chia tay với em, đã hơn một năm trôi qua.
Nhớ thương khắc khoải, chẳng nói cũng hiểu. Nay mượn cánh hồng, gửi mấy
dòng thư để em yên tâm, đó là điều anh mong mỏi, và cầu cho nhạc mẫu vạn
phúc. Người anh vụng về, Thụy”.
Rõ ràng đây là bức thư gửi người
mà ông ta sau này lấy làm vợ. Điều này khẳng định ông Hồ có người vợ đầu là
Tăng Tuyết Minh.
“Tháng 5
năm 1950 Tăng Tuyết Minh nhìn thấy ảnh Hồ Chí Minh trên Nhân dân Nhật báo
cùng với tiểu sử, bà tin chắc đó chính là vị Chủ tịch Việt Nam. Bà đã cố
gắng liên lạc với ông qua đại sứ Hoàng Văn Hoan và tổ chức Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Nhưng tất cả cố gắng của bà đều không thành.”
Tăng Tuyết Minh khi đã cao tuổi. Trên tường nhà có treo ảnh
Hồ Chí Minh (viet.com.cn)
Đây là một tác giả của Trung
cộng đã thừa nhận việc ông Hồ có vợ con là sự thật. Việc sau này bà Minh
lấy ông Hồ và treo ảnh ông ta trong nhà cũng nói lên sự thật là ông Hồ có
vợ là bà Minh.
Thứ tư, trong
cuốn sách được in năm 1986 tại Liên Xô có tên “Mảnh trời riêng của lãnh tụ” của Mikhail
Vasaep - một học giả, nhà nghiên cứu thuộc phân viện lịch sử đảng
cộng sản Liên Xô cũ - tại trang 363: “...Ông
Hồ Chí Minh cưới người vợ Tăng Tuyết Minh tại Trung quốc sau khi được ông
Lâm Đức Thụ tích cực thu xếp…”
Như vậy có thể khẳng định việc
ông Hồ lấy bà Tăng Tuyết Minh là sự thật qua tài liệu này của tác giả đảng
viên đảng cộng sản Liên Xô.
Thứ năm, một
nhà nghiên cứu thiên tả là bà Quinn khi đề cập đến người vợ
Trung Quốc của ông Hồ cũng đã nói trong cuốn sách “Ho Chi Minh: The Missing years” của
mình: “Vì một vài lý do nào đó các giới chức
tại Hà Nội vẫn chưa chịu đả động gì đến những điều tiết lộ theo đó ông Hồ
có liên hệ tình cảm thực sự với những người thuộc phái nữ. Mặc dầu giờ đây
phía Trung Quốc đã trình bày trước công luận cả một bức ảnh và một bài viết
nói về việc ông Hồ kết hôn với một phụ nữ vào tháng Mười, năm 1926, nhưng
Hà Nội vẫn chưa chính thức xác nhận.”
Vậy ta có thể thấy là những gì
bà Quinn nói trùng khớp vời lời kể của ông Hoàng Tranh và những tài liệu
của phía Liên Xô khẳng định ông Hồ cưới bà Tăng Tuyết Minh năm 1926.
Thứ sáu, theo
tác giả Daniel Hémery: “Lý
Thụy không gặp lại được vợ mình là Tăng Tuyết Minh từ sau năm 1927, có thể
vì Tuyết Minh bị thất lạc do chiến tranh quốc cộng ở Trung Hoa vào đầu năm
1927.” (Daniel Hémery, Ho Chi Minh,
de l''Indochine au Vietnam, Nxb. Gallimard, Paris, 1990, tt. 63, 145.)
Ở đây cũng cần nói thêm báo Tuổi
Trẻ của Thành đoàn Thanh niên CSHCM thành phố Hồ Chí Minh đã trích
đăng tài liệu của Daniel Hémery trong số báo ngày 18-5-1991. Tổng biên tập
báo này lúc đó là bà Kim Hạnh liền bị kiểm điểm
và bị mất chức.
Kết luận: Qua sáu
dẫn chứng chúng ta có thể thấy ông Hồ thật sự đã cưới bà Tăng Tuyết Minh
chứ không phải là cả cuộc đời cô độc, không lấy vợ để lo cho dân tộc như
ông ta và đảng cộng sản tuyên truyền. Và sự thật là sau khi đã có thể coi
như là “Công thành danh toại” thì ông Hồ lại không thừa nhận và hỏi thăm bà
Tăng Tuyết Minh. Như vậy để có thể thấy ông Hồ đâu có phải là người trọng
nghĩa phu thê, và là người chồng tồi.
Bà Nguyễn
Thị Minh Khai:
|
Nguyễn
Thị Minh Khai (1910-1941),
một trong những đảng viên đầu tiên
của đảng CSĐD - Nguồn/Ảnh: Ho Chi Minh, A life,
William J. Duiker/TTXVN.
|
Theo Wiki: “Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh,
sinh năm 1910 tại Vinh (Nghệ An), con ông Nguyễn Huy Bình, nhân viên hỏa
xa, và là chị của Nguyễn Thị Quang Thái, vợ đầu của Võ Nguyên Giáp. Minh
Khai học trường tiểu học Pháp Nam ở Vinh. Năm 1928, Minh Khai gia nhập Tân
Việt Cách Mạng Đảng, sau đó qua đảng Cộng Sản Đông Dương, và sang Hồng Kông
hoạt động năm 1930.”
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Thị_Minh_Khai)
Để chứng minh cho việc trước khi
lấy ông Lê Hồng Phong thì bà Minh Khai chính là vợ của ông Hồ
xin được dẫn chứng như sau:
Đầu tiên, trong
tập thư của đảng cộng sản Liên Xô hiện lưu trữ tại cục lưu trữ liên bang
Nga có một danh sách gửi tới Moscow về tên người tham gia hội nghị đảng
cộng sản quốc tế năm 1935 có nói đến việc bà Minh Khai có chồng tên là Lin.
Sự việc này cũng được nhà báo Bùi Tín ghi lại trong cuốn sách
của mình (Thành
Tín, sđd. tr. 151.):
“Ngày
25-7-1935, tới Moscow khai mạc đại hội cộng sản quốc tế. Phái đoàn đại diện
đảng Cộng Sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu gồm có: Lê Hồng Phong,
Quốc, Kao Bang, vợ Quốc và hai đại biểu khác từ Nam Kỳ và Ai Lao đến. Khi
đến Moscow, Minh Khai khai báo lý lịch là đã có chồng, và mở ngoặc tên
chồng là Lin. Lin là bí danh của Nguyễn Ái Quốc lúc đó. Những phiếu
ghi nhận đồ đạc trong phòng riêng hai người tới nhà ở tập thể của các cán
bộ cộng sản cũng đều ghi hai vợ chồng Minh Khai, Lin cùng chung phòng,
chung giường, chung đồ dùng...”.
Như vậy có thể khẳng định Lin
chính là ông Hồ và ông ta đã có vợ là bà Nguyễn Thị Minh Khai như
chính bà ta khai khi đi họp ở Moscow.
Thứ hai, theo
lời con gái của bà Vera Vasilieva - một nhân viên người Nga
trong tổ chức Quốc tế Cộng Sản, kể cho nhà nữ sử học Sophia Quinn
Judge (Hoa Kỳ), được ông Bùi Tín viết lời trong “Về ba ông thánh”, thì trong thời gian
diễn ra đại hội này, ông Lin hay ghé nhà bà Vera Vasilieva
thăm, và thường đi cùng với một phụ nữ Việt Nam tên là Phan Lan.
Phan Lan là bí danh của Nguyễn Thị Minh Khai dùng khi ở
Moscow.
Như vậy có thể khẳng định nếu
ông Hồ và Minh Khai chính là cặp bài trùng không những chỉ là đồng chí mà
còn chính là vợ chồng như chính bà Minh Khai tự khai.
Để minh chứng cho cái tên Phan
Lan chính là Minh Khai tôi xin được nêu dẫn chứng - đó là đoạn trích trong
bài viết “Tổng Bí thư Lê Hồng Phong
và chị Minh Khai: Một tình yêu lớn” trên tờ Báo Mới của
đảng cộng sản Việt Nam: “Trong Đại hội 7
Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong và Minh Khai đều có tham luận. Minh Khai đề
cập đến "Vai trò phụ nữ trong cuộc đấu tranh chống việc chuẩn bị chiến
tranh chống đế quốc mới, đấu tranh cho hòa bình". Bài phát biểu của
Phan Lan (bí danh của Minh Khai), đại biểu trẻ nhất Đại hội đã gây được
tiếng vang và cảm tình của nhiều người”.
Thứ ba, xin
được nói rõ hơn về cuốn sách của bà Quinn – một người thiên
tả người Mỹ đã nói về sự kiện ông Hồ và bà Minh Khai là vợ chồng. Khám phá
ra việc bà Minh Khai là vợ ông Hồ do tiến sĩ Sophie Quinn-Judge
tìm ra khi tham khảo các tài liệu của Quốc Tế Cộng sản ở Nga sau khi chế độ
Cộng sản bị tan vỡ cùng với Liên Bang Xô Viết vào năm 1989. Chi tiết này đã
được bà Quinn-Judge, một chuyên gia nghiên cứu về đảng CSVN và đặc biệt
cuộc đời ông Hồ, công bố trong cuốn sách “Ho
Chi Minh: The Missing Years (1914-1941)” do University of
California Press xuất bản.
Đề cập các tài liệu liên quan
tới ông Hồ được Quốc Tế Cộng Sản lưu giữ ở Nga, bà Quinn-Judge cho biết: “Đống hồ sơ này cũng chẳng có được bao nhiêu, sắp xếp
lộn xộn, đôi khi in lại hoặc đánh máy, cũng có khi nguyên bản như một lá
thư, một vài tài liệu có chữ ký của ông Hồ Chí Minh hoặc ký tắt với danh
xưng là Quak, Quac, NAQ hoặc với bí danh là Lee hay là Lin. Sau này khi tra
khảo tới các hồ sơ lưu trữ về thuộc địa của Pháp tại Aix-en-Provence, tôi
thấy có được lợi ích là góp phần để sắp đặt cho các tài liệu về Quốc Tế
Cộng sản theo thứ tự hợp lý hơn dựa vào các tài liệu tại hai nơi thường khi
cùng ghi nhận đến các diễn biến như nhau.”
Liên quan tới ông Hồ và bà Minh
Khai, bà Quinn-Judge cho biết:
“Một tiết
lộ khác được khám phá qua các tài liệu này là có hai sự kiện liên quan đến
thời kỳ hoạt động của bà Nguyễn Thi Minh Khai chứng tỏ bà là vợ của ông
Hồ Chí Minh.
Một sự kiện
thể hiện qua lá thư được viết vào năm 1934 của ông Hà Huy Tập gửi tới Ban
Bí Thư Miền Đông, nêu tên đại biểu được cử đi tham dự Đại Hội Quốc Tế Cộng
sản lần thứ bảy, trong đó có một người nói là 'vợ của Quốc,' còn sự
kiện kia là ở một chỗ khác thấy nói tới danh xưng người đàn bà đó là bà Vãi
(bà Minh Khai vào thời gian những năm đầu hoạt động có làm nghề hàng vải).
Vì trong phái đoàn chỉ có một phụ nữ cho nên dĩ nhiên đó phải là có ý nói
tới bà Nguyễn Thi Minh Khai. Sau này tại Mạc Tư Khoa, khi phải làm tờ khai
lý lịch cá nhân, khi điền vào câu hỏi về tình trạng gia đình bà đã ghi
là có chồng và kể tên chồng là Lin. Đó cũng là danh xưng của ông Hồ tại
Mạc Tư Khoa kể từ năm 1934 cho đến năm 1938.”
Thứ tư, cũng
cần nhắc lại cuốn sách “Mảnh trời riêng
của lãnh tụ” của một học giả Liên Xô cũ có tên Mikhail
Vasaep đã đề cập ở trên có viết tại trang 366 “Ông Hồ Chí Minh cũng đã có người vợ là người Việt
Nam cũng là đồng chí của mình từ năm 1933 sau khi ông không còn liên lạc gì
với người vợ đầu tiên Tăng Tuyết Minh. Người vợ thứ hai của ông Hồ Chí Minh
chính là nữ chiến sỹ cách mạng Việt Nam thời kỳ đầu – Nguyễn Thị Minh Khai”.
Có thể nói cuốn sách của ông
Vasaep xuất bản năm 1986 trước khi bà Quinn đưa ra cuốn sách của mình cho
thấy chính người cộng sản Liên Xô đã biết rất rõ sự việc bà Minh Khai là vợ
ông Hồ Chí Minh. Cuốn sách của ông Vasaep ít được biết đến vì ngay khi xuất
bản đã bị đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô phản đối vì sợ lộ bí mật về hình
tượng “ông Thánh” và bị cấm xuất bản. Chỉ có vài chục cuốn được giấu
đi và tôi may mắn được một người thân đã từng đi Liên Xô lao động về cho
tham khảo.
Kết luận: Qua bốn
dẫn chứng chúng ta có thể thấy thêm một người vợ nữa của ông Hồ chính là bà
Nguyễn Thị Minh Khai - người sau này lấy ông Lê Hồng Phong làm chồng thứ
hai của mình. Và cũng giống như người vợ đầu Tăng Tuyết Minh, ông Hồ chưa
bao giờ dám thừa nhận có lẽ vì ông ta sợ mang tiếng là nhiều vợ, lừa dối
nhân dân về sự tận tụy của mình quên cả hạnh phúc riêng cho dân tộc và trên
hết là cá nhân ông ta coi những người phụ nữ chỉ là món đồ chơi mà thôi.
Người có
tên Đỗ Thị Lạc:
Ngoài hai người vợ trên ông Hồ
còn có thêm một người phụ nữ thứ ba tên là Đỗ Thị Lạc. Thậm
chí bà này còn có một người con gái cùng ông Hồ. Có ít người biết về bà Lạc
nhưng sự thật là ông Hồ và bà Lạc đã có con gái mà đến nay không biết người
con ấy sống chết ra sao sau khi ông Hồ bỏ rơi người con này.
Khi Tiêu Văn đồng
ý cho ông Hồ về Việt Nam với 18 cán bộ vừa mới tốt nghiệp khóa huấn luyện
quân sự ở Đại Kiều (gần Liễu Châu), cộng thêm 76.000 quan kim, tài liệu
tuyên truyền, bản đồ quân sự và thuốc men, nhưng không cấp vũ khí. Ông Hồ
về tới Pắc Bó (Cao Bằng) vào gần cuối năm 1944. Trong số 18 cán bộ theo Hồ
về nước lần nầy có Đỗ Thị Lạc tức “chị Thuần”.
Nhân thân của Đỗ Thị Lạc không được rõ ràng, chỉ biết rằng vào năm 1942,
khi tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa là Trương Phát Khuê tổ chức
lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các tổ chức cách mạng Việt Nam ở
Đại Kiều, Đỗ Thị Lạc theo học lớp truyền tin. Khi về Pắc Bó, Đỗ Thị Lạc
sống chung với ông Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở
của dân chúng ở Khuổi Nậm gần Pắc Bó. Do tình hình biến chuyển, ông Hồ rời
Pắc Bó đầu năm 1945 qua Trung Hoa, bắt liên lạc và hợp tác với tổ chức OSS
dưới bí danh Lucius vào tháng 3-1945. Đầu tháng 5-1945, ông Hồ về Việt Nam,
ghé Khuổi Nậm (Cao Bằng) thăm Đỗ Thị Lạc một thời gian ngắn rồi đi Tân Trào
(Tuyên Quang), và bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử sau đó. Chuyện
tình giữa ông Hồ với Đỗ Thị Lạc, cũng như với Minh Khai, Tăng Tuyết Minh bị
giấu nhẹm, nên sau đó không còn dấu vết gì nữa. Để minh chứng cho câu
chuyện này tôi xin dẫn chứng sau đây:
Đầu tiên, trong
cuốn sách “Một cơn gió bụi” của sử gia, nhà chính trị Trần Trọng
Kim đã được tôi giới thiệu ở phần 12,
trang 75 của cuốn sách viết: “Đỗ Thị Lạc sống
chung với họ Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở
của dân chúng ở Khuổi Nậm và họ đã có một người con gái chung”.
Hẳn chúng ta cũng biết ông Trần
Trọng Kim đã sống cùng thời với ông Hồ và là nhà viết sử hết sức trung thực
nên những gì ông viết đáng để chúng ta tin cậy. Tuy nhiên nếu chỉ có mình
đoạn trích nêu trên của ông thì khó có thể làm ta tin được sự việc có con
gái của ông Hồ và bà Lạc. Xin nêu thêm những dẫn chứng khác sau đây:
Thứ hai, trong
cuốn sách “Mảnh trời riêng của lãnh tụ”
của học giả Liên Xô cũ Mikhail Vasaep đã đề cập ở trên có
viết tại trang 368: “Có một người phụ nữ đã
sinh cho ông Hồ Chí Minh một người con gái tại Cao Bằng (một địa
danh ở Phía Bắc Việt Nam) nhưng sau này vì nhiệm vụ với cách mạng, ông Hồ
Chí Minh dường như không muốn thừa nhận cháu bé …”
Đoạn trích không nói rõ tên
người phụ nữ là ai nhưng những gì tác giả Liên Xô đã nói trùng khớp với nội
dung về người con gái chung, nơi ở của bà Lạc mà sử gia Trần Trọng
Kim đề cập. Điều này cho thấy ông Hồ thực sự có người tình và người con mà
ông ta không công nhận.
Thứ ba, chúng
ta cũng nên quay lại với cuốn sách của tác giả Hà Cẩn mà tôi đã
từng nhiều lần giới thiệu. Trong phần 9 khi
tôi đã giới thiệu về tác giả Trung cộng này (Viện
Văn học Trung quốc) có một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm
2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao
chủ tịch của tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc.
Cuốn sách dày 438 trang, có đoạn ở trang 134 tạm dịch: “Cũng là đồng chí Cách mạng nhưng Mao chủ tịch không
có đời sống tình ái bi đát như Hồ chủ tịch. Hồ Chủ tịch thậm chí có một
người con gái với người đồng chí tên Thuần ở Pacbo mà không được
công bố...”
Như đã biết người con gái tên Thuần
kia chính là bí danh hoạt động của bà Đỗ Thị Lạc và những gì
sử gia Trung cộng đề cập rất đúng với những nghiên cứu của sử gia Trần
Trọng Kim và Vasaep.
Kết luận: Vậy
qua 3 dẫn chứng có thể thấy ông Hồ đã có một người con gái với người tình
Đỗ Thị Lạc. Sở dĩ tôi gọi bà Lạc chỉ là người tình vì không thấy ai đề cập
đến lễ cưới cũng như hôn thú của bà và ông Hồ. Hay nói cách khác bà Lạc chỉ
là một trong những người tình qua đường của ông Hồ. Và hành động không
nhận, không nuôi người con gái của ông và bà Lạc cũng cho thấy bản chất vô
trách nhiệm của ông ta với chính giọt máu của mình. Hay nói cách khác người
con không biết sống chết thế nào của ông Hồ chỉ là kết quả ngoài mong đợi
của ông ta trong chuỗi hành trình đi tìm thú vui xác thịt cho bản thân.
Người đàn
bà đoản mệnh Nông Thị Xuân:
Mối tình với cô gái người Nùng
tên Nông Thị Xuân được bạch hóa rõ ràng nhất qua nhiều nhân
chứng còn sống viết và kể lại. Tại Hà Nội, cô Xuân được lệnh ở nhà riêng số
66 Hàng Bông Nhuộm, nhưng vẫn phải đến ‘gặp’ bác Hồ. Năm 1956, Nông Thị
Xuân sinh cho ông Hồ một người con trai đặt tên Nguyễn Tất Trung.
Sau đó Xuân có ý muốn chính thức hóa cuộc hôn nhân với ông Hồ. Ngày 11
tháng 2, 1957, vào khoảng 7 giờ tối, Xuân được ô tô đón sang gặp ông Hồ.
Sáng hôm sau, ngày 12 tháng 2, 1957, công an báo tin cho cô Vàng
(em cô Xuân) là Xuân đã chết vì tai nạn ô tô. Liền sau đó cô Vàng đến thăm
xác chị ở nhà thương Phủ Doãn và chứng kiến biên bản khám nghiệm tử thi của
bác sĩ. Bác sĩ cho biết nạn nhân không chết vì tai nạn ô tô, vì khám toàn
cơ thể không có dấu hiệu gì cả ngoại trừ vết nứt trên sọ đầu, và bác sĩ đã
tuyên bố, có thể nạn nhân bị trùm chăn trên đầu rồi bị đập bằng búa...
Cô Vàng vội chạy về báo tin ngay
cho người chồng sắp cưới là một bộ đội đang bị thương tật sống ở tỉnh Cao
Bằng. Vàng biết chắc rằng cô cũng sẽ bị thủ tiêu vì cô chứng kiến sự thật
chị của cô do ông Hồ âm mưu sát hại. Thật vậy, ngày 2 tháng 11, 1957, cô
Vàng bị giết chết và xác được tìm thấy trên sông Bằng Giang, đến ngày 5
tháng 11 xác mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ.
Tin này được phổ biến rộng rãi
hơn nhờ lá thư của anh bộ đội này đệ lên Nguyễn Hữu Thọ, chủ
tịch Quốc Hội CHXHCN VN, vào ngày 29 tháng 7, 1983, trước khi anh qua đời
sau cơn bạo bệnh. Trong lá thư anh bộ đội đã kể đầy đủ chi tiết những gì cô
Vàng đã kể cho anh nghe, cả việc Bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn
được ông Hồ Chí Minh giao phó trông coi cô Xuân. Trong thư kể lại hình ảnh
Trần Quốc Hoàn đã hãm hiếp cô Xuân rất tàn nhẫn trước đó một tuần khi được
lệnh giết cô Xuân... Năm 2007, nhà văn đấu tranh trong nước, bà Trần
Khải Thanh Thủy, đã tìm hiểu về tông tích của Trung và chính bà đã
tìm gặp anh ta. Qua việc kể lại của Trần Khải Thanh Thủy người ta không
ngần ngại gì nữa khi cho rằng Nguyễn Tất Trung chính là con
của ông Hồ. Được biết anh ta hiện đang được Đảng ‘nuôi’ đàng hoàng trong
khu nhà sang trọng tại Hà Nội.
Sau khi bà Xuân qua đời, Nguyễn
Tất Trung mới một tuổi, mồ côi mẹ, được dì là cô Vàng nuôi, nhưng rồi bị
bắt đem đi gởi cho Nguyễn Lương Bằng (1904-1979), bí danh Sao
đỏ, một lãnh tụ cộng sản Việt Nam. Năm bé Trung năm tuổi (1961), người ta
lại chuyển cho tướng Chu Văn Tấn nuôi. Chu Văn Tấn cùng sắc
tộc Nùng với bà Xuân, là kẻ đứng ra tổ chức đơn vị cứu quốc quân đầu tiên
của cộng sản ở vùng rừng núi Việt bắc. Khi ông Hồ qua đời ngày 2-9-1969,
thư ký kiêm cận vệ của ông Hồ là Vũ Kỳ nhận Trung làm con nuôi
và đổi tên là Vũ Trung. Để minh chứng cho điều này tôi xin
dẫn chứng sau đây:
Bà Nông Thị Xuân, sau đổi là Nguyễn Thị Xuân, sinh năm 1932,
mất năm 1957. Chụp cuối năm 1956 tại Hà Nội sau khi đẻ
Nguyễn Tất Trung.
Hình ảnh vợ chồng Nguyễn Tất Trung và Lưu Thị Duyên cùng con
là Nguyễn Thanh Trung
(bên phải) tại gia đình ông Vũ Kỳ vào năm 1998; người có râu
trắng dài là ông Vũ Kỳ (giữa)
Hình ảnh vợ chồng Trung và Duyên bên dòng suối ở Hang Pắc Bó
- Cao Bằng (suối Lê Nin)
Đầu tiên, Toàn bộ lá thư của anh
bộ đội được đăng trong cuốn “Công Lý Đòi
Hỏi” của cựu đảng viên Nguyễn Minh Cần, Cựu
Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, xuất bản 1997 bởi nhà xuất
bản Văn Nghệ dày 394 trang. Ông hiện tỵ nạn chính trị tại Nga. Chúng ta
cũng có thể xem giới thiệu cuốn sách tại link sau:
Cuốn sách của tác giả Nguyên
Minh Cần có đoạn:
“Bây giờ
xin quay trở lại câu chuyện những cô gái ở Cao Bằng. Theo những điều người
ta kể cho tôi trong những năm gần đây và được xác minh qua tài liệu đã xem
thì có hai chi tiết hơi khác (các cô họ Nguyễn và cô Xuân chỉ có một con
với ông Hồ), ngoài ra, các chi tiết khác về cơ bản đều giống nhau. Sự việc
cụ thể như sau: cô Nguyễn Thị Xuân (tên gọi trong gia đình là Sang)
và em họ, cô Nguyễn Thị Vàng, 22 tuổi, quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt,
huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cuối năm 1954, đã tình nguyện vào làm công tác
hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy tháng thì ủy viên Trung ương
đảng, chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần Trần đặng Ninh, gặp cô Xuân nói
chuyện vài lần, rồi đầu năm 1955 cho xe đón cô Xuân về Hà Nội, "nói là
để phục vụ Bác Hồ". Mấy tháng sau, cô Xuân cũng xin cho cô Vàng và cô Nguyệt
(con gái của ông Hoàng Văn Đệ, cậu ruột của cô Xuân) về Hà Nội ở
trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm. "Vì các vị lãnh đạo không cho chị
Xuân ở cùng với Bác trên nhà Chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn,
bộ trưởng Bộ công an, trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được
đem về 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của công an. Cuối năm 1956, chị Xuân sinh
được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung.
"Em có
nhiệm vụ bế cháu", đấy là lời Vàng kể lại cho người chồng chưa cưới
của mình trước khi cô bị giết. Và cũng nhờ Vàng đã kể lại, nên chúng ta
biết được những sự việc sau đây. Khoảng mồng 6, mồng 7 tháng 2 năm 1957, Trần
Quốc Hoàn đến, nói chuyện vu vơ một lúc, rồi giở trò... kéo cô Xuân vào
cái buồng xép, định hãm hiếp. Cô Xuân ú ớ la lên. Vàng hoảng
sợ tru tréo, còn Nguyệt khiếp sợ quá co dúm lại ngồi ở trong góc.
May lúc đó có tiếng cửa sổ nhà dưới xô sầm vào tường, Hoàn sợ, bỏ cô Xuân
ra, rút súng lục ra dọa: "Chúng mày im mồm, không ông cho chết
hết". Rồi xuống thang, ra ô tô chuồn. Mấy hôm sau, Hoàn lại đến, lên
gác, đi thẳng vào phòng, ôm ghì cô Xuân hôn. Cô Xuân xô nó ra: "Không
được hỗn, tôi là vợ ông Chủ tịch nước". Nó nói: "Tôi biết bà to
lắm, nhưng tính mạng bà nằm trong tay tôi" Rồi lấy súng dí vào ngực cô
Xuân, nó rút ra sợi dây dù đã thắt sẵn thòng lọng tròng vào cổ cô Xuân kéo
cô lên giường, tự tay lột hết quần áo, ngắm nghía, rồi hiếp cô. Cô Xuân xấu
hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay cô và nói: "Thanh niên nó phục vụ không
khoái hơn ông già, lại còn vờ làm gái”.
Qua những gì tác giả Nguyễn Minh
Cần cho ta thấy thực sự ông Hồ và bà Xuân có con trai tên là Tất Trung và
sau đó bà ta bị giết bởi Trần Quốc Hoàn.
Thứ hai, câu
chuyện cô Xuân này cũng được nhắc tới trong cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày” của Vũ Thư Hiên,
cũng một cựu đảng viên, con trai của ông Vũ Đình Huỳnh - là
cận vệ, giúp việc, lễ tân trang phục, thư ký riêng, rất gần gũi với ông Hồ.
Trong cuốn sách này ông Hiên đã đề cập đến việc ông Hồ có người con tên
Nguyễn Tất Trung với bà Nông Thị Xuân rồi bà Xuân bị Trần Quốc Hoàn thủ
tiêu.
Cũng cần nói thêm khi ông Vũ Thư
Hiên gặp ông Nguyễn Minh Cần tháng 7 năm 1993 cũng đã nói với ông Cần, sau
này được ông Nguyễn Minh Cần kể lại:
“Hồi tháng
7 năm 1993, khi gặp nhà văn Vũ Thư Hiên, một người "cùng cảnh
ngộ", tức là cùng bị dính vào "vụ án xét lại - chống đảng",
đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Hiên bật người lên, vui
mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện
"thâm cung bí sử " này và chuyện tôi kể cho anh lới một lần nữa
xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ Đình Huỳnh, đã dặn dò anh.
Hiên nói liền: "Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu,
anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân..." Tôi đáp lới:
"Chính là Quốc Hùng nói với tôi thế!" Rồi Hiên thủng thẳng tâm sự
với tôi: "Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên Hồ
Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng đào, anh biết
chứ?" Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc: "Biết quá đi, chứ lị! Từ 51,
tôi phụ trách ngoại thành cơ mà". Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng
này, anh kể tiếp: Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một
đoạn đường, hình như một bên có rặng ổi, rồi bảo: "Con ơi, con nhớ
những lời bố dặn đây! Tới đây, đánh dấu một vụ án mạng, một vụ oan khuất
khủng khiếp mà Trần Quốc Hoàn (ủy viên Bộ chính trị, bộ trưởng công an) là
chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói lên sự thật...”
Như vậy có thể khẳng định về
việc ông Hồ và bà Xuân có người con và sau này bà Xuân bị thủ tiêu là sự
thật.
Thứ 3, ngoài
hai nhân chứng là ông Nguyễn Minh Cần và ông Vũ Thư Hiên thì chính người
Trung cộng đã biết việc này và coi nó như một vết nhơ mà đảng cộng sản Việt
Nam và ông Hồ Chí Minh muốn giấu nhẹm đi đề che đậy sự thật ông Hồ là người
nhiều vợ con và không có trách nhiệm với gia đình mình. Chính tác giả Hà
Cẩn tôi đã giới thiệu ở trên cũng vẫn trang 134 có viết tiếp về
những người vợ của ông Hồ: “Ngoài người con
gái với người phụ nữ tên Thuần, Hồ chủ tịch cũng còn có người con trai khác
mà mẹ của anh ta bị chết một cách đầy ngờ vực trong một tai nạn giao thông
tại Hà Nội.”
Điều này càng khẳng định thêm về
sự thật mới quan hệ của ông Hồ và bà Xuân dẫn đến kết quả có con trai và bà
Xuân bị giết. Tác giả Hà Cẩn không nói rõ thủ phạm là ai nhưng khi đề cập
đến vụ án “đầy ngờ vực” cho thấy ngay cả đồng chí của ông Hồ cũng đặt dấu
hỏi về ông Hồ và đảng cộng sản trong cái chết của bà Xuân.
Thứ 4, khi
nghiên cứu về Hồ Chí Minh một sử gia, đảng viên đảng cộng sản Ba Lan - ông Constatin
Kostadinov cũng đã viết tại trang 90 cuốn sách “Những người con của lãnh tụ” như
sau: “Một người con trai của chủ tịch Hồ Chí
Minh có tên Nguyễn Tất Trung được nuôi nấng bởi trợ lý riêng của chủ tịch
nhưng đã không nối nghiệp cha làm chính trị….”
Cuốn sách được viết năm 1982 và
in năm 1984 bởi nhà xuất bản Cách Mạng ở Ba Lan. Chính việc này cũng khẳng
định về cuộc tình và kết quả của ông Hồ với bà Xuân.
Kết luận: Qua 4
dân chứng chúng ta có thể thấy mối tình của ông Hồ và bà Xuân là có thật và
được kết thúc bằng một số phận người con không được thừa nhận và cái chết
bi đát của bà Xuân cũng như em gái bà.
Một người
phụ nữ Nùng khác – Nông Thị Trưng
Một phụ nữ cũng người sắc tộc
thiểu số, Tầy, khá xinh đẹp tên Nông Thị Ngác. Lý do câu
chuyện tình đặc sắc này được nổi bật những năm sau này là do cuộc phỏng vấn
của tờ báo Xuân tại Việt Nam vào khoảng năm 1997. Nhà báo có phỏng vấn bà
Nông Thị Ngác, một chứng nhân sống nói về ‘Bác Hồ’. Bà Ngác đã không dấu
giếm chi cả những gì đã xảy ra trong thời gian ông Hồ tại hang Pác Bó vào
đầu thập niên 40. Bà kể hằng ngày Ngác đến ‘học tập’ với ông Hồ ròng rã cả
năm. Hồ căn dặn Ngác không nên gọi Hồ bằng ‘Bác’ mà hãy gọi là ‘Chú Thu’
và xưng ‘Cháu’. Thế thì sau đó chú cháu tiếp tục học tập...
Khi ông Hồ cướp chính quyền
thành công, trở thành người lãnh tụ chính thức của đảng Cộng Sản Việt Nam,
người nữ cán bộ gương mẫu mà ông Hồ yêu quý, tức Nông Thị Ngác, lại được
cất chức làm Chánh Án Tòa Án Nhân Dân tỉnh Cao Bằng.... Ông Hồ yêu quý Ngác
đến độ đặt cho người nữ cán bộ này một tên nữa là Nông Thị Trưng,
ý giống như Trưng Trắc, Trưng Nhị vậy. Tin Nông Thị Ngác là ai cũng đã được
người dân trong nước bàn tán. ‘Chú Thu’ và ‘Cháu Trưng’
cũng đã được nhắc tới trong các sách tuyên truyền của cộng sản, nhất là các
tác giả Trần Khuê, Thép Mới...
Thép Mới kể lại
trong “Năng Động Hồ Chí Minh” (trang
48) rằng sau 20 năm ngày rời Pác Bó, ông Hồ trở lại, 1961, lúc này coi như
sự nghiệp khá thành công, ông có thời giờ về thăm lại người cũ, cảnh xưa.
Khi vào nhà thăm gia đình bà Ngác, ông Hồ tiếp xúc với ông Dương Đại
Lâm, người mà trước đây ông Hồ đã gởi gắm Ngác vào gia đình (không
nhắc Ngác đang ở đâu), các cháu vây quanh HCM thân mật... Tác giả còn nhấn
mạnh một trong các cháu đã trở thành ‘thanh niên tuấn tú’ góp phần xây dựng
đất nước.
Cùng sách trên, Thép Mới ghi
(trang 43): “Bác trực tiếp hỏi chuyện, nghe
kể về hoàn cảnh gia đình và bản làng đau khổ, rất thương, nhận làm cháu
nuôi, đặt cho bí danh là Trưng, Nông Thị Trưng. Trưng ở với vợ chồng Đại
Lâm, tên tục là Sù, hàng ngày được đến lán Bác một giờ để Bác chỉ bảo...” Như
vậy rất rõ, Nông Thị Ngác có bí danh là Nông Thị Trưng.
Để chứng minh cho mối quan hệ
của bà Ngác với ông Hồ tôi xin được trình bày những tài liệu sau đây.
Đầu tiên, trong “Ho Chi Minh”, tác giả William
Duiker – một người thiên tả, trang 575, viết: “In April 2001, the ralatively unknown government
official Nong Duc Manh, widely rumored to be the illegitimate son of
Ho Chi Minh, was elected general secretary of the VCP” (Vietnamese Communist Party- 14).
Số 14 để người đọc lật ra sau
cuốn sách đọc tiếp footnote 14: “Nong Duc
Manh has denied these rumors, but he concedes that his mother, a member
of the Tay ethnic minority, served as Ho's servant after the latter's
return to Vietnam during the early 1940s...”
Tạm Dịch: “Vào tháng 4, 2001, người vô danh tên Nông Đức
Mạnh chính thức nhậm chức trong cơ quan chính quyền, dư luận xôn xao
bàn tán rộng rãi cho rằng Mạnh là con trai rơi của Hồ Chí Minh, và ông ta
đã được chọn làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nông Đức Mạnh phủ
nhận những tin đồn này, nhưng ông ta lại công nhận rằng mẹ ông, một thành
viên của dân tộc thiểu số Tầy, bà là người phục vụ ông Hồ sau khi ông Hồ
trở về Việt Nam vào đầu thập niên 1940.”
Chúng ta cũng biết ông Nông Đức
Mạnh sinh vào đầu thập niên 40. Báo Time phỏng vấn Mạnh vào 2002 và ghi ông
ta được 61 tuổi. Như vậy thì ông Mạnh phải ra đời vào cuối 1941 hoặc 1942.
Sau ngày sách của Duiker xuất bản, 2000, và cuộc phỏng vấn của báo Time,
website của “Đảng CSVN” đã xóa hoàn toàn tiểu sử của ông Nông Đức Mạnh
trước đó ghi rõ Nông Đức Mạnh con của “nhà cách mạng Nông Văn Lai
và bà Hoàng Thị Nhị”.
Vấn đề đặt ra là tại sao khi có
cuốn sách của Duiker và Time phỏng vấn ông Mạnh thì tiểu sử phải bị xóa bỏ
trong khi ông Mạnh là người đứng đầu đảng, việc minh bạch cha mẹ mình trên
website của chính phủ có gì sai? Đó chính là việc minh chứng cho ông Mạnh
chinh là con của bà Ngác và ông Hồ bị cố tình giấu giếm đi.
Thứ hai, cũng
liên quan đến sự việc ông Hồ có con với và Ngạc và có con trai, tác giả
người Nga, Mikhail Vasaep cũng đề cập tới trong cuốn sách của
mình đã được tôi giới thiệu ở phần trên trong trang 372 “Cũng có những nguồn tin đáng tin cậy từ KGB cho biết
có một người con trai của Hồ Chí Minh với người phụ nữ tên Nông Thị
Trưng được nuôi nấng bời một gia đình người dân tộc thiểu số tại Cao
Bằng...”
Như vậy có thể khẳng định thêm
thông tin ông Hồ có con với bà Nông Thi Trưng (Ngác) là hoàn toàn có thật.
Và người con đó chính là ông Mạnh với những thông tin được nêu ra từ W.
Duiker.
Thứ ba, khi đề
cập đến vấn đề quan hệ với bà Nông Thi Trưng thì tác giả Constatin
Kostadinov đã giới thiệu ở trên trong cuốn “Những người con của lãnh tụ” xuất bản
năm 1984 tại Ba Lan có viết tại trang 92 “Thật
ra trong một nghiên cứu cho thấy chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có một mà
có những hai con trai nhưng đến nay chưa biết số phận chính trị có giống
như người con mang tên Nguyễn Tất Trung hay không...”
Chúng ta nên nhớ vào thời điểm
cuốn sách của ông Kostadinov ấn hành thì ông Mạnh chưa có những dấu ấn trên
chính trường (năm 1984) nên nhận xét của ông Kostadinov rõ ràng là hợp lý.
Nhưng cũng cho thấy về đứa con của ông Hồ không chỉ một mà là 2 con trai.
Thứ tư, chính
tác giả Hà Cẩn trong cuốn sách của mình đã được giới thiệu ở
trên cũng từng viết tại trang 135 “Bi kịch
tình ái của Hồ Chủ Tịch không chỉ dừng lại ở những bà vợ không được thừa
nhận mà còn kể cả 2 người con trai của Chủ Tịch. …”
Đến đây ta có thể khẳng định tác
giả Hà Cẩn đã ám chỉ về Nguyễn Tất Trung và ông
Nông Đức Mạnh là con của ông Hồ Chí Minh. Nhưng dù cho có là
ai đi nữa thì tác giả cũng khẳng định ông Hồ có nhiều con và có nhiều vợ
không được thừa nhận.
Kết luận: Qua 4
dẫn chứng trên chúng ta có thể thây được ông Hồ và bà Ngác có một mối quan
hệ già nhân ngãi non vợ chồng và có con trai là sự thật. Và sản phẩm đó
chính là ông Nông Đức Mạnh.
Vài mối
tình ngoài lề cần tìm hiểu thêm
Ngoài 5 người phụ nữ để lại dấu
ấn bằng con cái và thảm kịch, có hôn thú như nêu trên thì còn có nhiều
người phụ nữ từng là người tình của ông Hồ hay được ông ta thích thú. Điều
này cho thấy ông ta không hề “hết mình lo cho dân tộc” như đảng cộng
sản và ông ta tự bốc thơm mình. Và quan trọng hơn một người có nhiều vợ lại
có nhiều người tình như vậy khó có thể là “vị thánh” được. Những câu
chuyện về Huỳnh Thị Thanh Xuân, Phương Mai hay
vợ ông Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu… chưa có
nhiều tài liệu kiểm chứng nên tôi không nêu ra ở đây. Trên nguyên tắc tôn
trọng sự thật và không đi sâu vào bôi nhọ cá nhân nên tôi chỉ nêu lên những
gì đã có bằng chứng khách quan nhất.
Ngoài ra bạn đọc cũng nên tìm
hiểu cho mình về sự thật về những người tình của ông Hồ sau đây khi đã có
những nguồn tin khách quan nói đến.
Một trong những người phụ nữ Tây
Phương có cô Marie Bière. Thành Tín tức Bùi Tín
ghi trong “Về Ba Ông Thánh”,
xuất bản 5/1995, (trang 149): “Theo tài liệu
Pháp, khi trẻ tuổi, làm thợ ảnh, ông Hồ có quan hệ với một cô đầm tên là
Marie Biere nào đó...” Cũng theo Bùi Tín nói về tài liệu tham
khảo của Sophia Judge, một nữ sử học gia Hoa Kỳ rành tiếng
Việt đã bỏ nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm tài liệu về ông Hồ, nhất là 2 năm
tại Moscow... Ông Hồ có người tình tên Vera Vasilieva. Vera
có con gái riêng, và cô này kể cho bà Sophia nghe. “Về Ba Ông Thánh”, (trang 151): “Vào dịp đại hội 7 của quốc tế cộng sản, cô ta mới 10
tuổi, nhưng còn nhớ ông Hồ thường ghé chơi nhà mẹ cô ta và một số lần ngủ
lại trên ghế dài vào năm 1934...”
Theo tài liệu của bà Sophia
Judge, Bùi Tín, cùng sách trên (trang 153): “Anh thanh niên Quốc ăn mặc rất chải chuốt, luôn mang
cà vạt màu rất diện, xức cả nước hoa cực thơm. Ông còn để lại khi về nước
một va-ly áo quần ông sắm cho vợ ông toàn là loại sang, cô bé Nga này lấy
ra dùng bao nhiêu năm mới hết!” Hồ Chí Minh còn ‘yêu’ cả vợ của
Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu khi đang dan díu với người
phụ nữ Nga Vera này.
Ngoài ra, trong “Ho Chi Minh” tác giả William
Duiker có ghi một phụ nữ trẻ khác tên Lý Sâm, lúc đó
là vợ của Hồ Tùng Mậu, đồng chí của ông Hồ: “Lý Sâm và HCM đã bị cảnh sát Hongkong bắt tại
một phòng hotel khi hai người đang trong phòng ngủ, lúc 2 giờ sáng ngày 6,
tháng 6, 1931.”
Sau khi bị tù tại Hongkong, Hồ
có tên mới là Tống Văn Sơ. Sau khi rời khỏi HongKong HCM đổi nhiều
tên họ khác nhau để tiếp tục hoạt động. Có những nguồn tin cho biết khi ông
trở về lại Nga, đàn anh cũng đã tìm cho ông Hồ một người phụ nữ Nga để làm
vợ...
Trong cuốn “Con Rồng Việt Nam” tác giả cựu hoàng Bảo
Đại ghi “Hồ Chí Minh có một người
vợ Nga và có chung một người con gái, nhưng ông ta không bao giờ
nhắc đến” (trang 205). Sở dĩ cựu hoàng Bảo Đại biết chuyện này
nhờ những dịp đi ‘công tác’ với Võ Nguyên Giáp vào 1945. Ông
Giáp đã kể lại một số sự thật về HCM, lúc này Bảo Đại mới biết rõ HCM là
tên quốc tế cộng sản nên tìm đường lưu vong.
Kết luận chung: Như
vậy qua 6 phần chúng ta thấy ông Hồ có rất nhiều vợ, người tình và con cái
chứ không phải là một “vị Thánh” như ông ta và đảng cộng sản tung hô
cả đời không vợ con mà chỉ lo cho dân tộc. Đây chính là một trong những
hành động nói lên sự xấu xa của người cha không nhận con, người chồng không
nhận vợ, người lãnh tụ nói dối dân tộc về mình.
B. Bản chất
của sự việc?
Có thể nói chuyện tình ái và
chuyện có nhiều vợ con cũng chẳng là chuyện to tát. Ngày nay việc sống như
vậy càng dễ được chấp nhận hơn. Các vị lãnh tụ có vợ nọ con kia là điều
không quá xa lạ nhưng họ dám thừa nhận hoặc được pháp luật các nước đó
phanh phui ra. Nhưng điều này với ông Hồ và đảng cộng sản lại khác. Xin
được nói rõ ở đây.
Thứ nhất, đối
với cá nhân ông Hồ khi ông ta có vợ con mà ông ta không chịu nhận họ, thậm
chí còn làm ngơ với cái chết của họ như trường hợp bà Xuân là một tội ác.
Như vậy ông ta thật là một người cha và người chồng xấu.
Thứ hai, đối
với dân tộc ông Hồ cũng là kẻ lừa dối khi ông ta sinh thời không chịu công
khai về vợ con mình mà để yên cho đảng cộng sản tự tung, tự tác bốc thơm
ông ta không có vợ con, chỉ dành hết tâm huyết cho dân tộc và đất nước.
Thứ ba, chính
đảng cộng sản cũng phải chịu trách nhiệm với ông Hồ Chí Minh về việc cùng
ông ta bưng bít sự thật về những lý lịch bất minh của ông Nông Đức Mạnh và
ông Nguyễn Tất Trung. Nhất là đối với một người từng giữ chức Tổng bí thư
như ông Mạnh là vi phạm pháp luật. Hãy nhìn sang Mỹ để thấy ông Obama công
khai lý lịch của mình từ cái giấy khai sinh cho thấy đảng cộng sản không
tôn trọng pháp luật và coi thường nhân dân Việt Nam.
Thứ tư, chúng
ta có thể thấy sự việc ông Hồ không công khai vợ con cho thấy trong chế độ
cộng sản luôn luôn tồn tại khái niệm dối lừa mà đến cả một chuyện cỏn con
như chuyện có vợ con cũng bị bưng bít sự thật. Đó là sự tồi tệ của chính
thể cộng sản cần phải dẹp bỏ.
Vậy bản chất sự việc không thừa
nhận vợ con của ông Hồ và hành động bưng bít của đảng cộng sản ở đây nói
lên điều gì? Đó chính là muốn tiếp tục lừa dối dân tộc về một con người
thánh thiện giả tạo như ông Hồ để tiếp tục giữ quyền độc tài đối với dân
tộc Việt Nam. Tôi đã gặp nhiều người cho đến nay vẫn bị nhồi sọ với luận
điệu “Cả đời Bác không vợ con chỉ lo cho nhân dân...” Bài viết này
của tôi chỉ có mục đích nên lên sự thật về chuyện ông Hồ có nhiều vợ con mà
ông ta không thừa nhận. Chính ông ta và đảng cộng sản đã lợi dụng điều này
để lừa dối dân tộc.
Hoàn thiện và chỉnh sửa
01/09/2012
______________________________________
________________________________
Đã đăng:
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment