Nguyễn Trung: VIẾT GỬI ĐẠI HỘI XII SẮP TỚI CỦA ĐẢNG CS VIỆT NAM
VIẾT GỬI ĐẠI HỘI XII SẮP TỚI CỦA ĐẢNG CS VIỆT NAM (3)
II. 2. Con đường phát triển của Việt Nam bị chặn đứng
Có thể nói một cách rốt ráo: Đất nước có độc lập thống nhất bốn thập kỷ, nhưng đến hôm nay nhân dân vẫn chưa được giải phóng! Đây là nguyên nhân gốc gây nên mọi yếu kém của đất nước hôm nay, độc lập chủ quyền của quốc gia thiếu sức mạnh lẽ ra phải có trước những thách thức mới.
Thập kỷ đầu tiên sau 30-04-1975 bị mất hoàn toàn cho 2 cuộc chiến tranh và sự đổ vỡ kinh tế. Công cuộc kiến thiết lại đất nước thực ra chỉ bắt đầu từ khi tiến hành đổi mới 1986, đến nay là 29 năm. Bản “kết toán” 40 năm độc lập thống nhất của quốc gia hôm nay có thể phác thảo như sau:
1. Đất nước hình thành một nền kinh tế phát triển theo chiều rộng, đã tận dụng tới mức tối đa có thể huy động được những yếu tố ban đầu như lao động rẻ, tài nguyên, đất đai và môi trường. Cơ cấu hiện có của nền kinh tế nhìn chung còn lạc hậu, hàm lượng chế biến trong sản phẩm rất thấp, tính lệ thuộc của một nền kinh tế gia công rất cao (thực chất là chỉ bán lao động rẻ và môi trường, không tự hình thành được những sản phẩm hay ngành kinh tế của chính quốc gia mình), kết cấu hạ tầng thấp kém, năng suất lao động vào lọai thấp nhất trong khu vực, khả năng cạnh tranh đang suy
giảm nhanh vì đã khai thác cạn kiệt những yếu tố ban đầu, các hệ quả trong quá trình
phát triển của một nền kinh tế lạc hậu ngày càng gia tăng (như thất nghiệp, nghèo đói,
chênh lệch giầu nghèo và bất công xã hội, ô nhiễm môi trường…). Về nhiều mặt sự phát triển kinh tế có phần mang tính thị trường hoang dã, đồng thời đặm nét chủ nghĩa tư bản thân hữu. Nền kinh đòi hỏi bắt buộc phải tìm đường chuyển sang một thời kỳ phát triển mới.
2. Thể chế chính trị và hệ thống nhà nước được thiết kế theo quan điểm đảng đứng trên Hiến pháp, nắm quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối. Trong thực tế đó là một hệ thống đảng trị, có trong tay hệ thống nhà nước làm công cụ thực hiện quyền lực của hệ thống đảng. Hệ thống quyền lực kép này (đảng + chính quyền) còn có hệ thống mặt trận (MTTQVN) là công
cụ phụ trợ. Thiết kế như vậy, ngân sách quốc gia (thuế của dân) phải gánh 3 hệ thống quyền lực: (a) hệ thống đảng, có mọi quyền lực nhưng không phải chịu trách nhiệm ràng buộc nào trước đất nước; (b) hệ thống chính quyền, thực thi quyền lực của hệ thống đảng và trên thực tế hầu như chỉ chịu trách nhiệm trước hệ thống đảng, (c) hệ thống mặt trận với tính chất là công cụ thâu tóm mọi hoạt động trong xã hội vào guồng máy của hệ thống chính trị.
Toàn bộ cỗ máy quyền lực này được vận hành dưới sự chi phối của (1) tập đoàn kinh tế nhà nước, (2) nền kinh tế GDP tỉnh, và (3) tư tưởng tư duy nhiệm kỳ. Có thể thấy ngay, một hệ thống quyền lực cồng kềnh và chồng chéo, có hệ điều hành đảng quyết định tất cả nhưng không chịu trách nhiệm ràng buộc, với chất lượng con người hoạt động trong hệ thống được nhào nặn từ chính hệ thống này, hiển nhiên không thể vận hành có hiệu quả toàn bộ sự vận động của một quốc gia.
Về nhiều mặt, đây là một hệ thống quyền lực kìm kẹp quốc gia, vô hiệu hóa không ít hay
không thực thi được bao nhiêu các
chính sách cũng như luật pháp do chính hệ thống này ban hành. Mọi chiến lược hay quy hoạch quốc gia đã vạch ra được đều trở nên không khả thi hoặc chỉ được thực hiện manh mún phần nào trong một hệ thống quyền lực chồng chéo, vận hành theo nhiệm kỳ và xé lẻ như vậy; quan liêu, lãng
phí, tham nhũng và tội ác ngày càng trầm trọng là tất yếu. Chính hệ thống quyền lực này bóp nghẹt các quyền tự do dân chủ của nhân dân, hủy hoại nghị lực sáng tạo của đất nước. Thực tế này đẻ ra đòi hỏi phải tăng cường trấn áp để bảo toàn chế độ, hệ quả là ngày càng mất lòng dân, trực tiếp cản trở sự phát triển của đất nước. Với một hệ thống quyền lực như vậy không thể tạo ra và cũng không
thể quản lý nổi một nước Việt Nam công nghiệp hóa.
Tình hình kinh tế đất nước bế tắc như hiện nay, đất nước hầu như bị động và chưa chuẩn bị được bao nhiêu trong
việc đối phó với âm mưu bành trước bá quyền của Trung Quốc, cũng như nhiều yếu kém khác nữa của sự nghiệp phát triển đất nước trong đối nội và đối ngoại còn cho thấy: Trong tình hình mới, hệ thống quyền lực này ngày càng bất cập và không có khả năng dẫn dắt đất nước trong thế giới hiện tại. Ngoài ra không thể không đặt câu hỏi sự lũng đoạn của quyền lực mềm Trung Quốc đã tác động tới mức nào vào hệ thống quyền lực nước ta hiện nay.
3. Những sai lầm và yếu kém của hệ thống quyền lực trong hai thập kỷ gần đây ngày càng trầm trọng, gây ra áp lực ngày càng lớn trong đời sống của nhân dân. Chính
sách thông tin bưng bít và định hướng để giữ chế độ và giữ đảng trong quá trình
ngày càng tha hóa đang một mặt làm trầm trọng thêm tình trạng ngu dân, mặt khác vấp phải sự bác bỏ (bộc lộ ra hay không bộc lộ ra) của nhân dân ngày
càng quyết liệt. Trong đời sống xã hội, sự lên ngôi của giả dối và của những hiện tượng phi đạo đức của quyền lực đang gây ra cuộc khủng hoảng trầm trọng đời sống tinh thần và văn hóa của đất nước. Trong đời sống đất nước xuất hiện những nghịch lý trầm trọng: Giữa lúc cần phát huy cao nhất tinh thần đoàn kết hòa hợp hòa giải dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, nhưng lòng dân ly tán
và dân tộc bị chia rẽ; giữa lúc cần phát huy những giá trị tinh thần, đạo đức, văn hóa, xã hội cho sự nghiệp chấn hưng đất nước lại xảy ra hiện tượng đời sống tinh thần của nhân dân sa sút
nhất, sự băng hoại các giá trị đạo đức xã hội ngày càng trầm trọng; chưa bao giờ các hiện tượng phản văn hóa, hủ tục, các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút và tội phạm hình sự tràn lan như hiện nay. Tinh thần dân tộc bị tổn thương, nguyên khí quốc gia bị đánh cắp. Và như đã phân tích trong phần II. 1. “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”, đất nước đã độc lập 40 năm mà vẫn chưa phải là của nhân dân và do nhân dân làm chủ. Nguyên nhân gốc của toàn bộ tình trạng này xuất phát từ sự tha hóa của hệ thống quyền lực.
4. Bốn mươi năm độc lập thống nhất đầu tiên của đất nước cũng là 40 năm đảng và nhà nước Việt Nam vấp phải nhiều sai lầm đối ngoại trầm trọng nhất. Do nhìn nhận sai về thế giới, nên sau khi vừa mới ra khỏi chiến tranh đất nước lại bị kéo ngay vào 2 cuộc chiến tranh mới trong 10 năm liền (1979 – 1989). Hội nghị Thành Đô là sai lầm chiến lược tiếp theo, để lại hệ lụy lâu dài và khôn lường cho đất nước. Điều trớ trêu là ĐCSVN chủ trương đường lối đối ngoại hòa hiếu, không đi với bất kỳ nước nào chống lại nước thứ ba. Song đường lối đối ngoại bắt đầu từ hội nghị Thành Đô lại cột chặt nước ta vào một bên Trung Quốc, có nghĩa là làm
như thế khách quan tạo ra những mâu thuẫn nhất định giữa nước ta và các nước thứ ba. Nguy hiểm hơn thế, đường lối đối ngoại này đã đưa con đường phát triển của đất nước đi vào quỹ đạo của Trung Quốc, tạo ra sự lệ thuộc trầm trọng và tình trạng bị Trung Quốc uy hiếp cho đến hôm nay ĐCSVN vẫn không thể tìm ra đối sách khắc phục; độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bị xâm phạm nghiêm trọng. Đường lối đối ngoại Thành Đô cùng với đường lối đối nội giữ đảng và giữ chế độ bằng mọi giá trên thực tế đã biến nước ta thành một nước chư hầu kiểu mới của Trung Quốc, giữa lúc nước ta đã hội nhập toàn diện vào thế giới toàn cầu hóa, có tất cả các quốc gia quan trọng là đối tác chiến lược hay đối tác toàn diện. Đường lối đối ngoại này khiến cho nước ta bị cô lập, vì nó chỉ cột chặt nước ta vào Trung Quốc và đẩy nước ta vào thế phải leo dây với các đối tác khác, nước ta vừa không có sự liên minh thật sự với bất kỳ đối tác quan trọng nào cần thiết cho an ninh của nước ta, vừa tự mình không tranh
thủ được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của cả thế giới cho bảo vệ chủ quyền quốc gia và những lợi ích chính đáng của nước ta.
Trung Quốc là đối tác và đối tượng số một tự nhiên và mãi mãi
đối với nước ta, nhưng trong 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên của đất nước ĐCSVN đã thất bại hoàn toàn trong việc xây dựng nên một quốc sách có thể bảo vệ được độc lập chủ quyền quốc gia, đồng thời giữ được hòa bình và thực hiện được hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc. Nguyên nhân chủ yếu là: ĐCSVN đặt lợi ích quốc gia dưới lợi ích của đảng và của chế độ, trí tuệ thấp kém, sự lầm lẫn nghiêm trọng của ý thức hệ, sự khiếp nhược trước Trung Quốc, bị quyền lực mềm Trung Quốc lũng đoạn nghiêm trọng.
Bản kết toán 40 năm đất nước độc lập thống nhất cho phép đánh
giá:
1. Đất nước trong 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên dưới chế độ toàn trị của ĐCSVN đã tạo ra được một nền kinh tế chủ yếu là bán những thứ tự có nhiều hơn là những thứ tự làm ra, nợ nần nhiều ai trả (?), với một chế độ chính trị không có khả năng đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp phát triển.
2. Để giữ đại cục quan hệ với Trung Quốc, đảng đã phải chấp nhận nhiều thỏa hiệp hay hy sinh lợi ích quốc gia (không loại trừ có thể có những vụ việc sự tha hóa của cá nhân đã bán rẻ lợi ích quốc gia); đất nước lâm vào tình trạng lệ thuộc và bị chèn ép nhiều mặt đến mức gần như trở thành một chư hầu kiểu mới của Trung Quốc.
3. Giữ đảng và chế độ như hiện nay, không thể giữ nước. Tình hình đã đến mức sự tồn tại và hành động của đảng và của chế độ như trong hiện tại đã và đang cản trở trực tiếp sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Sự lũng đoạn và uy hiếp của Trung Quốc rất nguy hiểm nhưng không nguy hiểm bằng.
Đại hội XII sắp đến của ĐCSVN nhất thiết cần thẳng thắn mổ xẻ toàn bộ tình hình đất nước nói trên và rút ra những kết luận dứt khoát.
III. Hiểm họa đen?
III. 1. Lạc lõng
Phần I cho thấy thế giới đã sang trang tiếp, sang trang tiếp, và lại vừa mới sang trang tiếp một trang mới nữa. Càng ngày càng rõ trong thời đại chúng ta đang sống không có chỗ cho những suy nghĩ hão
huyền về chủ nghĩa xã hội hoặc xu thế tất yếu nào về điều này trong bất kỳ mối quan hệ quốc tế nào. Hiện nay giành giật của quan hệ Mỹ – Trung đang chi
phối sâu sắc bàn cờ thế giới. Một thời kỳ mới của các mối quan hệ quyết liệt tập hợp lực lượng và đối đầu nhau trong trật tự quốc tế đa cực bắt đầu, đặt ra rất nhiều vấn đề nan giải cho nhiều quốc gia liên quan – nhất là cho nước Việt Nam ta.
Phần II cho thấy lịch sử Việt Nam đã sang trang cách đây 40 năm. ĐCSVN đã áp đặt cho đất nước một con đường phát triển theo ý thức hệ của mình, hoàn toàn
trái với đòi hỏi hỏi tất yếu của một nước được tự nhiên đặt sẵn vào vị trí địa kinh tế và địa chính trị trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay. Con đường phát triển đã lựa chọn ấy, một mặt là duy chí với quy luật phát triển tự nhiên của một quốc gia như nước ta – một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua liên tiếp những cuộc chiến tranh lớn thảm khốc, mặt khác là không nhận thức được cái trật tự quốc tế hiện hành đã ấn định cho nước ta một vị thế địa kinh tế và địa chính trị nhất định, buộc nước ta phải chấp nhận và phải tìm ra cách xử lý thỏa đáng sao cho có lợi nhất cho mình.
Nói hình ảnh, ĐCSVN đã chọn cho đất nước độc lập thống nhất con đường phát triển đảng muốn và xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa như ở trên cung trăng –
với hàm nghĩa đảng chọn một mô hình xây dựng đất nước không theo quy luật của phát triển, lại một mình chọn một sân chơi khác kiểu trong thế giới, không nhận thức đúng được các mối quan hệ qua lại giữa nước ta và toàn bộ thế giới bên ngoài, càng
không hiểu rõ sự chi phối có ý nghĩa quyết định về nhiều mặt của những mối quan hệ qua lại này đối với nước ta.
Có thể kết luận: ĐCSVN vừa không hiểu đất nước sau khi ra khỏi chiến tranh, vừa không nhận thức đúng được cái thế giới nước ta đang sống.
Tư duy ý thức hệ của đảng là nguyên nhân
của mọi nguyên nhân, lại trong hệ thống chính trị một đảng, nên ngay từ ngày đầu tiên của đất nước độc lập thống nhất, với tính cách là người chiến thắng, ĐCSVN đã trở thành người cai trị đất nước. Chính thực tế này giải thích tại sao quyền làm chủ của nhân dân đối với đất nước độc lập thống nhất không được trao lại cho nhân dân
ngay sau khi chiến tranh kết thúc – nhân danh đảng phải đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của đảng, để đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Về phương diện này, lịch sử phát triển của Việt Nam đã bị chặn đứng ngay từ đấy – nghĩa là cách
đây 40 năm, và bị bẻ ngoặt sang một hướng duy tâm, duy ý
chí, với kết quả đạt được như hôm nay.
Theo quy luật tha hóa của quyền lực, hệ thống chính trị quốc gia được xây dựng lên dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của đảng ngày nay đã thật sự trở thành chế độ toàn trị, đang tích tụ ngày một nhiều mâu thuẫn đối kháng với các quyền tự do dân chủ của nhân dân và đi
ngược lại lợi ích quốc gia. Đất nước bị chính hệ thống chính trị của mình kìm hãm trước tiên, mọi bước phát triển đạt được đều phải trả giá đắt, hiện đang lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện rất sâu sắc.
Ngày nay, tình hình tha hóa của đảng đến mức ý thức hệ thật ra cũng chỉ còn lại là cái bình phong hay là công cụ, để che đậy hay để thực hiện yêu cầu bảo vệ quyền lực của đảng, thực sự nó không còn đọng lại chút nào là lý tưởng cách mạng.
Tổng hợp lại có thể nói: Tư duy ý thức hệ của ĐCSVN không phải là tụt hậu hay lạc hậu so với thời đại của thế giới hiện tại, nó lạc lõng theo một lối riêng không tưởng và không đi
cùng với xu thế phát triển của thế giới hiện tại. Sự tha hóa của quyền lực trong hệ thống chính trị một đảng càng khiến cho sự lạc lõng này không
thể cứu vãn được, đảng ngày càng suy yếu vì những thất bại của chính mình. Để tồn tại, đảng bắt buộc phải mắc thêm nhiều sai lầm mới, buộc phải thêm độc tài và toàn trị hơn nữa.
Tình hình nêu trên có thể rọi thêm ánh sáng
vào những quyết định của đảng khi lựa chọn giải pháp Thành Đô và
các giải pháp thỏa hiệp khác với Trung Quốc cho đến nay. Ảo tưởng rằng Trung Quốc cùng chung ý thức hệ đã làm cho cái giá phải trả cho những thất bại phạm phải càng đắt hơn.
Đành rằng giác ngộ là một quá trình, song
độc quyền chân lý của chế độ toàn trị đã không dung nạp quá trình này
cho đến hôm nay.
Cũng như ở hầu hết mọi nước Liên Xô Đông Âu
cũ và một số nước xã hội chủ nghĩa khác, ở nước ta tiếng nói phê phán tư duy ý thức hệ cộng sản và đường lối sai lầm của tư duy này đã được trí tuệ của đất nước cất lên rất sớm ngay sau khi
kháng chiến chống Pháp kết thúc. Chí ít vụ Nhân văn giai phẩm có thể coi như là tiếng nói tập thể đầu tiên nêu lên mối nguy của ý thức hệ làm mất dân chủ và nhân văn trong sự nghiệp phát triển đất nước. Ai cũng biết vụ Nhân văn giai phẩm đã bị trấn áp quyết liệt. Khoảng dăm bẩy năm nay hầu như các nạn nhân vụ này đã được phục hồi danh dự cá nhân, nhưng chế độ chưa bao giờ có một lời xin lỗi hay nhận sai lầm. Nhìn chung chế độ này không biết xin lỗi các sai lầm đã xảy ra (trong cải cách ruộng đất, trong cải tạo tư sản, trong cải tạo tù chính trị…).
Đặc biệt là sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, tiếng nói phê phán những sai lầm tư duy ý thức hệ và đường lối của nó ngày càng nhiều, được nói lên từ những nhân vật tiêu biểu như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trần Độ, Trần Xuân Bách, vân vân… Sự tiếp thu của chế độ là quy kết những tư duy như thế là phản động, là chống chế độ, và thậm chí là phản quốc, phải đàn áp. Phan
Đình Diệu không bị đàn áp nhưng bị bỏ ngoài tai, còn
nhiều người khác bị bỏ ngoài tai…Sự việc mà tôi biết rõ nhất là bức thư gửi Bộ Chính trị ngày 09-08-1995 của đương kim Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc ấy đặt vấn đề: (1) phải nhận thức lại thế giới, (2) trên cơ sở đó xem lại đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước, (3) giai đoạn phát triển mới của đất nước nhất thiết phải có nhà nước pháp quyền dân chủ. (4) nhất thiết phải thay đổi tổ chức và xây dựng đảng. Bức thư này mới chỉ đặt vấn đề, chưa nói được gì nhiều, nhưng không có cái
tai nào nghe, và người viết thư được hưởng quả đắng, ba người khác bị bắt giam chỉ vì đã đọc bản photo copy…
Sự việc nghiêm trọng mới đây nhất của tình trạng độc quyền chân lý và bóp
nghẹt tự do dân chủ là mọi ý kiến đúng đắn góp vào xây dựng / sửa đổi hiến pháp năm 2013 đã bị loại bỏ rất thô bạo, để thông qua rất hình thức (đúng ra phải nói là lừa dối) một hiến pháp sửa đổi về cơ bản giữ nguyên như cũ, cướp đi của đất nước cơ hội hòa bình cải cách thể chế độc đảng toàn trị hiện nay sang chế độ pháp quyền dân chủ. Việc sửa đổi hiến pháp như đã làm cuối cùng biến thành bước đi quan trọng để tiếp tục bảo vệ quyền lực của ĐCSVN bằng mọi giá, không đếm xỉa đến những đòi hỏi sống còn của đất nước.
Cho đến hôm nay, độc quyền chân lý vẫn đang quyết liệt tiếp tục đàn áp mọi tư duy “trái chiều”, nhân danh chống diễn biến hòa bình, bảo vệ chế độ, bảo vệ tổ quốc…
Đến đây có thể nói, hiểm họa đen hôm nay thực ra đã manh nha
ngay sau ngày đất nước độc lập thống nhất đầu tiên từ tư duy ý thức hệ và từ quá trình tha hóa
của quyền lực đảng.
Có thể rút ra kết luận: Tư duy ý thức hệ của đảng và sự tha hóa của quyền lực đến hôm nay đã biến chất trầm trọng ĐCSVN vốn là một đảng yêu nước, ra đời trước hết với lý tưởng giải phóng đất nước. ĐCSVN hôm nay tha hóa thành vấn đề nghiêm trọng của đất nước.
Trừ một thiểu số thoái hóa, phần lớn đảng viên, nhất là đảng viên các thế hệ kháng chiến, là những người yêu nước. Tất cả những đảng viên yêu nước - như tôi đã viết trong bài 1[7] – có món nợ lương tâm và có trách nhiệm chính trị phải trang trải với đất nước: Cất lên tiếng nói tại đại hội XII đòi vứt bỏ tư duy ý thức hệ, đòi phải thay đổi đảng để thay đổi chế độ, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước theo tinh thần bức thư ngày 09-08-1995 của đảng viên Võ Văn Kiệt.
Với tính cách nắm quyền toàn diện và tuyệt đối, ĐCSVN hôm nay
có trách nhiệm ràng buộc toàn diện và tuyệt đối trước đất nước thực hiện nhiệm vụ hòa bình cải cách chế đố toàn trị hiện nay chuyển sang chế độ pháp quyền dân chủ, và qua đó thay đổi chính bản thân mình trở thành một đảng khác đi với dân tộc, phấn đấu trở thành đảng của dân tộc, vì sự nghiệp cứu nước và chấn hưng đất nước. Đây phải là vấn đề nghị sự số 1 của đại hội XII. ĐCSVN hôm nay thực ra có mọi điều kiện cần và đủ để thực hiện thành công những nhiệm vụ trong vấn đề nghị sự số 1 này, đảng chỉ còn thiếu ý chí đoạn tuyệt với sự tha hóa của chính mình.
Hơn bao giờ hết, đại hội XII cần bắt đầu từ thẳng thắn nhìn lại toàn bộ tình hình của đất nước và của đảng trong 40 năm đất nước độc lập thống nhất đầu tiên, từ đó đảng tự giải phóng chính mình
khỏi kiếp nô lệ của ý thức hệ và của quyền lực, chỉ để giữ lại cho mình lòng yêu nước, cùng với cả nước khai phá con đường dân tộc dân chủ cứu nước và đưa đất nước đi
lên.
Mong rằng ĐCSVN hôm nay đừng mảy may ngó nghiêng
hay lấn cấn gì với ĐCS Trung Quốc, để dứt khoát đoạn tuyệt với cái gọi là tư duy ý thức hệ anh em trên mọi phương diện. Đơn giản vì ĐCSTQ hôm nay
chỉ giữ lại cho nó cái tên
khai sinh như đang có, còn bản thân nó hôm nay
là bộ máy quyền lực siêu lợi hại của siêu cường Trung Quốc đang lên trên
con đường bành trướng bá quyền. Quan hệ ngoại giao là chuyện khác.
Đồng thời phải nói sòng phẳng: ĐCSVN hôm nay cũng chỉ còn lại mỗi cái tên. Bản chất đảng hiện nay, những việc đảng đang làm, hiện thực đất nước của nền kinh tế thị trường còn nhiều mặt hoang dã và đậm nét chủ nghĩa tư bản thân hữu, tất cả những điều này nói lên
ĐCSVN hôm nay chẳng còn dính dáng gì đến chủ nghĩa Mác – Lênin hay tư tưởng Hồ Chí Minh. ĐCSVN
hôm nay chỉ còn lại là đảng của quyền lực độc quyền nắm quyền cai trị đất nước. Việc thay đổi đảng trở thành đảng của dân tộc đã trở thành đòi hỏi sống còn đối với chính bản thân ĐCSVN, nhằm chặn đứng con đường đảng trở thành lực lượng đối kháng quốc gia và lợi ích dân tộc, tránh cho đất nước thảm họa tự hủy diệt.
III. 2. Đối mặt với hiểm họa đen
Những khó khăn và thách thức đất nước hiện tại đang phải đối mặt trên mọi phương diện đối nội và đối ngoại không thể nói là nhỏ hoặc dễ giải quyết. Song hiểm họa đen về nhiều mặt có thể không đến từ những khó khăn và
thách thức này, mà trước hết có thể lại đến từ những câu hỏi:
- Nhân dân này, dân tộc này lựa chọn gì trước những vấn đề đang đặt ra cho đất nước hôm nay?
- ĐCSVN với tính cách là lực lượng chính trị lớn nhất đang nắm quyền cai trị đất nước (không còn là lực lượng lãnh đạo nữa) lựa chọn gì? Lựa chọn đất nước hay chính bản thân mình?
- Nói như thế chẳng lẽ hiểm họa đen chủ yếu đến từ phía ta, nghĩa là từ phía nhân dân này? Từ đảng này?
- Đúng vậy với nghĩa: Nếu ta nhận biết được hiểm họa đen, thì có thể vô hiệu hóa nó, hoặc làm thất bại nó; đối phương dù có ác hiểm đến thế nào chăng nữa cũng không phải là bất khả kháng. Nhưng nếu ta mù quáng chẳng nhìn thấy gì, hoặc nếu ta cường điệu nó hay đánh giá
thấp nó thì đúng là hiểm họa đen.
Đơn giản vì nếu ai hiểu Trung Quốc, chắc chắn đều thấy không thể quỳ xuống xin Trung Quốc rủ lòng thương lựa chọn kịch bản nhẹ tay đối với nước ta.
Trong phát triển kinh tế cũng thế, chẳng có gì cho không
cả!
Vậy phải tập trung vào việc ta chống hiểm họa đen như thế nào?
Để làm rõ vấn đề, xin bàn luận thêm về Trung Quốc.
Như đã nói
trong phần
I. 2. Bàn về siêu cường Trung Quốc, hiện nay Trung Quốc đã sẵn sàng trong tay các kịch bản từ A – Z trong
đối xử với Việt Nam. Hiện nay họ đang thực hiện kịch bản A. Khi cần thiết họ có mọi điều kiện cần và đủ để chuyển sang kịch bản khác họ muốn. Kịch bản Z là tồi tệ nhất, tổng hợp mọi phương tiện
từ những thủ đoạn bẩn thỉu đến chiến tranh. Thật là khó chịu một khi phải đối mặt với một đối tượng giữ thế chủ động như vậy (trong đó có phần nào do lỗi bị động từ trước đến nay của phía ta).
Sự thật là ngay
trong kịch bản
A hiện nay, Trung Quốc có thể dễ dàng làm kinh tế nước ta tổn thất 10 – 15% GDP như nhiều chuyên gia
đã tính
toán. Trong kịch bản khác, Trung Quốc có thể đánh
thắng ta trong
một cuộc hay một số cuộc chiến tranh có
giới hạn. Trong kịch bản Z Trung Quốc có thể hủy hoại tới 1/3 GDP của nước ta hoặc hơn nữa, đánh chiếm
thêm các đảo của ta, thậm chí có thể đánh chiếm kiểm soát một phần lãnh thổ ta trong một thời gian nhất định…
Vì ta không thể ra lệnh được
cho Trung Quốc chỉ được phép dùng kịch bản gì và dùng như thế nào, cho nên lựa
chọn sự đáp trả của phía ta mới là quyết định. Lựa chọn sự đáp trả đúng thì thắng, lựa chọn sai thì là
hiểm họa.
Sự lựa chọn tại Thành Đô
là sự lựa chọn sai, đã và
đang đem lại hiểm họa hôm nay.
Trong tiểu thuyết “Lũ” (bản thảo 2, tập II, tháng
08-2012[8]), những kinh nghiệm có được trong những năm phải đối phó với cuộc chiến tranh
17-02-1979 và chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc khiến tôi đã phải tính
đến kịch bản Z này.
Song nước ta xưa nay có bao giờ chịu khuất phục một cuộc
xâm lược như thế? Trong thế giới ngày nay lại càng không thể như thế. Trong thế giới đương đại, nước ta mới đây thôi đã 3 lần chiến thắng 3 kẻ xâm lược lớn với
sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ.
Giả thiết Trung Quốc áp đặt lên nước ta kịch bản Z, nhân dân ta có sự lựa chọn nào hơn là trong
tình huống
“bị lôi ra làm
thịt” như thế, thì phải tìm cách tự giải phóng đất nước thoát
khỏi kiếp chư hầu, đồng thời giành lại cho chính
mình quyền làm chủ đất nước đã
bị trì hoãn 4
thập kỷ nay? Tôi có
lòng tin vững chắc trong tình huống xảy ra
kịch bản Z, nhân
dân ta sẽ buộc phải lựa chọn như vậy và nhất định sẽ thắng cả gói: Nước giữ được độc lập, dân giành lại được quyền làm chủ đất nước đã bị trì
hoãn 4 thập kỷ.
Nếu nước ta bị Trung Quốc áp đặt một kịch bản Z như thế, nhân dân
ta sẽ phải một lần nữa hy sinh xương máu
ghê gớm lắm, phải cố tránh. Trong vòng một nửa thế kỷ đã 4 cuộc chiến tranh lớn
đẫm máu là quá
nhiều đối với đất nước ta! Nhưng biết làm thế nào? Rồi bao nhiêu mổ hôi nước mắt, và
cả máu nữa, mới xây dựng nên được những gì đất nước có hôm nay! Càng tha thiết với hòa bình,
quý trọng sinh mạng và công sức của đất nước,
càng phải có ý chí quyết liệt đấu tranh bảo vệ, huy động sự hậu thuẫn của cả thế giới để quyết bảo vệ. Bởi vì không thể quỳ gối mà gìn giữ được! Hòa bình không thể đến được bằng van xin.
Nhưng một khi cây muốn lặng, nhưng gió chẳng đừng!? Vâng, một khi nước ta bị Trung Quốc cố ý áp đặt một kịch
bản Z như thế, cho dù cho
đảng lựa chọn đối phó thế nào, chắc chắn dân tộc ta sớm hoặc muộn sẽ chỉ có sự lựa chọn duy nhất nói trên của chính mình mà thôi, sẽ quyết chấp nhận sự lựa chọn duy nhất này, như đã từng bao nhiêu
lần dân tộc ta phải lựa chọn như thế trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước.
Đồng thời tôi cho rằng: Một khi phải đương đầu với một kịch bản Z như thế, trong sự lựa chọn nói trên của
nhân dân có lẽ sẽ không thể có một chỗ đứng nào cho ĐCSVN như đảng đang là, vì lòng tin của nhân dân
vào
đảng như đang là không còn nữa. ĐCSVN như đang là cũng
không thể lựa
chọn như nhân dân lựa chọn, càng
không thể có phẩm chất và năng lực lãnh đạo
nhân dân thực hiện sự lựa chọn ấy, bởi vì phẩm chất và năng lực của
ĐCSVN như đang là không còn đáp ứng được nhiệm vụ quyết liệt này nữa. Trong tình hình như vậy, ĐCSVN như đang là sẽ không còn đứng và sẽ không thể đứng được trong hàng ngũ cứu nước của dân tộc.
Câu chuyện sẽ hoàn toàn
khác,
nếu ĐCSVN như đang là quyết lột xác để trở thành đảng của dân tộc và để cùng chung
với nhân dân sự lựa chọn như thế. ĐCSVN chủ động tiến hành cải cách hòa
bình đễ xóa bỏ chế độ toàn trị, thiết lập chế độ pháp quyền dân chủ chính là
con đường
đảng như đang là có thể hoàn toàn thay đổi chính bản thân mình,
để trở thành đảng cùng đi với cả dân tộc. ĐCSVN như đang là chủ động tiến hành cải cách hòa bình xóa bỏ chế độ toàn trị, để tập hợp toàn dân tộc thành một khối thống nhất rong một thể chế pháp quyền dân chủ, sẵn sàng đương đầu với bất kỳ
kịch bản nào của Trung Quốc – đấy còn là con
đường ngăn chặn hay làm thất bại
kịch bản xấu nhất mà Trung
Quốc muốn ra tay.
ĐCSVN như đang là,
nếu chủ động hòa bình
cải cách xóa bỏ chế độ toàn trị để tập hợp toàn dân tộc trong một thể chế pháp quyền dân chủ vì sự nghiệp cứu nước và chấn hưng đất nước,
chắc chắn nước ta sẽ có sức mạnh của chính
mình và đồng thời
sẽ tranh thủ được sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ, kịch bản nào của Trung
Quốc đưa ra cũng sẽ thất bại, đất nước ta sẽ có hòa bình và từ đó mới tạo ra
được hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc.
Dĩ bất biến đối với mọi
cái “biến” Trung Quốc muốn áp đặt với nước ta chính là điểm
này!
Tâp hợp toàn dân tộc trong một thể chế pháp quyền dân chủ vì sự nghiệp cứu nước và chấn hưng đất nước – chính cái dĩ bất biến này mới cho phép nước ta một mặt bất di bất dịch gìn được
giữ độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, mặt khác mới có điều kiện thực hiện các giải pháp sách
lược. Trong quan hệ ngoại giao, làm sao mà thiếu được các giải pháp sách lược, nhất là đối với Trung Quốc? Song chỉ riêng
lịch sử quan hệ Việt – Trung đã có đủ các bài học cho nước ta cần học: bất kỳ
giải pháp sách
lược nào với Trung Quốc mà nước ta không có cái dĩ bất biến này làm nền tảng, nước ta đều thua, và không hiếm
trường hợp mất luôn cả chì lẫn chài – như đã trình bầy trong câu chuyện Hội
nghị Thành Đô.
Xin nhắc lại: Tiến hành giải pháp Thành Đô, trong
thâm tâm những người lãnh đạo nước ta hồi ấy là muốn thực
hiện một giải pháp sách
lược lớn – hòa hiếu với Trung Quốc. Nhưng vì không có cái dĩ bất biến này làm chỗ dựa, nên cuối cùng nước ta chỉ nhận
được
4 tốt và 16 chữ!
Hiểm họa đen đang đến, ở chỗ cho đến hôm nay đảng như đang là và đội ngũ lãnh đạo vẫn không dám nhìn lại 40 năm đầy sai lầm của mình, vẫn còn lo mất quyền lực hơn lo mất nước, vẫn còn cố tìm cách trì hoãn hay thỏa hiệp vì khiếp nhược, trong khi đó thời gian không
chờ đợi và phía
Trung Quốc đã sẵn sàng mọi kịch bản khác. Những
vấn đề lịch sử để lại rất lớn và phức tạp, song chí
ít ĐCSVN nhất thiết phải
đứng trên quan
điểm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc đánh giá lại toàn bộ chặng đường 40 năm đất nước độc lập thống nhất đầu tiên để có ý chí thay đổi
đảng một cách triệt để.
Hiểm họa đen thực sự đang tiến đến, bởi lẽ cái giàn
khoan HD 981 chưa đủ lớn, chưa đủ nặng để đặt ra cho Hội
nghị Trung ương 9 sự lựa chọn sẽ phải được bàn đến tại đại hội XII sắp tới: Cứu
nước? hay cứu chế độ và cứu đảng như đang là?
Cho đến giờ phút
này đối với cả nước đảng như đang là vẫn tiếp tục vừa lừa mỵ dân, vừa đàn áp lẽ phải, trấn an dân,
kêu gọi kiên định chung chung.., trong khi đó đội ngũ lãnh đạo vẫn trống đánh xuôi
kèn thổi ngược.
Hiểm họa đen cũng
có thể xuất
hiện dưới dạng thường trực không mời mà đến,
vì bất kể một yếu kém nào của chế độ đương quyền trong một bối cảnh nào đó, với sự lũng đoạn
của quyền lực mềm – ví dụ như dưới dạng kịch bản tạo ra phản ứng bầy đàn cướp phá khoảng
800 xí nghiệp có FDI ngày 13 và 14-05-2014 ở quy mô không kiểm soát được… Những
chuyện phản ứng bầy đàn như thế có thể xảy ra bất kỳ lúc nào trong thị trường
kinh tế,
trong thị trường tài chính tiền tệ, trong tình hình khiếu kiện đất đai
của nông dân,
trong trấn áp biểu tình, trấn áp chính trị, trong một thiên tai… Bởi vì lúc này đất nước có không ít những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội…
rất nhậy cảm, mà nguyên
nhân
gốc thường là những sai trái và yếu kém chế độ và
của người trong hệ thống chính trị. Bưng bít thông tin, không công khai minh bạch, các hoạt động lừa bịp của dư luận viên, các
biện pháp trấn áp trên
báo
chí và bằng quyền lực… nhân danh giữ ổn định, vân vân.., tất cả những thứ này
chỉ là đổ dầu vào lửa, đồng thời tạo đất thánh cho
hoạt động của quyền lực mềm Trung Quốc. Chỉ có một con đường: Phải dựa hẳn vào dân, vào dân tộc, dấy lên sức mạnh từ dân để giải quyết tất cả, bắt đầu từ phát triển xã hội dân sự để nuôi dưỡng tinh thần dân tộc và phát huy dân chủ – vì sự nghiệp cứu nước và chấn hưng đất nước.
Hiểm họa đen thực sự không thể tránh nổi, nếu chế độ toàn trị hiện nay theo
quy luật mâu thuẫn giữa cai trị và
bị cai trị đến một lúc nào đó
sẽ tức nước vỡ bờ và ắt phải sụp đổ, đất nước rơi
vào tự hủy diệt của hỗn loạn nồi da xáo thịt.
Hiểm họa đen luôn
tiềm tàng và không thể đảo ngược được, chừng nào đảng như đang là trốn tránh nhiệm vụ tạo ra cho đất nước cái dĩ bất biến nói trên không thể trì hoãn
được nữa.
Cần thảo luận rộng rãi trong đảng để đi tới kết luận và hành động.
Lời kết: Phải cắt bỏ cái thòng lọng đang siết dần
Cách đây vài ngày cái dàn khoan HD 981 đã
rời khỏi chỗ nó đứng hơn 2 tháng
trong vùng biển của ta. Ý kiến
nói ra nói vào trên thế giới nhiều chiều lắm.
Trong rừng các ý kiến ấy, đáng chú ý nhất là người Trung Quốc nhắc nhở chúng ta: Người Việt Nam đừng lấy trứng chọi đá, phải làm quen với việc cái giàn khoan này rút ra, cái khác sẽ được đưa vào, tùy theo công việc đòi hỏi mà!..
Ý kiến khác đánh
giá:
Việc rời giàn khoan HD 981 đi chỗ khác tạm thời làm xẹp được sự căng thẳng trong dư luận quốc tế; mặt khác bước đi này tiếp sức cho phái Việt Nam chủ hòa và đầu hàng, lôi kéo phái Việt Nam này
vào giải pháp song phương, thuận cho phương thức “gác tranh chấp cùng khai thác”.
…Dù sao, cái giàn
khoan phải di chuyển đi nơi khác như thế cho thấy không phải Trung Quốc muốn làm gì cũng được!.. Sự phản đối quyết liệt của Việt Nam và dư luận thế giới đã buộc Trung Quốc phải tính đến.
…
…
…
Nhìn lại, mười năm đầu sau
30-04-1975 Trung Quốc đã thành công đáng kể trong việc vô hiệu hóa gần như hoàn
toàn ảnh hưởng của cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt
Nam trong khu vực, đồng
thời giành được vị thế tạm thời lấp chỗ trống của Mỹ. Sau Hội nghị Thành Đô 1990, Trung Quốc thực sự đã đặt được cái thòng lọng ý thức hệ lên cổ đất nước
ta. 25 năm qua Trung Quốc đã từng bước và bằng mọi thủ đoạn chính tri, kinh tế,
quân sự siết dần cái thòng lọng này, và hôm nay đạt được một Việt Nam lệ thuộc
trầm trọng về kinh tế, đối nội bị lũng đoạn, đối ngoại phải “leo dây”,
ngoài
việc Trung Quốc đã chiếm thêm được một số đất đai và một số diện tích biển đảo.
Những gì cái giàn khoan HD 981 đã lộ thiên ra được ở Việt Nam hai tháng qua và sự việc cái đường lưỡi
bò 9 vạch được nối thêm một vạch nữa là những cái “tests” giúp Trung Quốc khẳng định được Việt Nam là khâu yếu nhất, cần đột phá cho giai đoạn mới của chiến
lược bá chiếm Biển Đông, lúc
tiến lúc thoái
nhưng sẽ kiên định lấn tiếp.
Hiển nhiên, những năm tháng ngày càng hiểm nguy cho đất nước ta đang ở phía trước!
Bài toán 1: Chủ hòa, thôi kiện ra quốc tế, chấp nhận đàm phán
song phương cho vấn đề Biển Đông, gác
tranh chấp cùng khai thác, có thể tạm thời tránh được chiến
tranh, bảo toàn được tài sản riêng và các đặc quyền của quyền lực; làm thể tuy
sẽ phải mặt dầy mày dạn thêm với dân và bạn bè, nhưng quyền lực có thể sống thêm một thời gian nữa, đất nước sẽ bị cô lập thêm nữa cùng đành,
chấp nhận cái thòng lọng ở trên cổ đất nước siết thêm một nấc nữa nhưng quyền lực vẫn còn thở tiếp được… Song bia miệng chắc sẽ đời đời phỉ báng, tâm linh đất nước của quá
khứ đằng đẵng đau thương chiến tranh chắc sẽ nguyền rủa trời chu đất diệt chủ hòa theo kiểu đầu hàng như vậy… Thật ra chủ hòa như thế là phương án chấp nhận
chết dần từng nấc về thể xác, nhưng chết ngay và chết hẳn về nhân cách một quốc gia, một dân tộc. Cho dù có
cái
chủ hòa này, nhân dân ta chắc chắn sớm hay muộn sẽ không bao
giờ chấp nhận bài toán
này. Chấp nhận như thế,
đầu tiên sẽ phải tính đến ngay sự phản kháng quyết liệt từ dân. Đàn áp
thế nào đi nữa cũng không
thể giập tắt được sự phản kháng của nhân dân, của dân tộc.
Chấp nhận chủ hòa như thế, dù có dùng
đến cả nội chiến để đàn áp nhân dân, trước sau và cuối cùng vẫn sẽ là cái chết nhục nhã của quyền
lực.
Bài toán 2: Đấu tranh: Cắt đứt cái thòng lọng đang siết dần - Cùng với cả dân tộc và toàn thế giới tiến bộ bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia và luật pháp quốc tế. Trước hết bằng cách cùng với nhân dân cả nước nhất quyết cắt cái thòng lọng ý thức hệ và sự nô lệ của quyền lực cũng như sự cám dỗ của mọi lợi ích tội lỗi khác, trả lại quyền làm chủ đất nước cho nhân dân để tạo ra cái dĩ bất biến ứng vạn biến. Dân tộc sẽ thắng, đất sẽ nước thắng, các nước trong khu vực cùng thắng – cũng có nghĩa
là luật pháp quốc tế sẽ thắng; thậm chí nếu có ý chí quyết liệt thì có thể bằng cái dĩ bất biến phải có này thắng được bành trướng bá quyền Trung Quốc trong đấu tranh hòa bình,
nhờ đó tránh được chiến tranh… Nhưng lựa chọn bài toán 2 chế độ toàn trị cùng với mọi quyền lực và đặc quyền của nó sẽ không còn, ĐCSVN
cũng có thể không còn như đảng đang là nữa mà phải trở thành thành một đảng khác, hoặc là không còn nữa.
Bài toán 3: “?”
– Sự thật là quyền lực của chế độ toàn trị và lợi ích quốc gia không thể dung hòa được với nhau để cùng tồn tại, nên hình như không có bài toán
này.
Để đại hội XII tính toán các bài toán và sự lựa chọn, chỉ xin lưu ý vài điều:
- Trung Quốc siêu cường đang lên mạnh, ác, hiểm độc, nhưng không phải là bất khả kháng như suy nghĩ của bóng vía yếu. Cái yếu nhất của Trung Quốc không phải là sự phi nghĩa, vì
bành trướng bá quyền Trung Quốc đâu có quan tâm đến đạo nghĩa, nên hầu như nó không có nỗi sợ nào về đạo lý và lẽ phải. Nhưng như đỉa sợ vôi, Trung Quốc rất sợ dân chủ. Một Việt Nam dân chủ đúng nghĩa, sẽ là gương xấu cho khát vọng cháy bỏng về dân chủ cho các vùng miền khác nhau ở Trung Quốc – đây là cái gót chân Achile Trung Quốc đang giấu. Đập chết một Việt Nam dân chủ như vậy ngày nay hầu như không thể, vì sức mạnh nội tại của nó sẽ là bất khả kháng đã đành, và vì thế giới ngày nay không
còn lạc hậu như cách đây 2 thế kỷ. Song trong trường hợp này cái gót chân
Achile của Trung Quốc sẽ làm cho nó đứng ngồi không yên. Ngoài ra, nhìn toàn diện cả bàn cờ thế giới, bành trướng bá quyền Trung Quốc vẫn đang là kẻ yếu. (Nhiều người đã nói đúng: Trung Quốc mạnh chỉ vì ta quỳ xuống!)
- Đi với ai? Liên minh với ai để đối phó với cái người láng giềng khổng lồ không biết điều này?
Xin trả lời:
§ Nước ta như hiện nay chẳng ai muốn liên minh cả, có nài xin cũng
không được. Nước ta đã có khá nhiều cam kết của các đối tác chiến lược hay toàn diện rồi mà hiện nay vẫn tay trắng, chính là vì lẽ này. Các đối tác này đang
kiên nhẫn chờ đợi.
§ Chẳng lẽ Việt Nam đang là một thứ con bệnh?
§ Nếu dân tộc ta, nước ta còn chưa đủ bản lĩnh sống vì chính ta,
thì ai dám liên minh với ta? Xin hãy tự hỏi mình: Bản thân chúng ta có
dám kết thân với kẻ ba, bốn mặt, hư, ăn bám và èo uột không?
Một khi ta có bản lĩnh dám sống vì một đất nước của dân tộc và dân chủ, ta sẽ có hậu thuẫn của trào lưu dân tộc và dân chủ trên cả thế giới này, sẽ biết liên minh như thế nào và liên minh với ai, từ đó sẽ tạo ra được liên minh. Trước sau, Việt Nam phải sớm tự thay đổi chế độ chính trị hiện nay của nước mình để có mọi điều kiện xây dựng được cho mình các mối quan hệ liên minh vững chắc dưới các hình thức và trong mọi lĩnh vực (kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, văn hóa…), ở mọi tầng nấc quốc tế và khu vực, để thay đổi triệt để nền kinh tế của nước ta, và để gắn kết được sự phát triển của nước ta với lợi ích phát triển chung của cộng đồng các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam nhất thiết phải làm như thế để tạo ra một liên kết bền vững với cả thế giới mà an ninh và sự nghiệp phát triển của nước ta đòi hỏi. Điều này trước hết có nghĩa Việt Nam phải trở thành một nước có những phẩm chất mới để có thể tạo ra cho mình một liên kết như thế với nhân loại. Dù để chậm mất 40 năm rồi, nhưng bây giờ vẫn là lúc dân tộc Việt Nam ta phải đề ra cho mình lẽ sống này!
Trong bối cảnh cục diện quốc tế đa cực rất phức tạp và giành giật nhau rất quyết liệt hiện nay, cái lối nghĩ “Việt Nam không bao giờ liên minh với ai để chống nước thứ ba” đã trở nên quá sơ lược, lỗi thời và tự trói tay mình. Thực ra lối suy nghĩ này hàm
chứa (1)sự mơ hồ chết người về cái thế giới chúng ta đang sống, (2)sự nhu nhược không dám tự thay đổi bản thân mình để thích nghi và sống được trong cái thế giới hiện tại này, và (3)sự van xin trá hình
lòng thương từ Trung Quốc.
Ngày nay Trung Quốc trở thành vấn đề riêng rất nghiêm trọng của Việt Nam, đồng thời cũng là vấn đề chung nghiêm trọng của cả thế giới, Việt Nam phải tự thay đổi chính mình để tự giải quyết vấn đề của mình và cùng
chung tay giải quyết vấn đề của cả thế giới.
- Có cái dĩ bất biến đất nước đang đòi hỏi, sẽ có thể ứng vạn biến. Nước ta muốn sống có hòa bình, hữu nghị và hợp tác được với Trung Quốc, nhất thiết phải sống như thế. Phải gạt sang một bên mọi di sản tiêu cực của quá khứ và suy nghĩ cảm tính, để có trí tuệ và ý chí cần thiết xây dựng nước ta trở thành một đối tác chiến lược của Trung Quốc với đúng nghĩa Trung
Quốc phải nhìn nhận nước ta là đối tác chiến lược, chứ không phải là một chư hầu. Vấn đề đặt ra cho nước ta là: Ngoài “quyền lực mềm” luôn luôn có sẵn trong “thực đơn” Trung Quốc đưa ra, không có sự nhượng bộ hay quà biếu nào trong mối quan hệ này, mà chỉ có sản phẩm của trí tuệ và ý chí độc lập tự do nước ta cần tạo ra để xây dựng những mối quan hệ bình đẳng, cùng có lợi và thuận với lợi ích chung của cộng đồng khu vực và quốc tế. Nước ta rất cần một Trung Quốc của những mối quan hệ như thế. Song cũng có thể nói nước ta có những điều kiện làm cho Trung Quốc cần một Việt Nam không phải là thù địch của Trung Quốc, là cầu nối cho mọi liên hệ, là trung tâm của hòa giải trong khu vực – và một ngày nào đó Việt Nam trở thành một trung tâm phát triển mới trong khu vực cùng có lợi cho mọi bên hữu quan. Chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung Quốc một cách chủ động là phải dấn thân tự thay đổi chính mình như thế để có trí tuệ, bản lĩnh, nghị lực, thực lực và thế đứng tự mở ra được con đường làm cho mình trở thành một đối tác như thế mà Trung Quốc cũng phải cần đến.
Sự thật một trăm lần rõ phải bắt đầu từ dứt khoát cắt đi cái thòng lọng ý thức hệ đang siết trên cổ đất nước.
♦
Thiết tha mong từng đảng viên suy nghĩ.
Hiểm họa đen thực sự đang đến. Phải quyết liệt đối mặt với nó, bằng dấn thân tự thay đổi chính mình trước tiên. Nhìn được ra vấn đề, dựa hẳn vào dân tộc, sẽ định liệu được nhiệm vụ và những bước đi thích hợp.
Để có một điểm tựa nào đó cho so
sánh, có thể nói: Một phần tư thế kỷ vừa qua từ Hội nghị Thành Đô mọi sai lầm chết người ở nước ta đều xuất phát từ lỗi của hệ thống; cũng một phần tư thế kỷ vừa qua, mọi thành công ngoạn mục của nước Đức thống nhất đều bắt nguồn từ hệ thống đúng đắn./.
Nguyễn Trung
Hà Nội tháng 7-2014
———–
[1] Bài 1: Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CayDangHonMyChauTrongThuy.htm
[2] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Việt nam trong thế giới thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”
http://vietsciences.free.fr/timhieu/khoahoc/kinhte/khunghoangkinhteVN2008.htm
[3]Tham khảo thêm: Peter W. Navarro,
Greg Autry “Death by China: Confronting the Dragon – A Global Call to Action”.
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_BonTotBonKhong.htm
Bốn không được: (1) không
được
đánh giá thấp quyết tâm và sức mạnh của Trung Quốc, (2) không được dù tư liệu
lịch sử làm dư luận thế giới hiểu sai, (3)
không được quốc tế hóa vấn đề Biển
Đông, (4) không được phá bỏ quan hệ hữu nghị với Trung Quốc đã xây dựng lại
được 20 năm.
[6] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, bộ 3 các loạt bài “Viễn tưởng”, bài 3 “Đảng Cộng Sản Việt Nam phải giành lại vai trò lãnh đạo bị đánh mất – hay là
Hoang tưởng?”
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_VienTuong_3.htm#_ednref11
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_CayDangHonMyChauTrongThuy.htm
[8] Nguyễn Trung, tiểu thuyết “Lũ”, bản thảo 2, tập II,
http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/Lu_I_15.pdf
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment