Chỉ Là Vấn Đề Thời Gian – Ngô Đình Nhu
PHẠM
CHÍ DŨNG, HÃY THOÁI ĐẢNG ĐỂ CỨU NƯỚC, HÃY BỎ ĐẢNG ĐỂ CỨU NGUY DÂN TỘC
https://www.youtube.com/watch?v=WhCli74q_3c
Chỉ Là Vấn Đề Thời Gian – Ngô Đình Nhu
Bài đọc suy gẫm: Người Tàu thôn tính Việt Nam “Chỉ là Vấn Đề Thời
Gian”. Câu nói của ông cố vấn Ngô Đình Nhu là một viễn kiến chính trị sâu sắc.
Blog 16 mời quý bạn đọc theo dõi bài viết “Quan điểm của ông Ngô Đình Nhu và
hiểm họa xâm lăng của Trung cộng” qua bài viết của Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu, người
có quá trình 30 năm giảng dạy và nghiên cứu về các vấn đề chính trị Việt Nam
tại một số các viện đại học, các viện nghiên cứu, các bảo tàng viện và thư viện
tại Việt Nam, Úc, Hoa Kỳ và Âu châu… Hình ảnh chỉ là minh họa.
Một số hình ảnh người dân,
các linh mục, blogger Phương Uyên, An Đỗ,… đến tưởng niệm, cử hành thánh lễ tại
mộ phần Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông cố vấn Ngô Đình Nhu, bào đệ Ngô Đình Cẩn
trong năm 2013.
Khi hay tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, Cố Tổng Thống
Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, đã nhận xét:
Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề trong việc vụ ám sát xấu xa này.
Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp… Tôi khâm phục ông Diệm,
ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100
năm nữa mới tím được một lãnh tụ cao quí như vậy.[1].
Nhưng khi đọc xong tác phẩm Chính Đề Việt Nam của ông Ngô Đình
Nhu[2], tôi nghĩ cần phải thêm vào lời nhận xét đó, Việt Nam có lẽ phải mất đến
100 năm hay nhiều hơn nữa mới tìm được một nhà lãnh đạo có viễn kiến chính trị
sâu sắc như ông Nhu..
Thực vậy, đối với cá nhân người viết, sau hơn 30 năm giảng dạy và
nghiên cứu về các vấn đề chính trị Việt Nam tại một số các viện đại học, các
viện nghiên cứu, các bảo tàng viện và thư viện tại Việt Nam, Úc, Hoa Kỳ và Âu
châu.. người viết được các đồng nghiệp và các chuyên gia quốc tế về Việt Nam đã
dành cho một chút cảm tình và nễ trọng về kiến thức chuyên môn và sự khổ công đọc
sách. Tuy nhiên, với tất cả sự thận trọng
cần thiết của một người nghiên cứu lịch sử, người viết phải thành
thật công nhận rằng, trong tất cả những sách nghiên cứu mà người viết đã có dịp
đọc trong hơn 30 năm qua vì sở thích hay vì nhu cầu giảng dạy và nghiên cứu đòi
buộc phải đọc bằng Việt, Pháp và Anh ngữ, chưa có một tác phẩm nào, thể hiện
một sự tổng hợp bao quát và rất giá trị về các vấn đề chính trị thế giới trong
hơn 200 năm qua, để rồi sau đó đưa ra những viễn kiến chính trị vô cùng sâu sắc
để làm Kim Chỉ Nam Phát Triển cho Việt Nam cũng như các Quốc Gia Chậm Tiến trên
thế giới, như tác phẩm này của ông Nhu.
Có lẽ phải nói đây là một đóng góp quí
báu vào kho tàng tư tưởng chính trị thế giới. Và giả dụ rằng, nếu có thể sống
thêm 100 năm nữa để đọc sách, người viết nghĩ rằng không thể nào có được một óc
tổng hợp bao quát, đứng đắn và một viễn kiến chính trị sâu sắc thần kỳ như tác
giả của quyển Chinh Đề Việt Nam.
Vì tác phẩm nguyên bản bằng Pháp ngữ, và người viết tin rằng dịch
giả đã rất xuất sắc trong khi chuyễn ngữ, vì ấn bản Việt ngữ đã diễn tả một
cách hết sức lưu loát những khía cạnh sâu sắc và phức tạp của các vấn đề. Tuy
nhiên, những người đã quen tiếp cận với lối hành văn của ông Nhu qua các diễn
văn mà Ông đã soạn thảo cho Tổng Thống Diệm trong suốt 9 năm của nền Đệ Nhất
Cộng Hòa,[3] chắc chắn sẽ thấy rằng cách hành văn trau chuốt, chính xác, nghiêm
túc, sắc bén và chặt chẻ của ông Nhu mà bản dịch không thể nào thể hiện được.
Tuy nhiên, người viết muốn độc giả trực tiếp tiếp cận, một phần
nào, với cách luận giải và trình bày độc đáo của ông Nhu về các vấn đề chính
trị Việt Nam và quốc tế, nên người viết đã quyết định trích nguyên văn những
phần trong Chính Đề Việt Nam liên quan dến chủ đề của bài viết này. Và người
viết sẽ hạn chế tối đa phần đưa ra những diễn giải và nhận xét riêng tư của
mình.
Về nội dung tác phẩm, có lẽ phần cuốn hút được sự ngưỡng mộ nhất
của người viết là, trước đây gần nữa thế kỷ, ông Nhu đã nhận xét Liên Sô sẽ tự
giải thể để làm hòa với Tây Phương và Trung Cộng sẽ thất bại trong việc sử dụng
chủ nghĩa Cộng Sản để phát triển kinh tế, cũng như Âu Châu sẽ tập hợp lạii với
nhau trong một khối thống nhất như Khối Liên Hiệp Âu Châu ngày nay. Nhưng điều
hấp dẫn hơn nữa, ông Nhu đã không đưa ra những lời tiên đoán như một người thầy
bói hay một chiêm tinh gia, trái lại, ông đã đưa ra những phán đoán của mình,
sau khi đã phân tích và tổng hợp các dữ kiện lich sử và các biến cố chính trị
thế giới, một cách khoa học, khách quan và vô tư. Chính vì vậy, người viết nghĩ
rằng tập sách này sẽ có một mãnh lực vô cùng hấp dẫn đối với các nhà lãnh đạo
Việt Nam và các quốc gia chậm tiến Á Phi, nếu họ thực sự mong muốn xây dựng và
phát triển đất nước, theo một đường lối khoa hoc, thực tiển và hợp lý nhất.
Ví tác phẩm bao quát nhiều vấn đề lớn lao liên quan đến kinh
nghiệm phát triển kinh tế của Nhật Bản, Liên sô, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ.. và cả
trường hợp của Trung Cộng nữa. Đó là những đề tài quá lớn cho bài viết này. Do
đó, người viết nghĩ rằng, vấn đề thời sự nóng bỏng nhất hiện nay là vấn đề Trung
Cộng xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải, các hải đảo Hoàng Sa & Trường Sa cùng
vùng Cao Nguyên Trung Phần. Chúng ta thử tìm xem, gần 50 năm trước đây, ông Nhu
đã tiên đoán hiểm họa này ra sao, đã kiểm điểm lại chinh sách ngoại giao sai lầm
của chúng ta như thế nào và phương sách nào phải theo đuổi để chống lại Trung
Cộng, để chúng ta có thể thấy được kiến thức uyên bác của một chính trị gia và
cũng là một học giả lỗi lạc của thời đại chúng ta
Sự Thiển Cận Của Nhà Cầm
quyền Hà Nội.
Sự xâm lăng của Trung
Quốc đối với Việt Nam có tính cách trường kỳ, nhưng những nhà lãnh đạo Hà Nội
vì thiển cận và vì quyền lợi hẹp hòi của Đảng Cộng Sản và cũng có thể vì quyền
lợi cá nhân ích kỷ của những vị lãnh đạo, đã không ý thức hiểm họa xâm lăng
khiếp hãi đó của Trung Quốc, họ đã xem nhẹ quyền lợi của quốc gia, dân tộc, đã
liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, đánh mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, là khai
thác những mâu thuẫn giữa hai khối Tây Phương và Liên Sô sau Thế Chiến Thứ Hai,
để khôi phục độc lập và nhận viện trợ của cả hai khối để phát triển dân tộc…như
Ấn Độ. Trái lại, việc cam tâm làm chư hầu cho Trung Cộng và Liên Sô đã đưa Việt
Nam vào cuộc chiến tranh với Tây Phương một cách vô nghĩa và phi lý, và đã đem
lai một hậu quả vô cùng khủng khiếp cho cả dân tộc, đó là sự hủy diệt toàn bộ
sinh lực của quốc gia, cả về phương diện tinh thần lẫn vật chất và sinh mang
của người Việt, trong suốt hơn 30 năm… Nhưng còn tệ hại hơn nữa, là sự nhận viện
trợ đó từ Trung Cộng đã là tiền đề để rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt
Nam ngày nay.
Từ những năm đầu của
thập niên 1960, ông Nhu đã nhìn thấu suốt được hiểm họa xâm lăng truyền kiếp đó
như sau:
Trong lịch sử bang giao,
giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi nhau.
Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa
cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi
cơ hội đưa đến, để thâu hồi phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia,
Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình.
Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan
niệm trên.
Ngay năm 981, nghĩa là
vừa ba năm sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội
chính Việt Nam có biến, vì Đinh Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải
quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo quân, do đường thuỷ và đường bộ, để đặt
lại nền thống trị của Trung Hoa.
Ý cố định của Trung Hoa
là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục
và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường
nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng
khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc
quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và
triều cống. Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại
mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất.
Trong 900 năm, từ năm
939 đến năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xã hội Đông Á làm cho những mâu
thuẫn, nội bộ của xã hội này, tạm ngưng hoạt động, Trung Hoa đã bảy lần toan chiếm
lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần nhà Nguyên, một lần
nhà Minh và một lần nhà Thanh. Một hành động liên tục như vậy, nhất định có nghĩa
là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền
thống trị trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh
tế ấn định: lưu vực sông Hồng Hà là đướng thoát ra biển thiên nhiên của các tỉnh
Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân
chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đã như vậy thì, ngay bây giờ, ý định của Trung
Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng
Bắc phần.
Cũng chỉ vì lý do này mà, năm 1883, Lý Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức
cầu viện để chống Pháp, đã, thay vì gởi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa
để chống ngoại xâm, và thay vì cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa đáng lý ra
có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia cắt Việt Nam với Pháp,
Trung Hoa dành cho mình các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà
để lấy đường ra biển. Và ngay Chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần
giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 16 trở lên phía Bắc[4], cũng vì lý do
trên.
Xem thế đủ biết rằng,
đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên. (tr. 166)
Do đó, Trung Hoa của Mao
Trạch Đông, cũng như Trung Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là
một đe dọa truyền kiếp.
Sùng Bái Chủ Nghĩa Cộng
Sản là một Sai Lầm Nghiêm Trọng
Trong khi Liên Sô và
Trung Cộng xem chủ nghĩa Cộng Sản như là phương tiện tranh đấu để qui tụ các
nước nhược tiểu Á Phi vào đồng minh với họ, chống lại sự bao vây của Tây Phương
nhằm giúp họ phát triển kinh tế của đất nước họ, thì Cộng Sản Việt Nam sùng bái
chủ nghĩa Cộng Sản như là một chân lý để cải tạo xã hội và xây dựng đất nước.
Chính vì sự thiếu sáng suốt của nhà cầm quyến Hà Nội đã khiến Việt Nam phải bị
chia cắt làm 2 miền vào năm 1954, mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, để xây dựng
đất nước và củng cố độc lập để chống ngoại xâm.
Ông Nhu đã luận giải nan
đề đó như sau:
Nhưng chúng ta cũng còn
nhớ rằng Nga Sô sở dĩ liên kết với các thuộc địa của Tây phương là bởi vì Nga
Sô cần có đồng minh trong công cuộc chiến đấu trường kỳ và vĩ đại với Tây phương,
mà mục đích trước hết và trên hết, là phát triển dân tộc Nga. Tính cách thiêng
liêng giữa các đồng chí của lý tưởng cách mạng xã hội thế giới chỉ là một tín
hiệu tập hợp qui tụ kẻ thù của Tây phương vào một mặt trận phục vụ một chiến lược
tranh đấu của dân tộc Nga. Ngày nay, mục đích phát triển của Nga đã đạt. Sự thay
thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của Nga Sô bằng những giá
trị tiêu chuẩn, di sản của văn minh nhân loại, như chúng ta đã thấy trong một
đoạn trên, là một bằng cớ hùng biện nhất, soi sáng lập trường của Nga.
Trung Cộng
tố cáo Nga phản bội chủ nghĩa Các-Mác Lê-Nin vì những sự kiện trên. Trung Cộng
lại muốn thay thế Nga, nhân danh chủ nghĩa Các-Mác Lê Nin hô hào qui tụ các nước
kém mở mang, để phục vụ công cuộc phát triển cho dân tộc Trung Hoa. Ngày nào
mục đích phát triển đã đạt, thì cuộc đồng minh mới này do Trung Cộng đề xướng
cũng không còn hiệu lực đối với Trung Cộng, cũng như cuộc đồng minh trước đây
do Nga đề xướng, ngày nay, không còn hiệu lực đối với Nga. Và mục đích cuối cùng
của cuộc tranh đấu vẫn là mục đích dân tộc.
Nhiều nhà lãnh đạo Á
Đông mà quốc gia cũng đã bị Đế quốc thống trị, đã đủ sáng suốt để nhìn thấu
thâm ý chiến lược của Nga Sô. Gandhi và Nehru, từ chối sự đồng minh với Cộng
Sản vì lý do trên.(tr. 201)
Chúng ta chưa có một tài
liệu hay một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay
đã nhận thức các điều kiện trên. Ngược lại, các thư lại chính trị của miền Bắc
còn đang ca tụng như là những chân lý những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và
giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ. Như thế thì có lẽ dân tộc chúng ta còn phải bất hạnh
mục kích các nhà lãnh đạo miền Bắc của chúng ta tôn thờ như một chân lý, một lý
thuyết mà Nga Sô và Trung Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô
bắt đầu sa thải khi mục đích phát triển đã đạt.
Như thế thì, giả sử mà
người Pháp có thật sự thi hành một chính sách trả thuộc địa, như người Anh, đối
với Việt Nam, thì các nhà lãnh đạo miền Bắc cũng chưa chắc đã đưa chúng ta ra
được ngoài vòng chi phối trực tiếp của hai khối để khai thác mâu thuẫn mà phát
triển dân tộc.
Trong hoàn cảnh mà cuộc
tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối nặng nề hành động chính trị của
các quốc gia nhỏ, lập trường Cộng Sản, lệ thuộc Trung Cộng, của các nhà lãnh
đạo miền Bắc, đương nhiên gây phản ứng của Tây phương và sự phân chia lãnh thổ
cũng không tránh được.
Như vậy, tư cách Cộng
Sản của các nhà lãnh đạo miền Bắc là một điều kiện thuận lợi giúp cho người
Pháp thi hành những toan tính chính trị của họ ở Việt Nam. Và lập trường Cộng
Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng là một nguyên nhân của sự phân chia lãnh thổ
Việt Nam, trong khung cảnh chính trị của thế giới, sau Đại chiến thứ hai, do sự
tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối.
Tóm lại nguyên nhân sâu
xa của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam ngày nay là chính sách thuộc địa của Pháp
và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng của các nhà lãnh đạo miền
Bắc.
Trong thực tế, sự phân
chia đã nảy mầm khi hai quốc gia Tây phương Anh và Mỹ, để dọn đường cho một
giải pháp chấm dứt sự bế tắc của Pháp ở Việt Nam, nhìn nhận và bắt dầu viện trợ
cho quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, viện trợ quân sự và kinh tế đều qua tay chính
phủ Pháp. Và một phần lớn, đã được sử dụng trực tiếp hay gián tiếp trong công
cuộc tái thiết nước Pháp đã bị chiến tranh tàn phá. Thời gian qua, xét kỹ thì
thời kỳ này lại là thời kỳ mà những thủ đoạn chính trị của Pháp ở xứ này mang
đến nhiều kết qảu nhất.
Bên khối Cộng Sản, Nga
và Trung Cộng cũng nhìn nhận Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam và cũng bắt đầu viện
trợ.
Từ đây, chiến cuộc Việt
Nam, biến thành một chiến trường quân sự và địa phương của cuộc tranh chấp giữa
Nga Sô và Tây phương. Những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương mà, đúng lý ra,
phải được dùng để phát triển dân tộc, lại trở thành những khí giới gieo rắc sự
chết cho toàn dân. Những yếu tố của một cơ hội phát triển đã biến thành những
khí cụ của một tai họa.
Đồng thời, điều này vô
cùng quan trọng cho chúng ta, sự chi phối của Trung Hoa, và sau lưng sự chi
phối, sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa, mà chúng ta đã biết là vô cùng nặng nề,
một cách liên tục, cho chúng ta trong hơn tám trăm năm, tạm thời đình chỉ trong
gần một thế kỷ Pháp thuộc, đã bắt đầu hoạt động trở lại dưới các hình thức viện
trợ và cố vấn quân sự cho quân đội của Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam.
Chúng ta thừa hiểu rằng
sự phát triển của Tàu, là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh
hiện nay của các nhà lãnh đạo Trung Cộng, cũng như sự phát triển của Nga là mục
đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh trước đây của các nhà lãnh đạo
Nga. (tr. 202 -204).
Nhưng Hà Nội còn phạm
những lỗi lầm nghiệm trong hơn nữa, khi quyết định dụng võ lưc để thôn tính
miền Nam, đã dẫn tới việc trực tiếp đụng độ quân sự với Hoa Kỳ, khiến miền Bắc
đã khánh tận và kệt quệ trong cuộc chiến tranh chống Pháp càng lún sâu trong cảnh
tượng hoàn toàn đỗ nát và hoang tàn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, mà ngày
nay, qua hành động gần như van nài của Hà Nội để xin lập lại bang giao với Hoa
Kỳ vào năm 1996, ai còn chút lương tri bình thường cũng thấy rằng cuộc chiến đó
là hoàn toàn vô lý và xuẫn động, mà nguy hiểm hơn nữa là trực tiếp tạo điều kiện
thuận lợi cho Trung Cộng tự do xâm lăng Việt Nam, vì Mỹ đã không còn hiện diện
ở miền Nam, để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng.
Trong tác phẩm Chinh Đề
Việt Nam, hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng ngày nay cũng đã được báo động cách
đây gần 50 năm:
Sự lệ thuộc nói trên và
sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của
nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Ký
ức của những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta còn ghi trong
mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta.
Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của
Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của
họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng
ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.
Sở dĩ, tới ngày nay, sự
thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh
chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của
Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử
mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là
một vấn đề thời gian.
Trong hoàn cảnh hiện
tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống
trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng
Sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ
vẫn tiếp tục thực hiện ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối
của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung
hòa bình của Nga Sô.
Vì vậy cho nên, sự mất
còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn
trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn
này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để
duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách trống trị một lần nữa.
(tr.212)
Chính Sách Ngoại Giao
Có lẽ, trong quá khứ,
chúng ta quá sùng bái văn hóa Khổng Mạnh và quá lệ thuộc về chính trị đối với
các Hoàng Đế Trung Quốc, nên chúng ta đã không xây dựng được một đường lối
ngoại giao khoáng đạt như Nhật Bản để có thể cứu nguy cho đất nước, khi dân tộc
bị nạn ngoại xâm. Ông Nhu đã kiểm điểm sự thất bại nặng nể của chính sách ngoại
giao của các vua chúa ngày xưa qua những dòng dưới đây:
Họa xâm lăng đe dọa dân
tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở
thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử
ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc.
Hai lần Lý Thường Kiệt
và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến
công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ danh của dân tộc
vẫn phải khuất phục trước thực tế.
Tâm lý thuộc quốc đè
nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại còn lan
tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng giềng. Nếu, đối với
Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, thì đối với các nước chung quanh, chúng ta
lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lý đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các
nước láng giềng, lúc nào cũng gay go. Đã đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng
ta, là một công trình mà dân tộc đã thực hiện được.
Nhưng chúng ta còn thiếu
tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của
chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc phong phú hơn thì, có lẽ sự
bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng
ta không thể tránh được: chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ
thuật vượt biển của chúng ta không phát triển? Nếu chính sách ngoại giao của
chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành
trướng của dân tộc chúng ta, đã sớm phát ra nhiều ngõ, và sinh lực của chúng ta
không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai
nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn,
sự liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ đã rộng rãi hơn, và do đó, vị trí của
chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi dào và hữu hiệu
hơn.
Nhưng thực tế là vậy đó.
Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của dân tộc chúng ta, đến nỗi,
tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối
phó lại, họ chỉ có hai con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ
cõi về phía Nam.
Sở dĩ, khi bị Tây phương
tấn công, mà các nhà lãnh đạo Triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có
đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao rộng rãi, để khai thác mâu thuẫn giữa
các cường quốc Tây phương, là vì các nhà lãnh đạo của chúng ta không lúc nào
vùng vẫy, đả phá nỗi không khí tâm lý thuộc quốc đã đời đời đè nặng lên lịch sử
ngoại giao của chúng ta. Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ
sang cầu cứu với Trung Hoa. Chúng ta đã biết Trung Hoa đã hưởng ứng như thế nào
lời kêu gọi của nhà Nguyễn. Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta,
nếu không có lẽ Trung Hoa đã lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt
Nam.
Các sứ bộ của chúng ta
gởi sang Pháp lại cũng với mục đích điều đình, thần phục với Pháp như chúng ta
quen điều đình, thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên
phải có của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho
mình.
Vì thế cho nên, nếu
chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách
ngoại giao một chiều như trên đã trình bày, thì cân nhắc kết quả đó với những
sự thất bại mà cũng chính sách ngoại giao đó đã mang đến cho chúng ta trong một
ngàn năm lịch sử, thì có lẽ những sự thất bại nặng hơn nhiều.
Sự bành trướng của chúng
ta đã thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lý ra
phải là cái cửa sống cho chúng ta.
Nền ngoại giao của chúng
ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó,
đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, thì ngoại giao là
một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lãnh thổ.
Trong chín trăm năm, từ
ngày lập quốc, chúng ta đã bị ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một
lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh
đặt lại nền thống trị, trong hai mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm
toàn lãnh thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm.
Vì vậy cho nên, chốngngoại
xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị của Việt Nam. Chính trị cổ truyền,
của các triều đại Việt Nam không được quan niệm rộng rãi nên, nếu có phân nửa
kết quả đối với sự xâm lăng của Trung Hoa thì lại hướng chúng ta vào một chính
sách chật hẹp về ngoại giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay
vì mở cho chúng ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến
đấu tiêu hao chỉ để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại
giao chật hẹp đã đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các nhà
lãnh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại nhiều hậu
quả tai hại cho nhiều thế hệ.
Chính sách chống ngoại
xâm.
Cái họa ngoại xâm đối
với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy. Vì sao những biện pháp cổ truyền,
của các nhà lãnh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa, trong công
cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm
Tây phương?
Trước hết, các biện pháp
cổ truyền đã đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vấn đề chỉ liên quan đến
hai nước: Trung Hoa và Việt Nam. So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam, và như
thế, đương đầu phải là mục đích đương nhiên, thì chúng ta đã thất bại rồi.
Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề
chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính
sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế
cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không
hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta.
Lý do thứ hai, là công
cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng
ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân
sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng
như nhà Minh, nhà Thanh, chúng ta phải nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng
ta rất là giới hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng ta
chắc chắn cũng rất là giới hạn.
Như vậy, đối với một
nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm
sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt
trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho
chúng ta.
Tuy nhiên biện pháp cần
thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi
dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và
dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ
lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Nếu ý thức quốc gia và
dân tộc được ăn sâu vào tâm não của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi
người mến chuộng, thì các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các
đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng
không làm sao diệt được ý chí quật cường của cả một dân tộc.
Nhưng ý chí quật cường
đó đến cao độ, mà không người lãnh đạo thì cũng không làm gì được đối với kẻ
xâm lăng. Vì vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên,
cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với
vấn đề lãnh đạo, và, điều này còn chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu
triệt vấn đề lãnh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi vì,
có như thế, những người lãnh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu
diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm
lăng.
Nhân đề cập đến vấn đề
chống xâm lăng trên đây, lý luận đã dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng
quan trọng. Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như
chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên.
Để chống xâm lăng, chúng
ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự
và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc
lập và tự do của nhân dân, phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng
khuôn khổ giới lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu
triệt.
Sự thể đã như vậy, thì
đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để
bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi vì bản chất của một chính thể chuyên
chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não
của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ
điều khiển dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ.
Bản chất của môt chính
thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay
một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở
thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm
quyền.
Hơn nữa, giả sử mà chính
thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập
trong ý thức của mọi người, thì, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài
cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm. Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân
bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét người lãnh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ
người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm
lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ
có những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm.
Riêng về dân tộc chúng
ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương
sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà Nguyễn, thay vì lên án tất cả những
người bàn về quốc sự, đã nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi
người và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân.
Ngược lại, mấy lần dân
tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân
Minh và Quang Trung chiến thắng Mãn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã
khêu gợi được ý chí tự do và độc lập của toàn dân.
Và vấn đề vô cùng quan
trọng mà chúng ta đã nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam. Vì
những lý do trình bày trên đây, chính thể thích nghi cho dân tộc chúng ta,
không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị,
hay là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn
cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của dân tộc.
Nếu bây giờ chúng ta
chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải như thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta
có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế
hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt. Tóm lại theo ông Nhu,
muốn thoát khỏi hiểm họa xăm lăng của Trung Hoa, chúng ta phải theo đuổi 3 biện
pháp sau đây:
Biện pháp ngoại giao.
Việt Nam cần phải có một
sách lược ngoại khôn khéo, biết khai thác những mâu thuẩn giữa các cường quốc,
các thế lực của các liên minh khu vực như khối ASEAN, khối Liện Hiêp Âu Châu…vì
ngày nay theo khuynh hướng toàn cầu hóa của thế giới, thì ảnh hưởng kinh tế của
các quốc gia trên thế giới cỏn có một tác động quyết định tới sự sồng còn đối
với Trung Cộng, hơn là 30 hay 40 chục năm trước đây.
Ngày nay, sự mâu thuẩn
và tranh chấp giữa các cường quốc không còn gay cấn như thời chiến tranh lạnh,
nhưng một quốc gia như Trung Cộng với một dân số hơn 1.3 tỉ người, chiếm tỉ lệ
19.64% dân số thế giới, đang vươn vai đứng dậy với tham vọng làm một cường quốc
bá chủ Á Châu. Đó không những là một đe dọa riêng rẽ cho khu vực Á Châu Thái
Bình Dương mà còn là một hiểm họa chung cho cả thế giới nữa. Trước đây gần 50
năm, ông Nhu cũng đã đề cập đến vấn đề này,
Không phải tình cờ mà
ông Paul Reynaud, cựu Thủ Tướng Pháp trong cuộc viếng thăm nước Nga đã long
trọng tuyên bố với Thủ Tướng Krutchev. “ Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước
Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu
Châu”. (Tr. 157)
Trong tháng 9. 2009 vừa
qua, nhà cầm quyền Hà Nội, đã cử Tướng Phùng Quang Thanh, sang Tân Gia Ba để ký
Hiệp Ước Hợp Tác Quốc Phòng, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đến Úc Châu, và Phó Thủ
Tướng Phạm Gia Khiêm đến Hoa Kỳ, bí mật thảo luận về vấn đề an ninh lãnh thổ,
phải chăng là thái độ nước đến chân mới nhảy, như hai phái đoàn của các vua chúa
Triều Nguyễn ngày xưa, chúng ta thử nghe ông Nhu biện giải:
Sau khi Trung Hoa bị tấn
công, thì lúc bấy giờ phản ứng của chúng ta là vội vã gửi hai phái bộ sang Pháp
và Anh, mà không có một sự chuẩn bị ngoại giao nào cả. Lối gởi phái bộ như vậy
là lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay. Và sự gởi hai phái bộ sang Pháp và Anh,
theo lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay, lại càng làm cho chúng ta nhận thức, một
cách rõ rệt hơn nữa, quan niệm ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ mang nặng ‘tâm
lý thuộc quốc’ [đối với Tàu], đến mức độ nào.(tr. 181).
Lẽ ra, các nhà lãnh đạo
Hà Nội phải tích cực hơn, phải khôn khéo hơn, nếu không dám công khai, thì ít
ra cũng phải bí mật, vận động giới truyền thông thế giới, cảnh báo và vận động
dư luận thế giới, trước hết là các quốc gia ở vùng Đông Nam Á Châu, rồi đến Nga
Sô, Liên Hiệp Âu Châu và các quốc gia Á Phi biết về hiểm họa xâm lăng của Trung
Cộng. Điều rõ ràng nhất hiện nay, là các quốc gia trong vùng như Úc, Tân Gia
Ba, Thái Lan, Nam Duong9 và Mã Lai Á [5], đều gia tăng ngân sách cho tài niên
2009 về Không lực và Hải quận gấp bội, nhằm đối đầu với âm mưu bành trướng của
Trung Cộng. Nghĩa là các quốc gia này đều bắt đầu lo sợ về sự lớn mạnh của Trung
Cộng, nhưng chưa có một vận động quốc tế nào nhằm qui tụ những nỗ lực này thành
cụ thể và tích cực để ngăn chặn sự bành trướng đó.
Việt Nam là nạn nhân trước
hết và trực tiếp của nguy cơ này, phải biết dồn hết nỗ lực về mặt trận ngoại giao,
phải vận động, công khai hoặc bí mật, tất cả các quốc gia trên thế giới nhận
thức sâu sắc được mối hiểm họa nghiêm trọng này và khi tạo được sự đồng thuận
của đa số… Việt Nam vận động đưa vấn đề này ra Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, dù
biết rằng hiện nay Trung Cộng là 1 trong 5 hội viên thường trực của Hội Đồng
Bảo An có quyền phủ quyết, mọi nghị quyết của Đại Hội Đồng. Nhưng vấn đề chủ
yếu của Việt Nam là chính thức công khai đưa ra trước Liên Hiệp quốc một hiểm
họa thực sự nghiêm trọng của toàn thế giới, để kiếm tim một hổ trợ quốc tế tích
cực nhằm ngăn chặn âm mưu xâm lăng từ Trung Cộng.
Hơn nữa, Việt Nam cũng phải
biết vận động và nỗ lực đưa vấn đề này ra trước Tòa Án Quốc Tế ở The Hague (International
Court of Justice at The Hague). Mục đích không phải là tìm kiếm một phán quyết
của tòa án này cho vần đề tranh chấp, nhưng trọng điểm của nỗ lực này là tạo
nên sự chú tâm theo dỏi của dư luân quốc tế về một hiểm họa chung của thế giới.
Philippines đã
nộp đơn kiện Trung cộng tại tòa quốc tế Hague, Hòa Lan đòi chủ quyền biển đông.
Toà yêu cầu trả lời, tàu cộng nói không!!! tuy nhiên sự kiện này đánh động cho
cả thế giới biết sự việc ngang ngược của chúng.
Chúng ta còn nhớ, khi
muốn lật đỗ chinh quyền Ngô Đình Diệm, Nhóm chống Tổng Thống Diệm trong Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ đã vận dộng các quốc gia Á Phi đưa vấn đề được báo chí Hoa Kỳ
thời đó gọi là Đàn Áp Phật Giáo và Vi Phạm Nhân Quyền tại Việt Nam, ra trước Đại
Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, chuẩn bị dư luận trước ở các quốc gia Á Phi cho việc
thay đổi chính phủ tại miền Nam, trước khi âm mưu tổ chức đảo chánh ở Sài Gòn,
để khỏi gây nên những ảnh hưởng tiêu cực tại các quốc gia đó đối với chính sách
ngoại giao của Mỹ. Nhưng ông Nhu và Gs. Bửu Hội[6] đã phá vỡ âm mưu này bằng
cách chính thức mời Liên Hiệp Quốc cử một phái đoàn đến Việt Nam điều tra tại
chổ, trước khi đưa vấn đề này ra thảo luận tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.
Rồi
khi phái đoàn này đến Việt Nam điều tra và hoàn thành một bản phúc trinh dày gần
300 trang, với kết luận là không có đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam, thì Bộ Ngoai
Giao Hoa trở nên lúng túng, sợ rằng nếu đưa vấn đề này ra thảo luận tại Liên
Hiệp Quốc sẽ làm giảm uy tín của Hoa kỳ và tạo cơ hội cho Trung Cộng tấn công
Hoa kỳ đã xen vào nội bộ của Việt Nam và đã tổ chức đảo chánh ở Saigon, nên cử
Cabot Lodge vào đầu tháng 12. 1963, liên lạc với Sir Senerat Gunaewardene của Tích
Lan, là trưởng phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc lúc đó, đừng đưa bản phúc
trình này ra thảo luận tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc nữa, và Sir Senerat đã đồng
ý làm điều đó như một ân huệ cá nhân của ông dành cho Lodge (Gunawardene agreed
to do so as a personal favor to Lodge), vì trước đây khi làm Đại Sứ Hoa kỳ tại
Liên Hiệp Quốc, Lodge là bạn của ông.[7]
Như vậy, chúng ta thấy
đối với một cường quốc như Hoa Kỳ, họ cỏn biết vận dụng Diễn Đàn Liên Hiệp Quốc
hỗ trợ cho những mục tiêu chính trị của họ. Tại sao Việt Nam đứng trước một
hiểm họa đe dọa sinh tử đến vận mạng của cả dân tộc, chúng ta lại không vận
động để tìm hậu thuẩn của thế giới để bảo vệ nền độc lập của chúng ta ?
Nhưng thực tế, chúng ta
rất đau lòng, khi thấy, các nhà lãnh đạo Hà Nội, về phương diện ngoại giao, đã
đánh mất rất nhiều cơ hội lịch sử quí báu, để khôi phục độc lập cho dân tộc và
phát triển quốc gia. Đó là cơ hội của những năm 1945, 1954, 1973 và 1975. Thực
vậy, nếu ngày xưa các vua chúa Triều Nguyễn, vì quá tin tưởng vào văn hóa Trung
Hoa đã trở nên tự tôn và thiển cận, thì ngày nay các nhà lãnh đạo Hà Nội cũng
quá sùng bái chế độ Cộng Sản và quá tin tưởng vào lý luận giai cấp đấu tranh,
đã trở nên mù quáng, xem mọi người đều là kẻ thù, nên chưa bao giờ họ có thể đề
ra một chính sách ngoại giao khoáng đạt và lương hảo, còn về phương diện quốc
nội họ cũng không có đủ cởi mở, để thực tâm mời những thành phần khác biệt chính
kiến, thành lập một chính phủ đoàn kết để phất triển quốc gia.
Trái lại, họ chỉ
có những thủ đoạn chính trị gian trá và xão quyệt để lừa dối đối phương, để rồi
cuối cùng là tiêu diệt đối phương. Điều này chứng tỏ hết sức rõ rệt khi nhìn về
lịch sử Việt Nam Cận và Hiên Đại. Năm 1946, Cộng Sản dùng chiêu bài chính phủ
Liên Hiệp, để tiêu diệt phe Quốc Gia, rồi năm 1954, ký hiệp định Genevea, chưa
ráo mực, họ đã vi pham hiệp định này, bằng cách gài lại hơn 70,000 cán bộ tại
miền Nam với âm mưu khuynh đảo chính quyền Quốc Gia Việt Nam. Đến năm 1973, một
lần nữa, họ đã lừa phỉnh để tiêu diệt phe quốc gia dưới chiêu bài mới là Hòa
Hợp và Hòa Giải Dân tộc. Còn đối với quốc tế, khi ký hiệp định Paris, họ long
trọng cam kết để nhân dân Miền Nam hoàn toàn tự do quyết định vận mạng của mình.
Ngay sau đó, khi người Mỹ, theo đúng cam kết của hiệp định này, rút khỏi miền
Nam, thì họ đem quân xóa sỗ chinh phủ Sài Gòn…
Với một những phương cách gọi là
liên hiệp, hợp tác và một lịch sử bang giao đầy phản trắc và gian trá như vậy,
ai còn có thể tin tưởng vào Hà Nội để hợp tác hữu nghị. Do dó, từ ngày cướp chính
quyến tại Hà Nội vào tháng 8 năm 1945 đến nay, các nhà lãnh đạo miền Bắc bị
đuôi mù bởi lý thuyết Mác-Lênin và Mao Trach Đông, theo đuổi một chế độ độc tài
phi nhân, tàn sát và thủ tiêu các thành phần bất đồng chính kiến, đầy đọa toàn
dân trong cảnh nghèo đói, thất học, thù hận và bắn giết lẫn nhau. Còn về phương
diên quốc tế, vì thiếu hiểu biết và chỉ biết quyền lợi của phe nhóm, nên họ đã
liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, để đưa toàn thể dân tộc vào một cuộc chiến
tranh kéo dài hơn 30 năm. Đó là một cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt nhất
trong lich sử nhân loại. Thực vậy, lâu dài nhất vì cuộc Thế Chiến I, chỉ có 4
năm, từ 1914-1918, Thế Chiền 2, chỉ có 6 năm, từ 1939-1945, và khốc liệt nhất, vì
số bom đạn được sử dụng trong chiến trường Việt Nam gấp 2.5 số bom đạn dùng trong
Thế Chiến 2. Nhưng điều tệ hại hơn nữa, khi nhận viện trợ từ Trung Cộng để đánh
Mỹ cũng là lúc họ đã thực sự rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam.
Đối với những nhà lãnh
đạo có một não trạng bệnh hoạn như vậy làm sao có được một viễn kiến chính tri
sâu sắc, một chinh sách ngoại giao khoáng đạt và biết khai thác những mâu thuẩn
quốc tế để kiếm tìm nhũng đồng minh hữu hiệu, để rồi cùng với sự hỗ trợ tích
cực của toàn dân trong nước, nhằm tạo thành một sức mạnh dũng mãnh để chống lại
hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng
Biện Pháp Quân Sự
Hiện nay, Việt Nam có
một đội quân khoảng 450,000 người. Đây là một lực lượng quân sự lớn nhất so với
các quốc gia tại Đông Nam Á hiện nay. Nhưng vấn đề đặt ra liệu quân nhân dưới
cờ còn có tinh thần để hy sinh và chấp nhận gian khổ để chiến đấu nữa hay không?
Khi chính họ chứng kiến những thực trạng xã hội quá phũ phàng trước mắt, trong
khi các lãnh tụ của họ tìm mọi cách để vơ vét tài sản quốc gia cho cá nhân, gia
đình và phe nhóm, còn tuyệt đại đa số dân chúng, trong đó có cả các gia đinh bộ
đội Cộng Sản, bị bóc lột, sống trong cảnh khốn cùng nhất, chưa từng thấy trong
lịch sử cận đại Việt Nam, từ trước tới nay, nghĩa là còn cơ cực hơn thời Thực
Dân Pháp đô hộ đất nước chúng ta. Nhưng sau hết và mấu chốt hơn hết, vẫn là vấn
đề các nhà lãnh đạo Hà Nội có còn ý chí để chiến đấu nhằm bảo vệ tổ quốc chống
lại họa ngoại xâm nữa hay không?
Chúng ta hơi bi quan, khi nghe lời bình luận
của Carl. Thayer, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam, tại Học Viện Quốc
Phòng Hoàng Gia Dantroon của Úc. có lẽ bây giờ các nhà lãnh đạo Hà Nội đã trở
nên quá giàu có, họ muốn được yên thân để bảo vệ tài sản và gia đình của họ hơn..
cho nên việc mất thêm một vài hải đảo xa xôi như Hoàng Sa và Trường Sa, mất
thêm một ít lãnh thổ và lãnh hải ở phía Bắc không còn là vấn đề quan trọng với
họ nữa !
Biện Pháp Chính Trị
Đó là nuôi dưỡng tinh
thần độc lập, tự cường, tự chủ cùng ý thức quốc gia và dân tộc. Ông Nhu đã biện
giải vấn đề này như sau:
Tuy nhiên biện pháp cần
thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi
dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và
dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ
lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Ông Ngô Đình Quỳnh,
thứ nam của ông cố vấn Ngô Đình Nhu trong một cuộc phỏng vấn với đài Á Châu Tự
Do. Link: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/paris–commemoration-of-50-years-president-ngo-dinh-diem-and-ngo-dinh-nhu-s-death-11032013131800.html
Và sau cùng ông Nhu đã
đi đến kết luận, muốn thắng hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng một chính thể
chuyên chế hay độc tài như Hà Nội hiện nay, không thể nào thành công được.
Trong khi đó, chúng ta
đều biết rằng hiện nay thế giới đang chứng kiến những thay đổi khốc liệt nhất,
đặc biệt là trong lãnh vực tin học và khoa học kỹ thuật, còn trong lĩnh vực
chính trị ngoại giao, như Tổng Thống Obama, cũng kêu gọi, một sự hợp tác và hòa
giải giữa các quốc gia, để đẩy lùi bóng tối của chiến tranh và nghèo đói, nhằm
kiến tạo một kỷ nguyên hữu nghị, hợp tác, hòa bình và thịnh vượng cho toàn thế
giới, thì các nhà lãnh đạo của Hà Nội vẫn giữ nguyên bản chất của Cộng Sản là
độc quyền lãnh đạo, độc tài toàn trị và để cũng cố chính quyền chuyên chế, họ
thẳng tay đàn áp đối lập, các giáo hội tôn giáo chân chính, áp dụng chính sách
đầy đọa người dân trong cảnh nghéo đói, chậm tiến và thất học… để trong nước
không còn ai có thể chống đối lại họ được.
Với những kiểm điểm sơ
lược trên đây, chúng ta đều thấy trước rằng, nếu dân tộc chúng ta không còn cơ
may để thay đổi thành phần lãnh đạo tại Bắc Bộ Phủ, thi vấn đề Việt Nam nội
thuộc nước Tàu chỉ còn là vấn đề thời gian.
Tiến
Sĩ Phạm Văn Lưu
Hình ảnh và bài đọc do
nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.
Links:
Công ơn Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Nhân
Chí
Những ai đã sống dưới thời đệ I Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1955 đến năm 1963, cần khách quan mà nhận thấy đó là thời kỳ miền Nam Việt Nam hưng thịnh nhất, đã bỏ xa các nước Thái Lan, Mã Lai..v..v.. Sân bay Tân Sơn Nhất Saigòn thời đó đã là phi cảng rộn rịp nhất miền đông nam Á và Saigòn đã được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông.
Tưởng nhớ lại: năm
1954 Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã chấp chánh trong một tình thế rối ren và khó khăn
nhất, nhưng đã lấy lại được nền độc lập từ tay người Pháp mà không phải đổ máu,
đã đòan kết và thống nhất được các lực lượng vũ trang địa phương, đánh tan được
lọan quân Bình Xuyên và trở nên vị Tổng Thống đầu tiên của nền Đệ I Cộng Hòa
Việt Nam, sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955.
- Người đã ổn định đời
sống ấm no cho gần 1 triệu dân di cư năm 1954-1955, mà họ đã trở nên phồn thịnh
sau này, tại các vùng Bà rịa, Vũng Tàu, Long Thành, Cù Mi, Cái Sắn, Rạch Gía,
Biên Hòa, Hố Nai, Long Khánh, Đà Lạt..v..v..
- Người đã sáng lập ra
chính sách dinh điền năm 1958, thành lập 10 tỉnh mới như Bình Tuy, Long Khánh,
Quảng Đức, Phước Thành, Phước Long, Bình Long…vv.. giúp cho gần 1 triệu dân
nghèo từ các tỉnh miền Trung đi lập nghiệp, có nhà cữa ruộng vườn phì nhiêu, cụ
thể như các dinh điền Võ Đắt, Võ Xu, Chính Tâm vùng Tánh Linh Bình Tuy.
- Mỗi dinh điền cũng
như trại định cư: khởi đầu do một tóan nông cơ có khỏang 5 chiếc xe ủi, mất độ
chừng 2-3 tháng để ủi rừng gom cây, cho mỗi gia đình có khỏang 1 mẫu tây đất
trồng. Sau đó xe ủi sẽ làm đường ngang, đường dọc. Trắc lượng viên sẽ cắm cọc
phân lô vườn ở cho mỗi gia đình, ấn định vị trí các nhà công sở, để các nhà
thầu tới xây cất văn phòng hành chánh, trường học 6 phòng, trạm y tế, nhà hộ
sinh, cư xá đủ cho 4 cán bộ dinh điền, 1 y tá, 1 nữ hộ sinh, 5 giáo viên, (mỗi
người 1 căn), một nhà kho lớn để chứa gạo phát cho dân hàng tháng. Các giếng
nước được đào theo vị trí ấn định.
Tất cả những công
trình nói trên được làm theo bản đồ đã được vẽ sẵn do chuyên viên của Phủ Tổng
Ủy Dinh Điền đã nghiên cứu cẩn thận, và thi hành do một Ban Dinh Điền gồm có 1
Đỉa Điểm Trưởng, 1 Phụ tá, 1 Thư Ký và 1 Quản Kho.
Sau khi các tiện nghi
nói trên đã sẵn sàng, Ban Dinh Điền báo về Phủ Tổng Ủy tại Saigòn để gửi tới
một số nhà lều vài và ván gỗ làm giường tạm, để tiếp nhận đồng bào di dân tới
tạm trú, trước khi làm xong nhà ở. Rồi Phủ Tổng Ủy Dinh Điền cho chở một số di
dân tới, từng đợt một tùy theo khả năng dung chứa của nhà lều vải, mà đợt cuối
cùng là cho vừa đủ số dân đã dự trù cho mỗi dinh điền, tùy nơi: từ 2000 người
cho tới 5000 người. Sau khi tới dinh điền, mọi người được săn sóc y tế ngay,
sẵn sàng thuốc men, giếng nước, được cấp dao, rựa, cuốc, xẻng..v..v..mùng, mền,
chăn, chiếu. Riêng gạo, bột mì và tiền thì được cấp phát ít nhất là 1 năm hoặc
hơn, tùy theo hoa lợi thu hoặch, có nơi là 1 năm rưỡi, mà có nơi chỉ một năm là
dư giả như dinh điền Võ Đắt vùng Tánh Linh, Bình Tuy.
Đồng bào di dân chia
thành từng nhóm nhỏ để giúp nhau cất nhà bằng cây cắt ở rừng, mái lợp bằng lá
kè do nhà thầu cung cấp. Mỗi căn nhà được Tổng Ủy Dinh Diền cấp một số tiền.
Nhà làm xong sẽ được đồng bào bắt thăm. Sau khi ổn định nơi ăn chốn ở, đồng bào
được cấp một diện tích đất trồng cũng theo cách bắt thăm.
Ngày nay những nơi đó
là những vùng giàu có với cà phê, cao su, hạt điều, hoặc gạo lúa, như miền
Banmêthuột, vùng Đức Lập ở tỉnh Quảng Đức, Võ Đắt ở Bình Tuy, dinh điền Cà Mau
Rạch Gía..v.v..
- Lịch sử Việt
Nam và lịch sử thế giới chưa hề có vị lãnh tụ nào đã làm nên những việc thần kỳ
vĩ đại cho dân nghèo như vậy chỉ trong 9 năm cầm quyền.
- Ngòai ra, Tổng Thống
Ngô Đình Diệm đã đem lại thái bình thịnh vượng cho đồng bào miền Nam Việt Nam
về mọi mặt, ưu tiên nhất là xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn, dân nghèo được
chăm lo trước hết. Năm 1960 tờ Paris Match của Pháp trang bìa đã in
hình Ngô Đình Diệm với chú thích: “Ngo dinh Diem l’âme de 1960”.
Đặc biệt năm 1961 là năm đầu tiên và có thể là năm duy nhất Việt Nam có thặng
dư mậu dịch.
- Cũng xin nói thêm:
* Thời kỳ đó, học
sinh, sinh viên từ Tiểu Học đến đại học không hề phải đóng học phí. Bệnh nhân
vào bệnh viện cũng không hề phải đóng tiền.
* Một số đồng bào gốc
Tàu Chợ Lớn tự nguyện đi dinh điền Xóm Cạn (X), thuộc tỉnh Phước Thành, một số
người Việt ở Gia Định cũng xin đi dinh điền ở Võ Đắt tỉnh Bình Tuy: Nghĩa là
thời Đệ I Việt Nam Cộng Hòa một số dân thành phố dãn ra vùng nông thôn, thay vì
ngày nay, dân nông thôn phải thóat vào thành phố để mưu sinh một cách khổ cực.
Vì thế, Saigòn thời đó rất thanh thoáng, êm đềm, sạch sẽ không ồn ào đông đúc
náo hỗn tạp như ngày nay...
(X): Dinh điền Xóm Cạn
gồm hơn 3000 dân, gồm có người Tiều, người Quảng Đông, người Hẹ, đều là gốc Tàu
Chợ Lớn và một số người Thái Bắc Việt. Các Dinh diền Xóm Cạn, Xóm Sình, Bàu Cá
Trê, nằm phía sau đồn điền cao su Nguyễn đình Quát, khỏang giữa dường từ Tân
Uyên Biên Hòa đi Phú Giáo, quẹo phải vào độ 4km.
- Phải nói rằng: Tuyệt
đại đa số dân miền Nam thương tiếc Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chỉ có
Việt cộng và thiểu số cá nhân vì bất mãn, ganh tỵ, đảng phái, đòi quyền lợi
chức vị hoặc bị mua chuộc, mà hãm hại hoặc đặt đều bịa chuyện nói xấu Tổng
Thống Ngô Đình Diệm.
- Những thành quả của
Tổng Thống Ngô Đình Diệm nói trên là những chứng tích cụ thể rõ ràng và vĩ đại,
tòan dân tòan quốc ai ai cũng có thể kiểm nghiệm hoặc thấy được, còn những điều
bịa đặt của mấy tên vong ân bội nghĩa thì y như thằng mù rờ đít voi, chỉ hùa
nhau nói theo mà vô chứng cớ và chính họ cũng không hề biết đích xác. (Cụ thể
như tên Võ văn Sáu, chẳng hạn). Một kẻ bịa đặt, mười người trích theo, rồi nói
đó là chứng cớ, tòan là chứng cớ cuội.
- Cá nhân người viết,
nguyên là Địa diểm trưởng dinh điền 9 nơi, hồi đó chỉ có 2 vợ chồng và 2 con là
4 người, mà bây giờ cả đại gia đình đã có 36 nhân khẩu, tức là đã gấp lên 9
lần, vậy thì 2 triệu dân di cư và dinh điền hồi đó, nay cũng có thể nhân lên 9
lần, thành ra 18 triệu. Số người này không những thương tiếc Tổng Thống Ngô
Đình Diệm mà còn mang ơn sâu sắc đời đời Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
-
Cá nhân kẻ hèn này còn nhớ thêm một ơn sâu sắc của cụ Diệm nữa là: Nhờ có cụ
Diệm làm Thủ Tướng miền Nam năm 1954 thì kẻ hèn này mới dám di cư vào Nam để
hưởng cuộc đời sung sướng 20 năm tròn, với con cái học hành tử tế, lại có nơi dung
thân để sau năm 1975 có thể bay qua sống nơi miền đất hứa mà nay coi đất nước
tự do này như “thiên đàng hạ giới”.
Tóm lại: Nếu không có
cụ Diệm, đại gia đình tôi không được có mặt nơi miền hạnh phúc này. (Từ thủa
còn bé 1942, tôi đã thuộc lòng câu: Đày vua không Khả, Đào mả không Bài, Hại
dân không Diệm, nên đã dám tin vào cụ Diệm mà di cư từ Nghệ Tĩnh vào miền Nam).
Mà có thể nói được
rằng, nếu không có 20 năm Việt Nam Cộng Hòa thì đại đa số người Việt hải ngọai
đã không có “cơ hội” bỏ cộng sản ra đi 40 năm nay, mà chúng ta đã bị nhốt trong
nhà tù lớn của Cộng sản Việt Nam, chỉ hai năm sau hiệp Định Genève 1954 rồi!
Toronto, 10-6-2014
Nhân Chí
From: VietVungVinh <v
Date: 2014-07-21 18:06 GMT-07:00
Subject: San Francisco: Biểu tình chống Trung cộng và Việt cộng ngày 19/7/2014
To:
Date: 2014-07-21 18:06 GMT-07:00
Subject: San Francisco: Biểu tình chống Trung cộng và Việt cộng ngày 19/7/2014
To:
(Việt Vùng Vịnh) Tiếp
nối các cuộc biểu tình phản đối Trung Cộng ngang ngược đặt giàn khoan HD 981
trên lãnh hải thuộc chủ quyền Việt Nam và lên án Hà Nội khiếp nhược với giặc,
đàn áp các cuộc biểu tình của những người yêu nước chống Trung Cộng, hôm 19
tháng 7 năm 2014 lúc 11 giờ sáng đến 2 giờ trưa, một cuộc biểu tình rầm rộ
trước Tổng Lãnh Sự Việt Cộng và Trung Cộng tại thành phố San Francsico, với
đông đảo đồng hương từ các thành phố Sacramento, San Jose, San Rafael, Hayward,
Stockton, Oakland, San Francisco, v.v...
Cuộc biểu tình này được
tổ chức bởi bởi Thanh Niên Sinh Viên Cờ Vàng Bắc California được hỗ trợ bởi hội
H.O/SF cùng các tổ chức hội đoàn Bắc California để tiếp tục lên án Việt Cộng
hèn với giặc ác với dân và tố cáo với người dân bản xứ về sự bành trướng
của Trung Cộng cho dù giàn khoan chúng đã rút khỏi lãnh hải Việt Nam.
Biểu tình tổ chức vào
cuối tuần là tạo cơ hội cho những người đã không thể tham dự vào ngày thường vì
không thể nghỉ làm và cũng là vận động thêm về mặt tinh thần yêu nước cho người
Việt tại hải ngoại. Tuy TLS nghỉ làm cuối tuần không nghe thấy những phản đối
của đoàn biểu tình, thì việc còn lại là của những người làm truyền thông lương
tâm, có nhiệm vụ phổ biến rộng rãi giúp cho những nhân viên này được nghe, cũng
như tăng thêm tinh thần cho giới đấu tranh dân chủ trong nước.
Cuộc biểu tình kết thúc
trong niềm hân hoan của mỗi người như được nói lên tiếng nói hộ cho những bạn
thanh niên sinh viên trong nước, những người công dân Việt Nam đang phẫn uất vì
đất nước đang bị mất dần nhưng lại không được biểu tình, không được nói lời xúc
phạm đến ông cha của đảng CSVN là bọn Trung Cộng, một đảng cướp đúng nghĩa với
nguồn gốc của chúng.
Đây là tội ác
VC đã và đang giết hại và hủy diệt giống nòi một cách cực kỳ thâm độc !
Trại
Tập Trung Cải Tạo cuả việt cộng
Thiếu nhi, thanh niên là tương lai, rường cột nước nhà.Bao nhiêu thế hệ bị đày đọa, bần cùng hóa, lao động khổ sai như hình ảnh bi thương lam lũ của tuổi trẻ Việt Nam trong chế độ Cộng Sản. Như vậy, tương lai dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu.
Những cán bộ Cộng Sản và hậu duệ của họ đang nghĩ gì về thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam?
ĐÂY THIÊN ĐƯỜNG CỦA THIẾU NHI VIỆT NAM ĐƯỢC SỰ CHIẾU CỐ ĐẶC BIỆT CỦA ĐOẢNG-NHÀ LƯỚC!
Nhân ngày quốc tế Thiếu Nhi 1/6 định viết một bài vạch ra Sự Thật bị dấu diếm trắng trợn về đời sống cực khổ chưa từng có trên thế giới hiện đại này của đa số thiếu nhi nông thôn và miền núi Việt Nam… …
Nhưng xét lại, thấy mọi lời nói cũng không thể có sức tố cáo mạnh mẽ và xác thực bằng một loạt hình ảnh sau đây...
Xin mọi người có lương tâm trên thế giới hãy góp sức bằng mọi cách để giải phóng các cháu tội nghiệp này khỏi kiếp người nhưng cực khổ còn hơn con vật!
Xin Chúa hãy cứu vớt hàng triệu sinh vật nhỏ bé đáng thương này!
Xin Chúa hãy trừng phạt những kẻ đã đẩy các cháu vào con đường đau khổ này mà vẫn trâng tráo tuyên bố “tình hình xã hội, sự quan tâm đến các cháu thiếu nhi, tương lai của đất nước đã được nâng cao không ngừng”!!!
Chiếc bát
em bé cầm trên tay chứa món mèn mén, đây là một đặc sản của núi rừng Tây Bắc
nhưng khi ăn vào nó thì cứ nghèn nghẹn chẳng khác gì bát "chè
khoán" của bà cụ Tứ trong truyện "Vợ Nhặt" của nhà văn Kim Lân
|
HTTP://DANLAMBAOVN.BLOGSPOT.COM/2014/05/HANG-VAN-CONG-NHAN-BINH-DUONG-INH-
Chiến tranh
biên giới Việt Trung năm 1979
Battlefield Vietnam - Part 01: Dien Bien Phu The Legacy
SBTN SPECIAL:
Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P1)
SBTN SPECIAL:
Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P2)
SBTN SPECIAL:
Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P3)
|
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment