2013/3/29
ttvnh <trungtamvietnam@googlemail.com>
Đừng khuyên người khác tha thứ hòa giải,
đừng dạy người khác cách đấu tranh.
đừng dạy người khác cách đấu tranh.
Xin kính cẩn nghiêng mình,
10 tháng 3, 11 tháng 3, 12 tháng 3....
10 tháng 3, 11 tháng 3, 12 tháng 3....
Cộng đồng mạng
VN hải ngọai đang nhắc tới những đau thương chết chóc của những ngày này năm 75
khi Ban Mê Thuột thất thủ, và từ giờ cho tới 30/04 chắc chắn những bài viết về
nỗi uất ức khắc khỏai của đại đa số gia đình thuộc VNCH khi xưa cũng sẽ tràn ngập
mạng.
Viết, để nhắc lại những hốt hoảng tuyệt vọng khi chính Sài Gòn thất thủ, để nhắc lại những vùi dập chết chóc trên con đường vượt biên cho những người bỏ nước ra đi, đi lần đầu hay đã từng rứt ruột bỏ nơi chôn nhau cắt rốn từ 1954 vào Nam, để nhắc lại những nhục nhã điêu tàn cho những người ở lại. Và những chia rẽ, phản bội, xâu xé, hà hiếp, trắng trợn....
Viết, để nhắc lại những hốt hoảng tuyệt vọng khi chính Sài Gòn thất thủ, để nhắc lại những vùi dập chết chóc trên con đường vượt biên cho những người bỏ nước ra đi, đi lần đầu hay đã từng rứt ruột bỏ nơi chôn nhau cắt rốn từ 1954 vào Nam, để nhắc lại những nhục nhã điêu tàn cho những người ở lại. Và những chia rẽ, phản bội, xâu xé, hà hiếp, trắng trợn....
Khi giấy mực
vẫn còn thống thiết nức nở, những nỗi đau vẫn còn tiếp tục chảy máu, thì chẳng
có người nào đối diện những nỗi đau đó được quyền hay dám láo xược cả gan nhắc
tới Tha thứ và Hòa giải, dù rằng đó là những điểm chính trong mọi tôn giáo và nhất
là trong truyền thống dựng nước của dân tộc Việt.
Như một loại
trụ sinh, bình thường là một món thuốc qúi báu để cứu sự Sống, những chữ Tha thứ
và Hòa Giải đối với người Việt trong đại đa số trường hợp đã trở thành một chất
gây tình trạng sốc phản vệ (anaphylactic shock). Phản ứng này mãnh liệt tới nỗi
không còn có một người tu sĩ VN nào dám giảng tới góc nhìn đạo đức, cũng chẳng
có người bác sĩ phân tâm học VN nào dám nhắc đến khía cạnh trị bệnh của
nó.
Thật là một
sự xúc động mạnh khi đọc những giòng chữ của Lê Diễn Đức (1)
“Tôi tin có nhiều người giống tôi. Rằng, nếu một kẻ nào đó đã cướp đoạt tài sản của tôi, giết hại người trong gia đình tôi, đẩy tôi vào sự khốn cùng, phải đối diện hiểm nguy để đi tìm kế mưu sinh ở xứ khác, thì tôi sẽ thù hận kẻ đó suốt đời, và khi có cơ hội tôi sẽ trả thù.“
Đó là một sự thành thật xuất phát từ con tim của người viết. Nhiều người đã không dám thẳng thắn thổ lộ như vậy mà cứ phải tìm những hình thức vòng vo để diễn tả. Cũng như nhiều người không đủ sáng suốt để nhận định đây không phải là một vấn đề có thể bàn cãi trên bình diện đạo đức hay cả chiến lược. Câu hỏi không phải là có nên tha thứ hòa giải, mà câu hỏi là có khả năng tha thứ hòa giải hay không? Tha thứ hoà giải chẳng phải là một điều có thể mua hay học hay muốn mà làm được.
“Tôi tin có nhiều người giống tôi. Rằng, nếu một kẻ nào đó đã cướp đoạt tài sản của tôi, giết hại người trong gia đình tôi, đẩy tôi vào sự khốn cùng, phải đối diện hiểm nguy để đi tìm kế mưu sinh ở xứ khác, thì tôi sẽ thù hận kẻ đó suốt đời, và khi có cơ hội tôi sẽ trả thù.“
Đó là một sự thành thật xuất phát từ con tim của người viết. Nhiều người đã không dám thẳng thắn thổ lộ như vậy mà cứ phải tìm những hình thức vòng vo để diễn tả. Cũng như nhiều người không đủ sáng suốt để nhận định đây không phải là một vấn đề có thể bàn cãi trên bình diện đạo đức hay cả chiến lược. Câu hỏi không phải là có nên tha thứ hòa giải, mà câu hỏi là có khả năng tha thứ hòa giải hay không? Tha thứ hoà giải chẳng phải là một điều có thể mua hay học hay muốn mà làm được.
Nó đang chỉ
là một áng mây lãng đãng ở một nơi bên ngòai những bức tường của một cái nhà tù
định mệnh kiên cố từ tháng Tư 75. Những chữ "Tha thứ hòa giải" không
phải là món thuốc có thể rịn vào để cầm máu, mà nhắc tới lại như mũi dao rạch
vào vết thương sâu thẳm chưa hề kéo da non. Và máu lại túa ra.
Tờ
BBC bản Việt ngữ ngày thứ sáu, 15 tháng 3, 2013 đưa tin về Thượng nghị sỹ Mỹ
John McCain, người mới gần đây có dịp tiếp xúc giới bất đồng chính kiến tại VN,
vừa có bài viết trên tờ Wall Street Journal nhận định Việt Nam vẫn chưa nỗ
lực trong lĩnh vực nhân quyền và pháp quyền và kêu gọi Việt Nam nên có những bước
đi cải cách về hướng dân chủ. Với tựa đề "Cựu tù nhân chiến tranh nói về
Việt Nam, 40 năm sau" bài viết bắt đầu bằng hồi ức của ông về ngày cuối
cùng ở Việt Nam, 14/3/1973, khi ông được trả tự do về Mỹ sau sáu năm bị cầm tù
tại Hỏa lò Hà Nội. TNS Mc Cain tuy vậy vẫn bày tỏ hy vọng rằng "Hai nước
chúng ta đã có một quá khứ khó khăn và đau lòng. Nhưng đã không tự trói mình
vào quá khứ đó và đang đi tiếp trên con đường từ hòa giải đến tình hữu nghị thực
sự, điều mà sẽ là một trong những sự ngạc nhiên lớn nhất và hài lòng nhất trong
cuộc đời tôi". Đồng thời ông hứa sẽ là người bạn trung thành của
Việt Nam trước các thách thức.
Trong khi
đó tờ BBC News Magazine (bản tiếng Mỹ) ngày 22/03/2013 lại có bài dài về cựu đại
sứ Mỹ mà cũng là cựu tù nhân chiến tranh Douglas Pete Peterson, cũng liên quan
nhiều đến Việt Nam mà BBC Việt ngữ không mảy may nhắc tới.
Pete
Peterson cũng từng bị cầm tù sáu năm tại miền Bắc VN và được trả tự do ngày
4/3/1973, trước Mc Cain mười ngày, và năm 1997 ông là người được tổng thống
Bill Clinton bổ nhiệm làm vị đại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam, sau 20 năm không
liên hệ ngọai giao giữa hai nước. Đại sứ Peterson khi đến nhậm chức tại Hà Nội
đã phát biểu: "Tôi muốn chữa lành vết thương giữa Hoa Kỳ và Việt
Nam. Đó là một lịch sử bi thảm mà hai dân tộc đã chia sẻ Không ai có thể thay đổi
những gì đã xảy ra, nhưng có rất nhiều điều tuyệt vời mà tất cả chúng ta có thể
làm cho tương lai. Và đó là lý do tại sao tôi trở lại Việt Nam.”
Mãn nhiệm
sau 4 năm, cựu đại sứ Peterson đã cùng với người vơ ̣Úc gốc Việt thành lập tổ
chức TASC chuyên cứu trợ trẻ em quốc tế và ngày càng mở rộng hoạt động tại
Việt Nam. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2006, cựu ĐS Peterson đã tâm sự: “Tôi
chỉ muốn đi bộ trên các đường phố để gặp gỡ, trò chuyện với những người dân mà
tôi chưa có cơ hội tiếp xúc trong những lần trở lại Việt Nam trước”.
Trong bài
báo mới đây, ký giả William Kremer đã tường thuật về những gặp gỡ định mạng giữa
Peterson và Việt Nam kể từ quyết định của ông không từ chối tham dự cuộc
chiến tại VN. Nhắc lại thân phận người tù binh Mỹ, ĐS Peterson mô tả quyết tâm
của họ ở nhà tù Hỏa Lò "nhận chịu mọi phương cách tra tấn, được nghĩ
ra để gây thương tật vĩnh viễn hoặc tử vong hoặc gần sắp tới mức độ đó". Nhắc
tới những vết sẹo gây ra bởi những tảng đá người dân Việt đã ném vào ông đêm
ông rớt máy bay, ĐS Peterson bình thản nói "Phải nhìn một cách công bằng
: đó là một phản ứng tự nhiên. Họ đã chụp cơ hội hiếm có sau khi bị bỏ bom
trong nhiều năm".
Cả hai người
cựu tù binh Mỹ Mac Cain và Peterson đã đem lại một tia ấm hy vọng là con
người không cần phải chối bỏ hay quên dĩ vãng, mà vẫn có phương cách để trả dĩ
vãng thương đau về hẳn cho dĩ vãng, dù mỗi người bộc lộ một cách khác nhau. Mc
Cain nhấn mạnh vào khía cạnh chính trị và Peterson vào tình cảm con người. Hành
động của họ và nhất là câu nói cuả Peterson, "Cuộc sống của tôi đã được
ơn trên bảo hộ để hoàn thành một điều gì đó có tính cách tích cực."
(My life was preserved to do something constructive) là bằng chứng sự thành
công của nền tự ̣do dân chủ của Hoa Kỳ đã tạo được những con người có phong
thái "lớn hơn sự khổ đau, cao hơn lòng thù hận của chính mình".
Việc BBC tiếng
Mỹ và BBC tiếng Việt đã không cùng đăng bài về hai nhân vật này phải chăng để
tránh đụng chạm vào một vấn đề nhậy cảm? Từ khi Mỹ-Việt bình thường hóa, quan hệ
giữa những đại diện của Mỹ ở Việt Nam với cộng đồng người Mỹ gốc Việt đã không dễ
dàng. ĐS Peterson chưa bao giờ đến Quận Cam, nơi có cộng đồng Việt Nam đông dân
nhất nước Mỹ. ĐS Marine chỉ một lần tới thăm một đại học của California. Mãi tới
năm 2007 ĐS Michalak mới là đại sứ Mỹ đầu tiên đến thăm Quận Cam
trong khi ĐS đương nhiệm David Shear sau khi gặp một số đông khách từ cộng đồng
người Việt tại Mỹ ở bang Virginia vào tháng 3 năm ngoái đã vội có cải
chính đây không phải là buổi gặp gỡ "chính thức" và bản tin trên
trang web của đài RFA Tiếng Việt đã bị gỡ xuống. Và dù đã tiếp hàng trăm đại diện
của cộng đồng Mỹ gốc Việt tại Tòa Bạch Ốc, bên hành pháp Hoa Kỳ sẽ vẫn xúc tiến
các mối quan hệ với Việt Nam, kể cả tăng cường trao đổi về an ninh vùng và quân
sự theo chiến lược đã định.
38 năm đã
qua từ khi Sài Gòn thất thủ.
Những nỗi
đau dường như không thể nguôi ngoai và lửa giận vẫn ngút ngàn trong lòng người
dân Việt khi xưa phải bỏ quê hương ra đi, dù nay đã thành công vẻ vang trên đất
khách. Đứng trước những nỗi đau với muôn ngàn khiá cạnh, nỗi giận với triệu cách
bộc lộ, ai có quyền bảo một người khác hãy quên đi và tha thứ, dù thế sự có đổi
thay chăng nữa?
Và cũng chẳng
ai có khả năng nghe, khi vết thương vẫn nhức nhối làm mủ độc.
Do đó Việt
Nam chẳng hề bao giờ thật sự có hoà bình, dân tộc Việt vẫn tiếp tục xuất huyết
vì nội chiến trong tâm. Vết thương cương mủ đang đưa dân tộc dần vào tình
trạng nhiễm trùng huyết tòan diện (septicemia), vào cơn hấp hối.
Nếu
không chữa kịp căn nhà VN đang bốc cháy mà chỉ chú tâm đuổi bắt kẻ đốt nhà,
e rằng nhà sẽ không còn. Cũng không thể ngồi trông đợi hay đòi hỏi, dạy bảo người
khác phải làm gì mà đã đến lúc chính chúng ta mỗi người phải tùy khả năng mà
quyết tâm hành động. Đó là sự quyết định của mỗi người cho chính mình.
Bổn phận
thiêng liêng nhất của mỗi người Việt hôm nay phải chăng là sự tự quyết định
thoát khỏi ngục tù dĩ vãng và chấp nhận gánh chịu một phần trách nhiệm về sự sống
còn của dân tộc ?
Một dân tộc
Việt tự do dân chủ mới là chiến thắng thực sự và là chiến thắng cuối cùng.
T.Q.
________________
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment