Cộng Sản Việt Nam Bắt Đầu Lệ Thuộc Vào Cộng Sản Trung Quốc Từ
Bao Giờ
Nhân Chuyện Đòi Sửa Đổi Hiến Pháp
Đọc Lại Tập Tài Liệu Liên Hệ Tới Các Cô
Vấn Tầu Ở Việt Nam Trong Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất (1946 – 1954)
Đây là những bài viết của “một số lão
đồng chí đã từng cộng tác trong Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam đầu
những năm 50 của thế kỷ 20” theo lời của Nhóm biên tập của tập tài liệu có nhan
đề Ghi Chép Thực Về Việc Đoàn Cố Vấn Quân Sự Trung Quốc Viện Trợ Việt
Nam Chống Pháp (Hồi ký của những người trong cuộc) do Nhà Xuất Bản
Lịch Sử Đảng Cộng Sản Trung Quốc ấn hành ở Bắc Kinh năm 2002, bản dịch tiếng
Việt của Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh Dy với Dương Danh Dy cũng là người hiệu
đinh.
Bản dich này không ghi nơi xuất bản cũng như tên nhà xuất bản với lý do
được viết là tài liệu lưu hành nội bộvà được gửi từ trong nước ra hải ngoại qua
thư điện tử. Cũng vậy, ghi là nội bộ nhưng sách cũng không được ghi rõ là nội
bộ của cơ quan nào. Dương Danh Dy là một nhà nghiên cứu được nhiều người tin
cậy. Ông đã từng giữ chức Bí thư thứ nhất tại Đại Sứ Quán Việt Nam ở Bắc Kính
và Tổng Lành Sư ở Quảng Châu, Trung Quốc.
Tập tài liệu này dày 280 trang qua thư
điện tử và gấp đôi tức 560 trang theo khổ sách in nhỏ, gồm tổng cộng 10 bài,
thêm hai trang “Lời Cuốí Sách”. Tất cả đều ít nhiều được phổ biến trên một vài
trang mạng ơ Hải Ngoại nhưng không thường trực. Tác giả đầu tiên là La Quý Ba,
ngưòi được Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc bí mật cử sang Việt Nam đầu năm
1950 làm đại diện liên lạc giữa Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Trung
Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương, sau này là Đại Sứ đầu tiên của Cộng Sản Trung
Quốc ở Việt Nam.
Bài này ngắn và có tinh cách tổng quát, được viết để tưởng nhớ
Mao Trạch Đông. Tác giả thứ hai là Trương Quảng Hoa. Ông này xuất thân
làm công tác ở văn phòng cố vấn quân sự của Đoàn, lo về thống kê nên nắm vững
tình hình giao nhận vật tư để báo cáo cho lãnh đạo của Đoàn. Trương Quảng Hoa
có cả thảy bốn bài, đồng thời giữ vai trò sửa chữa và hiệu đính, kể cả sửa chữa
và hiệu đính cho phần “Đại Sử Ký” tức phần niên biểu các sự kiện chính ở cuối
sách trong đó có bài viết tổng quát và một bài viết về vai trò có tính cách
quyết định của tướng Trần Canh trong trận Đông Khê – Thất Khê.
Chủ trương của
Trần Canh cũng như của các cố vấn Tầu đối nghịch với chủ trương ban đầu của các
chỉ huy trưởng Việt Minh, trong đó có các Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 102
Nguyễn Hữu An và Trung Đoàn 88 Thái Dũng. Người có bài thứ ba là Vu Hoá Thuần,
víết về Vi Quốc Thanh trong cả hai trận Đông Bắc và Điện Biên Phủ, một vai trò
cũng quyết định giống như vai trò của Trần Canh trong chiến dịch Đông Bắc.
Vương Nghiên Tuyền nguyên ở trong ban tham mưu của Tướng Trần Canh và là cố vấn
cho Đại Đoàn 308 trong thời chiến tranh chống Pháp, năm 1956 lại trở sang Vịêt
nam làm tổ trưởng Tổ Chuyên Gia Quân Sự cho đến năm 1957.
Ông này có hai bài
dài và coi như nòng cốt của tập sách. Tiếp theo là các bài của Độc Kim Ba và
của Như Phụng Nhất mà tiểu sử không được ghi dù là gián tiếp. Cuối cùng là một
niên biểu liệt kê theo ngày tháng tiến trình hoạt động của Đoàn Cố Vấn Trung
Quốc từ ngày được thành lập, từ tháng Giêng và tháng Hai năm 1950 cho đến trung
tuần tháng Ba năm 1956.
Nói tới Chiến Tranh Pháp – Việt Minh
(1946 – 1954) không ai là không biết tầm quan trong của viện trợ của Cộng Sản
Trung Quốc cho Cộng Sản Việt Nam kể từ sau khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc chiếm
được toàn thể Trung Hoa Lục Địa, hay chậm hơn và đúng hơn chút nữa là từ trung
tuần tháng 8 năm 1950, khi hai đoàn cố vấn quân sự, một do Vi Quốc Thanh và
Đặng Dật Phàm cầm đầu từ Quảng Tây và một do Trần Canh hướng dẫn từ Vân Nam đến
bộ chỉ huy tiền phương của Việt Minh ở Quảng Uyên, Cao Bằng và được Võ Nguyên
Giáp và Trần Đăng Ninh đón tiếp và thuyết trình. Đây là thời điểm then chốt. Nó
mở đàu cho một giai đoạn mới trong lịch sử Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất,
trong đó viện trợ của Trung Quốc đóng vai trò quyết định.
Sau thời điểm này
quân đội của Tướng Giáp không còn phải “chiến đấu trong vòng vây”, không còn
chỉ đánh du kích nữa mà đã chuyển sang vận động chiến rồi sau
đó là công kiên chiến để đánh bại địch quân của họ, theo sách
lược của Mao Trạch Đông và kinh nghiệm của Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc. Hồi
ký của các nhà lãnh đạo Việt Minh trong đó có Tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư
Lệnh Quân Đội, có Đặng Văn Việt,Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 174, con Hùm Xám
của Đường Số 4, đều nói tới nguồn viện trợ duy nhất và thiết yếu này nhưng nói
tương đối ít. Những chiến thắng của Việt Minh từ các trận Đông Khê và Cao Bằng
trong chiến dich Việt Bắc tới trận Điện Biên Phủ theo các chỉ huy người Việt
này là do sự hoạch đinh chiến lược và chiến đấu của chính người Việt. Các cố
vấn Trung Quốc trong tập Ghi Chép Thực kể trên đã gần như nói
ngược lại.
Không những thế họ còn viết nhiều hơn nữa, không riêng về quân sự
như cung cấp dư dả súng ống, đạn dược, quân trang, quân dụng, soạn thảo tài
liệu huấn luyện, tái tổ chức lại quân đội với chủ trương đặt nặng vai trò của
chinh trị trong quân đội, thành lập và võ trang những đại đơn vị mới như các
Đại Đoàn 316, 320, 325, 351 và một trung đoàn công binh bên cạnh các đại
đoàn 304, 308, 312 và một số trung đoàn đã có từ trước, mà còn giúp Việt Minh
giải quyết những khó khăn về kinh tế, tài chánh, đặc biệt là về tiền tệ, lương
thực để Việt Minh từ thế gần như thụ động, bị bao vây trên nhiều mặt trận, sang
chủ động làm chủ chiến trường. Các cố vấn Tàu còn cho biết họ đã soạn thảo các
chiến lược và trực tiếp tham gia chiến trận cùng với quân đội của Tướng Giáp từ
đó đã giúp cho Cộng Sản Việt Nam toàn thắng.
Một cách tóm tắt, khi đọc tài liệu này
ta có thể ghi nhận được những sự kiện sau đây:
Thứ nhất: Viện trợ của Trung Quốc cho Cộng Sản
Việt Nam là do Cộng Sản Việt Nam yêu cầu qua văn thư của Hồ Chí Minh và Trung
Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương gửi Mao Trạch Đông và Trung Ương Đảng Cộng Sản
Trung Quốc. Sự kiện này đã xảy ra tiếp theo hai chuyến đi bí mật của Hồ Chí
Minh sang Bắc Kinh vào đầu tháng Giêng năm 1950 và vào mùa đông năm 1951. Lần
đi thứ nhất, khi Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh thì Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đã
đi Moscow để ký Hiệp Ước Tương Trợ Đồng Minh Hữu Nghị Trung – Xô từ trước nên
họ Hồ chỉ được Lưu Thiếu Kỳ đón tiếp rồi sau đó được Lưu Thiếu Kỳ thu xếp để
sang Moscow.
Câu hỏi được đặt ra là trước khi đi Mao và Lưu có biết là Hồ sẽ
sang Bắc Kinh hay không?
Câu hỏi được đặt ra nhưng câu trả lời phần nhiều là
có. Nếu vậy tại sao hai người lại không đợi Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh để rồi
cùng đi? Câu trả lời phần nào có thể được thấy nếu người ta theo dõi những gì
đã xảy ra sau đó. Thứ nhất là trong buổi tiệc do Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng
Cộng Sản Liên Xô tổ chức để khoản đãi Hồ Chí Minh khi họ Hồ mới tới Moscow tối
ngày 6 tháng Hai năm 1950, Staline đã không đến dự và Staline chỉ tiếp ông này
nhiều ngày sau đó và tiếp ở phòng làm việc của mình với sự có mặt của nhiều
ngưới khác trong đó có cả Vương Gia Tường là đại sứ Trung Quốc ở Liên Xô.
Thứ
hai là trong buổi tiếp tân chiêu đãi trọng thể dành cho Mao Trạch Đông, Châu Ân
Lai và toàn thể các đoàn viên phái đoàn Trung Quốc, Hồ Chí Minh cũng được mời,
có thể là không chinh thức vì chuyến đi của ông là bí mật. Lợi dụng cơ hội này
và khi Staline rất vui, Hồ Chí Minh đã ngỏ ý xin được ký một hiệp ước tương tự
như hiệp ước Trung – Xô Mao Trạch Đông đã ký với Staline trước đó. Staline đã
từ chối. Trương Quảng Hoa đã kể lại cuộc đối thoại giữa hai người như sau:
Staline rất vui, trong bữa tiệc luôn
luôn trò chuyện với khách. Hồ Chí Minh nắm lấy thời cơ này cười hỏi Staline: “Đồng
chí còn có chỉ thị gì nữa đối với công tác của Việt Nam chúng tôi không?” Staline
cười: “Tôi làm sao có thể chỉ thị cho đồng chí, đồng chí là Chủ tịch nước,
quan còn to hơn tôi mà!””
“Hồ Chí Minh lại nói: “Các đồng
chí đã ký hiệp ước với Trung Quốc, nhân tôi ở đây, chúng tôi cũng muốn ký một
hiệp ước!” Staline nói: “Thế người ta hỏi đồng chí từ đâu ra? Chúng tôi
giải thích như thế nào?””
“Hồ chí Minh nói: “Điều đó rất dễ,
đồng chí cho chiếc máy bay chở tôi lượn một vòng trên trời, sau đó cho người ra
sân bay đón tôi, đưa một tin trên báo, không được sao?”
Staline cười lớn nói: “Đó là quá
sức tưởng tượng đặc bịêt của người phương Đông các anh” (trang 21).
Họ Trương ghi tiếp là “Rất nhiều người
dự tiệc cũng đều cười vang lên”.”Chi tíết này chứng tỏ cuộc đối thoại
giữa Hồ Chí Minh và Staline là công khai trước mặt mọi người. Nhưng xét toàn bộ
người ta thấy Staline tỏ ra rất lạnh nhạt, không tôn trọng Hồ Chí Minh, đã mỉa
mai khi trả lời những câu hỏi nghiêm chỉnh và quan trọng của họ Hồ. Không những
thế Staline còn đem những đề nghị của Hồ ra làm trò cười cho những người có mặt
trong buổi chiêu đãi và thẳng thừng từ chối những lời yêu cầu của họ Hồ,
trong đó có đề nghị ký một hiệp định là điều ông này rất mong muốn. Tại sao
vây?
Theo Trương Quảng Hoa Staline lo lắng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa
dân tôc, là Ti Tô thứ hai. Nhưng đọc kỹ chi tiết hơn, người ta thấy hai điều.
Một là Staline có chủ trương muốn Hồ Chí Minh đẩy sớm hơn và mạnh hơn cách mạng
xã hội và kinh tế thay vì chỉ lo đánh Pháp để sớm tiến tới chủ nghĩa vô sản và
hai là Staline đã cùng Mao Trạch Đông, và ngay cả trước đó không lâu, Lưu Thiếu
Kỳ trong một chuyến đi bí mật sang Nga, đã từng thảo luận và đồng ý với nhau về
vai trò viện trợ cho Cộng Sản Việt Nam của Trung Quốc rồi.
Đây là lý do chính
và Hồ Chi Minh khi được các lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc thu xếp cho sang Nga
chỉ là để nghe một chuyện đã được sắp xếp rồi. Riêng về cá nhân Hồ Chí
Minh, xuyên qua cuộc đối thoại này, người ta thấy phần nào bản chất thực tế,
kiên nhẫn, chịu đựng, quyền biến đến độ lì lợm, sẵn sàng dùng những biện pháp
lừa dối như ông đã thường làm ở Việt Nam của ông. Cuối cùng thì chuyến đi Liên
Xô của Hồ Chí Minh hoàn toàn thất bại, không giành được gì từ phía Liên Xô,
không được Staline coi trọng như Mao Trạch Đông để từ đây Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng Sản Việt Nam phải nghe và hoàn toàn trông cậy vào viện trợ của Trung Quốc.
Vận mệnh của Đảng Cộng Sản Việt Nam nói riêng và vận mệnh của dân tộc Việt Nam
cũng như lãnh thổ Việt Nam nói chung, có thể đã bị quyết định ngay từ chuyến đi
của Hồ Chí Minh này.
Nói như vậy là vì khi làm cố vấn bắt buộc chuyên gia Trung
Quốc phải nghiên cứu địa hình, địa diện, các cao điểm chiến thuật, chiến lược,
trục lộ giao thông cùng các tiềm năng khác có thể khai thác… bằng chính tai mắt
và khối óc của mình, chưa kể khi họ vạch và làm đường và khi khí giới, quân trang
quân dụng được vượt qua biên giới, chở sang cho Việt Minh. Các cao điểm
chiến lược, các cột mốc biên giới hẳn khó lọt qua con mắt của các chuyên gia
quân sự Trung Quốc ngay từ thời điểm này để chuyển về cho Trung Ương Đảng của
họ, không cần phải đợi tới bốn chục năm sau.
Về chủ trương giữ bí mật cho những
chuyến đi của Hồ Chí Minh và sau này là về Đoàn Cố Vấn Trung Cộng cũng là điều
người ta cần chú ý. Phía nào thực sự chủ trương giữ bí mật và tại sao phải giữ
bí mật? Câu hỏi cần phải đươc đặt ra, cũng như Hồ Chí Minh có hứa hẹn gì với
Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc để đánh đổi lấy viện trợ
của Trung Quốc không? Cũng vậy có thật viện trợ này là không hoàn trả và hoàn
toàn vô vị lợi dựa trên nghĩa vụ quốc tế giữa các đảng cộng sản hay không hay
ngược lại, có liên hệ gì tới sự nhượng bộ của Cộng Sản Vịêt Nam đối với Cộng
Sản Trung Quốc sau này không? Về điều này người đọc nên để ý tới sự gợi ý của
Staline là Trung Quốc giúp cho Vịêt Nam một con gà thì Việt Nam có thể trả lại
cho Trung Quốc một trái trứng.
Con gà là quân sự, là kinh tế, tài chinh, là
lương thực, là tiền tệ, con trái trứng là cái gì? Cũng vậy, sự giữ bí mật này
có liên hệ gì tới cách giải thích sự thỏa hiệp với Pháp của Hồ Chí Minh hồi năm
1946 trước đó, đại khái là thà ngửi c… thằng Tây ít năm còn hơn là làm nô lệ
thằng Tầu thêm một ngàn năm nữa hay những gì họ Hồ và Đảng Cộng Sản đã lên án
phía Việt Quốc, Việt Cách mấy năm trước đó?
Hay giữ bí mật theo yêu cầu của Nga
và của Tầu hay tất cả? Người viết sẽ trở lại vấn đề này trong một bài khác.
Cũng cần phải để ý tới sự kiện là thời điểm của cuộc viếng thăm là đầu năm
1950, lúc Liên Xô sau thế chiến thứ hai chưa đủ mạnh và Cộng Sản Trung Quốc chỉ
mới lên cầm quyền ớ Trung Hoa Luc Địa không được bao lâu. Cả hai lúc đó đều
không muốn gây chuyện trực tiếp với Pháp và gián tiếp với Hoa Kỳ.
Thứ hai: Viện trợ cho Việt Nam không phải chỉ vì nhu
cầu của Vịêt Nam mà cả Trung Cộng vì Trung Cộng cũng có nhu cầu đánh đuổi quân
Pháp nhằm bảo đảm biên giới phía Nam của mình chống lại tàn dư của Trung Hoa Quốc
Dân Đảng. Điều này cũng được các tác giả nói tới. Chiến dịch Đông Bắc và sau
này đánh Tây Bắc và sang Lào thay vì đồng bằng sông Hồng mà các cố vấn Trung
Quốc đã bắt ép các nhà chỉ huy quân sự Việt Minh phải chấp nhận cũng nhằm mục
tiêu này.
Thứ ba: Có một sự khác biệt về chủ trương chiến lược
và chiến thuật giữa các cố vấn Trung Quốc và các tướng tá Việt Minh và
phía Việt Minh bị bó buộc phải nghe theo trong đó có
mục tiêu tấn công như đánh để tiêu diệt địch hay đánh để chiếm các cứ điểm hay
các thị trấn? địa điểm tấn công, đánh nơi nào trước, Cao Bằng hay Đông Khê,
đồng bằng sông Hồng hay Lai Châu, Tây Bắc và Lào? đánh nhưng vẫn phải lưu tâm
tới hoàn cảnh của các chiến sĩ anh em, đồng bào của mình hay đánh để thắng với
bất cư giá nào?
Cuối cùng các cố vấn Trung Cộng khi không thuyết phục các tướng
tá Việt Minh đuợc đã luôn luôn báo cáo về cho Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung
Quốc và Mao Trạch Đông để Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc liên lạc với
Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam và Hồ Chí Minh và cuối cùng các cố vấn Trung
Quốc đã luôn luôn thắng thế. Chủ trương của họ đã được Hồ Chí Minh và Trung
Ương Đảng Cộng Sản Việtt Nam chấp nhận, đồng thời may mắn cho họ, kết quả đã là
chiến thắng.
Đọc các bài víết này người ta có cảm tưởng là các chiến thắng
của Việt Minh từ Đông Bắc đến Điện Biên Phủ hoàn toàn là do công lao của các cố
vấn Trung Quốc, từ đầu đến cuối, từ hoạch đinh chiến lược, lựa chọn địa điểm dể
đánh đến trực tiếp tham gia theo dõi, chỉ huy trận đánh và trực tiếp can thiệp
ngay khi cần. Các tướng tá Việt Nam đều là thiếu kinh nghịêm, nhút nhát, không
dám chấp nhận gian khổ. Chẳng hạn như trong chiến dịch Việt Bắc, Trần Canh và
Vi Quốc Thanh đã nghiên cứu tỉ mỉ phòng tuyến Quốc Lộ 4 của Pháp để đưa ra đề
nghị đánh Đông Khê trước thay vì Cao Bằng. Đề nghị này đã được Hồ Chí Minh lúc
đó lên thị sát mặt trận, trực tiếp phê chuẩn thay vì qua Tổng Tư Lệnh Võ Nguyên
Giáp. Họ Hồ còn chỉ thị thêm rằng: “Chiến dich này chỉ được thắng, không được
thua!”, đúng như chủ trương của Trần
Canh.
Lý do là vì Hồ đã quen bíết Trần Canh từ lâu trước đó, từ năm 1925 –
1926, đã yêu cầu Mao Trạch Đông cử Trần Canh sang giúp và tin cậy ở Trần Canh
đồng thời biết rõ nhu cầu Trung Viện. Chỉ được thắng, không được thua hay
thắng bằng bất cứ giá nào, bất kể sự hy sinh của binh sĩ là chủ trương của Trần
Canh, khác với chủ trương của Võ Nguyên Giáp và của Trung Đoàn Trưởng Trung
Đoàn 174 Đặng Văn Việt.
Trong trận Đông Khê khi vị Trung Đoàn Trưởng này
vì bộ đội của mình bị thương vong quá nhiều định rút lui, Vi Quốc Thanh đã điện
thoại cho cố vấn Trương Chí Thiện của trung đoàn này, thúc đẩy vị chỉ huy của
trung đoàn này, điều chinh bố trí và đánh tiếp. Giữa Trần Canh và Võ Nguyễn
Giáp tối ngày 4 tháng 10 năm 1950 cũng đã tranh cãi nặng nề qua điện thoại khi
quân Việt Minh tấn công chiếm núi Cốc Xá sau ba ngày liên tiếp và bị thiệt hại
nặng, Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Việt Minh ra lệnh cho bộ đội tạm ngưng tấn công để
nghỉ ngơi chỉnh đốn. Tranh cãi nặng qua điện thoại đến độ Trần Canh có lúc đã
nói to: “Nếu trận này không đánh
nữa thì tôi xin cuốn gói chuồn.” và nói tiếp: “Vào giờ phút then chốt này, bộ chỉ huy
mà dao động thì chôn vùi thời cơ rất tốt để chiến dịch thắng lợi”, đồng
thời dập mạnh điện thoại xuống.
Nhưng rồi sau đó Trần Canh đã liên lạc thẳng
với Hồ Chí minh và Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Kết quả là Hồ Chí Minh đã ra lệnh
cho bộ đội tiếp tục, còn Mao Trạch Đông thì khuyến cáo phải nhanh chóng tiêu
diệt địch cho dù thương vong quá lớn cũng không nên quá lo, không nên dao động
(trang 41). Những chi tiết này ít ra Tướng Giáp và Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn
174 là những nhân chứng còn sống có thẩm quyền xác hay phủ nhận, đồng thời cũng
có quyền giữ im lặng.
Thứ Tư: Trong việc giúp Việt Minh huấn
luyện và tổ chức lại quân đội, các cố vấn Trung Cộng còn giúp và rất có thể đã
áp lực các nhà lãnh đạo của đảng này thực hiện một cuộc chỉnh huấn với
chữ dùng trong tài liệu là chỉnh quân chính trị. Công tác này đã được các cố
vấn Trung Cộng lưu ý từ ngay những ngày đầu, nhưng mãi đến mùa hè và mùa thu
năm 1953 mới trở thành qui mô toàn diện.
Nó nằm trong chủ trương cách mạng căn
bản của Mao Trạch Đông và luôn cả của Staline qua khuyến cáo của Staline khi
Staline tiếp Hồ Ghí Minh hồi đầu năm 1950, với những dấu hiệu đầu tiên đã lộ rõ
qua những nhận xét của các cố vấn Trung Quốc về các cấp chỉ huy của bộ đội Việt
Minh khi họ thấy những vị chỉ huy này có trình độ học vấn cao, ghi chú
nhanh,học giỏi, nhưng nặng đầu óc tư sản, nhút nhát, sợ gian khổ, sợ khó khăn,
không có tầm nhìn chiến lược…” trong khi các binh sĩ cấp dưới ít học và không
được thăng thưởng.
Những ngôn từ như tố khổ, giác ngộ giai cấp…
đã được Vu Hóa Thầm nhắc tới trong bài viết của tác giả này (trang 63).
Chiến dịch chỉnh huấnquân sự, chính trị qui
mô này đã được phối hợp với phong trào cải cách ruộng đất lúc này đang được
tiến hành ở các cứ địa của Việt Minh ở Việt Bắc. Những sĩ quan xuất thân là các
sinh viên, học sinh, những thành phần trí thức, quan lại, tư sản đã tham gia Vệ
Quốc Đoàn từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo thuần
túy chỉ vì yêu nước, không còn được phục vụ như xưa nữa. Ngay danh xưng Vệ Quốc
Đoàn cũng bị thay thế. Một giai đoạn trong cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt
Minh đã đi qua, kèm theo với tất cả những gì đẹp đẽ nhất và lãng mạn nhất của
nó.
Trung Đoàn Trưởng Đặng Văn Việt, Con Hùm Xám Của Đường Số 4, thay vì trở
thành tướng vì đã đánh bại không phải một mà hai đại tá của quân Pháp theo tiêu
chuẩn của Hồ Chí Minh khi ông này phong cấp đại tướng cho Võ Nguyên Giáp, đã bị
gửi qua Trung Quốc làm tân khóa sinh của một trường sĩ quan. Cũng may là họ
Đặng hãy còn tốt phước do cha mẹ ông bà để lại, được để cho sống sót.
Trong sinh hoạt văn học nghệ thuật phải
chăng vì danh xưng Vệ Quốc Đoàn không còn dược dùng nữa, những bài hát tràn
ngập lòng yêu nước đại loại như:
Đoàn
Vệ Quốc Quân một lần ra đi
Nào có mong chi đâu ngày trở về.
Ra đi, ta đi bảo tồn sông núi.
Ra đi, ra đi thề chết chớ lui..
Nào có mong chi đâu ngày trở về.
Ra đi, ta đi bảo tồn sông núi.
Ra đi, ra đi thề chết chớ lui..
Phan
Huỳnh Điểu
Đoàn Vệ Quốc Quân
Đoàn Vệ Quốc Quân
hay những bài thơ đẹp và vui tươi
như:
Đoàn Vệ Quốc áo đen
Vượt qua sườn Tam Đảo
Sau những ngày dông bão.
Việt Bắc giặc lui rồi
Lũ tàn quân xơ xác
Chiến sĩ ta reo cười
Chim rừng vang tiếng hát.
Các anh như bầy chim,
Nẻo rừng sâu bay tới.
Huyện Tam Dương im lìm
Bỗng dưng vào đại hội.
Vượt qua sườn Tam Đảo
Sau những ngày dông bão.
Việt Bắc giặc lui rồi
Lũ tàn quân xơ xác
Chiến sĩ ta reo cười
Chim rừng vang tiếng hát.
Các anh như bầy chim,
Nẻo rừng sâu bay tới.
Huyện Tam Dương im lìm
Bỗng dưng vào đại hội.
Tác giả không rõ
và:
Đêm Liên Hoan! Kìa trông: đêm liên hoan
Đầu người nhấp nhô như sóng bể ngang tàng
Ta muốn thét như vỡ tung lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Vệ Quốc Đoàn
Đầu người nhấp nhô như sóng bể ngang tàng
Ta muốn thét như vỡ tung lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Vệ Quốc Đoàn
Hoàng Cầm
Đêm Liên Hoan
Đêm Liên Hoan
sau những năm này không còn được ai
sáng tác nữa hay có sáng tác cũng chẳng bao giờ được phổ biến. Tất cả chỉ còn
là một hoài vọng để cho những người lính già lâu lâu ngồi nhớ lại kể cho nhau
nghe hay viết cho nhau đọc. Chỉ tiếc rằng cái đẹp vừa hào hùng vừa lãng mạn của
thời trai trẻ mà chính họ cũng như thời thế đã tạo được cho họ đã không toàn
vẹn như cái đẹp của người lính già thuở Bình Mông ngày trước:
Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong
Lính già phơ tóc bạc,
Kể chuyện thủa Nguyên Phong
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong
Lính già phơ tóc bạc,
Kể chuyện thủa Nguyên Phong
Trần Nhân Tông
Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng
Ngô Tất Tố dịch
Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng
Ngô Tất Tố dịch
Lý do rất đơn giản: Vệ quốc sao được
khi người ta chủ trương tin tưởng và tranh đấu cho một mục tiêu, đó là
Dựng một ngày mai tình thương rắc gieo
Phá tan biên cương loài người sống thân yêu.
Phá tan biên cương loài người sống thân yêu.
Việt Lang
Đoàn Quân Đi
Đoàn Quân Đi
Tiếc thay tất cả chỉ nằm trong mơ ước
của những trai trẻ đương thời như tác giả đã tiểu tư sản thơ mộng hóa trong bốn
câu kết của bài ca
Đoàn quân đi giữa sóng
biên cương xuân về mùa thắm
Tôi thấy những nàng khan hồng lệ thắm
Hẹn ngày mai chiến thắng chớ quên đường về làng xưa
Em vẫn mong chờ tới ngày ấy đôi ta cùng mơ.
Tôi thấy những nàng khan hồng lệ thắm
Hẹn ngày mai chiến thắng chớ quên đường về làng xưa
Em vẫn mong chờ tới ngày ấy đôi ta cùng mơ.
Trên đây chỉ là một vài nhận xét mà
người đọc tài liệu này đọc và nhận ra được. Hy vọng những tài liệu này
cũng như những tài liệu tương tự sẽ được phổ biến rộng rãi hơn và được nhiều
người đọc hơn, nhất là những người được các tác giả của những hồi ký này bằng
cách này hay bằng cách khác nói tới, hầu có thể đóng góp thêm sự thực về một
giai đoạn cực kỳ khó khăn và cực kỳ phức tạp và tế nhị nhưng không phải là
không có những nét đẹp riêng của lịch sử Việt Nam trước khi mọi sự trở thành
đen tối như người ta thấy sau này vì dù sao đây mới chỉ là tiếng nói của một
phía. Điều đáng tiếc là cho đến nay hầu như tất cả đều im lặng, một sự im lặng
đáng sợ.
Phạm
Cao Dương
--
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment