Việt Nam sẽ đi về đâu?
Gs Nguyễn Văn
Tuấn/FB Nguyen Tuan
Đó là một câu hỏi
ám ảnh rất nhiều người quan tâm đến VN, kể cả tôi. Mặc dù một cách chính thức,
VN theo đuổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa (XHCN), nhưng hình như chẳng ai biết
hình thù cái XHCN đó ra sao, vì nơi khai sinh ra cái chủ nghĩa đó đã khai tử
trước khi nó hình thành.
Cũng chẳng ai biết
khi nào thì đạt được XHCN, vì ngay cả ngài tổng bí thư từng nói “Đến hết thế kỷ
này không biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”. Nói tóm
lại, chúng ta chẳng biết VN sẽ đi về đâu.
Nhìn qua con số thu nhập bình quân (GDP/capita) sẽ thấy VN ta đang ở đâu. Theo số liệu 2013, thu nhập bình quân của VN là 1901 USD, bằng khoảng 1/3 của Thái Lan (5779 USD). So với Mã Lai (11513 USD), Singapore (55182 USD) và Hàn Quốc (24400 USD) thì VN càng thê thảm hơn
nữa. Có người tính toán bao nhiêu năm sau VN mới bằng Singapore, nhưng tôi nghĩ những tính toán như thế tuy rất thú vị nhưng chẳng có ý nghĩa gì khi khoảng cách quá xa. Tất cả các nước vừa kể đều theo Mĩ, chẳng có ai theo Tàu và chẳng ai muốn tiến lên XHCN cả.
Nhưng VN thì xem cái định hướng XHCN là một mục tiêu, một mục tiêu rất có thể là sai lầm. Giáo sư Đặng Phong (1939-2010) một chuyên gia kinh tế có uy tín từng nói về XHCN như sau: “Xã hội chủ nghĩa là sự vớt vát thuộc quá khứ mà mình không thể chấp nhận nó nữa, nhưng mình không thể thẳng thắn tuyên bố giã từ nó cho nên dùng một chữ rất mơ hồ chung chung như vậy. Bây giờ mà mải mê đi tìm xã hội chủ nghĩa thì không bao giờ tìm thấy giá trị thật của nó đâu. Cái nội dung thật của nó là cái gì thì không tìm thấy đâu. Nó là một món nợ của lịch sử. Người Việt Nam chưa bao giờ xây dựng chủ nghĩa xã hội như Liên Xô, nhưng Việt Nam đã đi theo con đường đó mà ngày nay chưa ai dám thẳng thắn tuyên bố rằng con đường đó là sai lầm.” Nói cách khác, XHCN là một sai lầm lịch sử, nhưng VN không dám nói đó là một sai lầm!
Thế nhưng người ta chẳng những không dám nói là sai lầm, mà vẫn phải nói đó là một mục tiêu cao cả! Người ta vẫn phải nói về mục tiêu XHCN, nhưng chính người nói có lẽ cũng không tin những gì mình nói. Vì nhiệm vụ và đồng lương nên phải nói, nhưng trong thâm tâm thì họ chắc gì đã tin. Một mặt, họ chỉ trích thế giới phương Tây, thậm chí xem Mĩ là kẻ thù, nhưng trong thực tế thì họ thích đi máy bay Airbus và Boeing, và thích gửi con cái sang Mĩ và các nước phương Tây học!
Đó chính là một “hội chứng” cực kì phổ biến trong xã hội ngày nay: “nói vậy mà không phải vậy”. Người ta làm nhưng không tin vào việc mình làm, nói nhưng không tin những gì mình nói. Họ dùng ngôn từ hoa mĩ để che đậy sự thật. Đó cũng là một cách tự bảo vệ mình, phòng ngừa những bất trắc, những soi mói lời ăn tiếng nói trong một thể chế chuyên chế.
Nhưng hội chứng trên còn lan tràn sang mối liên hệ giữa người dân và lãnh đạo. Lãnh đạo cứ đọc diễn văn, vẫn hô hào năm này sang năm khác về con đường XHCN, học tập tấm gương của ai đó, về dân chủ tự do, về chí công vô tư, về chống tham nhũng, v.v. Lãnh đạo cứ nói, người dân vẫn không tin vì họ cho rằng “nói vậy mà không phải vậy”. Thậm chí, người dân cũng không chắc các vị ấy tin vào những gì họ nói, vậy thì tại sao mình phải tin. Người cầm quyền thừa biết rằng người dân đang rất khổ và bất bình, nhưng họ cứ lờ đi và phải nói những gì họ phải nói. Thế là hai bên lệch pha, chẳng ai tin ai. Trong một xã hội như thế thì quả là nguy hiểm. Chính quyền cứ nói, nền kinh tế vận hành theo hướng của nó.
Có lẽ VN sẽ chẳng đi về đâu, mà vẫn bồng bềnh trong tình trạng hiện nay. Bây giờ thì chắc nhiều người đã nhận ra một điều hiển nhiên từ lâu: Việt Nam không có cải cách thật sự, không có "đổi mới" thật sự. Tất cả thiết chế chính trị của chế độ vẫn như xưa, không có gì thay đổi. Ngôn ngữ của lãnh đạo vẫn như thời bao cấp, có khác chăng là có màu mè hơn một chút. Có thể có vài thay đổi bề ngoài, nhưng bên trong thì vẫn y chang từ thời bao cấp. Họ vẫn “nói vậy mà không phải vậy”, đến nỗi Thủ tướng Đài Loan nói thẳng rằng "Chính phủ Việt Nam thiếu thành thật". Để người ta nói như thế vào mặt thì còn mặt mũi nào mà nhìn thế giới. Có lẽ VN không có khả năng tự đổi mới, nên đất nước sẽ chẳng đi về đâu cả, và khoảng cách giữa VN và các nước trong vùng càng ngày càng xa hơn.
Nhìn qua con số thu nhập bình quân (GDP/capita) sẽ thấy VN ta đang ở đâu. Theo số liệu 2013, thu nhập bình quân của VN là 1901 USD, bằng khoảng 1/3 của Thái Lan (5779 USD). So với Mã Lai (11513 USD), Singapore (55182 USD) và Hàn Quốc (24400 USD) thì VN càng thê thảm hơn
nữa. Có người tính toán bao nhiêu năm sau VN mới bằng Singapore, nhưng tôi nghĩ những tính toán như thế tuy rất thú vị nhưng chẳng có ý nghĩa gì khi khoảng cách quá xa. Tất cả các nước vừa kể đều theo Mĩ, chẳng có ai theo Tàu và chẳng ai muốn tiến lên XHCN cả.
Nhưng VN thì xem cái định hướng XHCN là một mục tiêu, một mục tiêu rất có thể là sai lầm. Giáo sư Đặng Phong (1939-2010) một chuyên gia kinh tế có uy tín từng nói về XHCN như sau: “Xã hội chủ nghĩa là sự vớt vát thuộc quá khứ mà mình không thể chấp nhận nó nữa, nhưng mình không thể thẳng thắn tuyên bố giã từ nó cho nên dùng một chữ rất mơ hồ chung chung như vậy. Bây giờ mà mải mê đi tìm xã hội chủ nghĩa thì không bao giờ tìm thấy giá trị thật của nó đâu. Cái nội dung thật của nó là cái gì thì không tìm thấy đâu. Nó là một món nợ của lịch sử. Người Việt Nam chưa bao giờ xây dựng chủ nghĩa xã hội như Liên Xô, nhưng Việt Nam đã đi theo con đường đó mà ngày nay chưa ai dám thẳng thắn tuyên bố rằng con đường đó là sai lầm.” Nói cách khác, XHCN là một sai lầm lịch sử, nhưng VN không dám nói đó là một sai lầm!
Thế nhưng người ta chẳng những không dám nói là sai lầm, mà vẫn phải nói đó là một mục tiêu cao cả! Người ta vẫn phải nói về mục tiêu XHCN, nhưng chính người nói có lẽ cũng không tin những gì mình nói. Vì nhiệm vụ và đồng lương nên phải nói, nhưng trong thâm tâm thì họ chắc gì đã tin. Một mặt, họ chỉ trích thế giới phương Tây, thậm chí xem Mĩ là kẻ thù, nhưng trong thực tế thì họ thích đi máy bay Airbus và Boeing, và thích gửi con cái sang Mĩ và các nước phương Tây học!
Đó chính là một “hội chứng” cực kì phổ biến trong xã hội ngày nay: “nói vậy mà không phải vậy”. Người ta làm nhưng không tin vào việc mình làm, nói nhưng không tin những gì mình nói. Họ dùng ngôn từ hoa mĩ để che đậy sự thật. Đó cũng là một cách tự bảo vệ mình, phòng ngừa những bất trắc, những soi mói lời ăn tiếng nói trong một thể chế chuyên chế.
Nhưng hội chứng trên còn lan tràn sang mối liên hệ giữa người dân và lãnh đạo. Lãnh đạo cứ đọc diễn văn, vẫn hô hào năm này sang năm khác về con đường XHCN, học tập tấm gương của ai đó, về dân chủ tự do, về chí công vô tư, về chống tham nhũng, v.v. Lãnh đạo cứ nói, người dân vẫn không tin vì họ cho rằng “nói vậy mà không phải vậy”. Thậm chí, người dân cũng không chắc các vị ấy tin vào những gì họ nói, vậy thì tại sao mình phải tin. Người cầm quyền thừa biết rằng người dân đang rất khổ và bất bình, nhưng họ cứ lờ đi và phải nói những gì họ phải nói. Thế là hai bên lệch pha, chẳng ai tin ai. Trong một xã hội như thế thì quả là nguy hiểm. Chính quyền cứ nói, nền kinh tế vận hành theo hướng của nó.
Có lẽ VN sẽ chẳng đi về đâu, mà vẫn bồng bềnh trong tình trạng hiện nay. Bây giờ thì chắc nhiều người đã nhận ra một điều hiển nhiên từ lâu: Việt Nam không có cải cách thật sự, không có "đổi mới" thật sự. Tất cả thiết chế chính trị của chế độ vẫn như xưa, không có gì thay đổi. Ngôn ngữ của lãnh đạo vẫn như thời bao cấp, có khác chăng là có màu mè hơn một chút. Có thể có vài thay đổi bề ngoài, nhưng bên trong thì vẫn y chang từ thời bao cấp. Họ vẫn “nói vậy mà không phải vậy”, đến nỗi Thủ tướng Đài Loan nói thẳng rằng "Chính phủ Việt Nam thiếu thành thật". Để người ta nói như thế vào mặt thì còn mặt mũi nào mà nhìn thế giới. Có lẽ VN không có khả năng tự đổi mới, nên đất nước sẽ chẳng đi về đâu cả, và khoảng cách giữa VN và các nước trong vùng càng ngày càng xa hơn.
Theo FB Nguyen
Tuan
Giới trẻ và việc
nghiên cứu biển Đông
Kính Hòa, phóng
viên RFA
2014-07-24
2014-07-24
Chuyên gia Trịnh
Khắc Mạnh (trái) thuộc Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS) trao đổi với
các phóng viên và các bạn trẻ về tài liệu Hán Nôm cổ về chủ quyền của Việt Nam
đối với quần đảo Hoàng Sa trên Biển Đông, ngày 03 tháng 6 năm 2014 tại Hà Nội.
AFP PHOTO / HOANG
DINH Nam
Trong hai ngày 25
và 26 tháng 7/2014 một hội thảo về biển Đông được tổ chức tại Đại học Tôn Đức
Thắng, TP HCM. Hội thảo này qui tụ nhiều chuyên gia Việt Nam và quốc tế, trong
đó có một số người Việt Nam trẻ tuổi. Sau đây là cuộc trao đổi giữa RFA và ông
Lê Vĩnh Trương trước khi cuộc hội thảo diễn ra về một thế hệ trẻ Việt Nam dấn
thân vào công cuộc nghiên cứu những vấn đề phức tạp ở biển Đông.
Ông Trương là giám
đốc một công ty vận tải hàng hải tại TP HCM, có nhiều bài viết về biển Đông
trên các phương tiện truyền thông trong và ngoài nước. Ông Trương có hai bài
phát biểu trong cuộc hội thảo diễn ra tại ĐH Tôn Đức Thắng.
Từ quan tâm đến
nắm chắc các nội dung
Kính Hòa:
Chào ông Lê Vĩnh Trương, được biết ông là thành viên của Quỹ nghiên cứu biển
Đông, xin hỏi ông là những người trẻ tuổi có quan tâm đến những việc ông đang
làm không?
Lê Vĩnh Trương:
Cám ơn anh về câu hỏi này. Tuy nhiên trong điều kiện chưa có một số thống kê
thì tôi xin trả lời một cách khái quát, Ở Sài Gòn, ở Việt Nam, những người trên
và dưới 40 tuổi đều quan tâm đến biển Đông mạnh mẽ như nhau.
Trong điều kiện
chưa có một số thống kê thì tôi xin trả lời một cách khái quát, Ở Sài Gòn, ở
Việt Nam, những người trên và dưới 40 tuổi đều quan tâm đến biển Đông mạnh mẽ
như nhau.
-Lê Vĩnh Trương
-Lê Vĩnh Trương
Với những gương
mặt dưới 40 tuổi thì tôi thấy họ luôn xuất hiện trong những cuộc biểu tình,
tuần hành trong nước phản đối TQ thành lập Tam Sa, giết hại ngư dân, cắt cáp
tàu nghiên cứu của Việt Nam, và gần đây là đem giàn khoan vào vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam.
Trong những người
tôi biết và có viết về biển Đông, trong độ tuổi 40 trở xuống thì có anh Lê Minh
Phiếu, cô Nguyễn Thái Linh, anh Trần Vinh Dự, chị Phạm Thanh Vân, anh Lê Hồng
Hiệp, Trần Nam Tiến, Phạm Đoan Trang, Lê Trung Tĩnh, Nguyễn Trịnh Đôn, Nguyễn
Lương Hải Khôi. Còn có các nhà nghiên cứu làm việc trong các Viện, trường học,
cũng nghiên cứu về biển Đông tuy rằng họ ít xuất hiện trên phương tiện thông
tin đại chúng.
Cái điều chúng tôi
mong mỏi nhất là sự biến chuyển từ sự quan tâm đến việc nắm chắc các nội dung
về biển Đông như Cổ sử, Công pháp quốc tế, Địa chính trị, Hải dương học. Điều
đó cần sự xúc tác như thế nào.
Các bản đồ cổ được
trưng bày tại một cuộc triển lãm về Trường Sa và Hoàng Sa tại Bảo tàng Quân đội
Hà Nội vào ngày 10 tháng 7 năm 2013.
Kế đó là từ việc
chuyên gia nắm chắc nội dung đến việc họ ứng dụng sở học của họ cho đất nước
thì cần có những bước tiến gì cụ thể.
Nếu có quan tâm mà
không nắm chắc, nắm chắc mà không ứng dụng thì cũng chẳng để làm gì.
Còn về việc nghiên
cứu đơn thuần, có hay không có, ở lứa tuổi nào thì cũng chưa nói lên được điều
gì trước tình hình đặc biệt hiện nay.
Kính Hòa:
Xin hỏi ông thêm một câu về nội dung này. Theo ông thì những người trẻ tuổi
nghiên cứu về biển Đông so với lớp đàn anh đã nổi tiếng thì như thế nào? Mình
có thể có một sự so sánh không?
Lê Vĩnh Trương:
Những người lớn hơn những người tôi vừa nói thì họ trầm lắng hơn, sâu hơn. Dĩ
nhiên thời gian họ đụng chạm tới vấn đề này cũng dài hơi hơn. Lực lượng này
cũng rất là mạnh mẽ. Nhưng những người mà tôi mới đề cập cũng có thế mạnh riêng
của họ, ví dụ như là họ được học tập ở nước ngoài, những nước tiên tiến. Họ
đang làm việc ở những nơi có sự cọ xát với bên ngoài, chứ không chỉ là bên
trong Việt Nam.
Giới trẻ Hải ngoại
Kính Hòa:
Theo ông thì những người Việt trẻ ở hải ngoại có quan tâm đến việc nghiên
cứu biển Đông không?
Lê Vĩnh Trương:
Những người tôi vừa đề cập cũng đang ở nước ngoài.
Kính Hòa:
Nhưng những người này có cùng xuất phát điểm là đi từ Việt Nam. Tôi muốn hỏi
đến những người sinh ra và lớn lên ở hải ngoại.
Lê Vĩnh Trương:
Theo chỗ tôi biết thì không có. Tôi không biết ai.
Tôi chưa bao giờ
xem mình là một nhà nghiên cứu biển Đông. Tôi làm trong ngành hàng hải rất lâu.
Và tôi muốn góp phần nhỏ bé vào công việc chung của cộng đồng.
-Lê Vĩnh Trương
-Lê Vĩnh Trương
Kính Hòa:
Xin hỏi ông câu cuối hơi riêng tư là cơ duyên nào thúc đẩy ông vào công việc
nghiên cứu biển Đông?
Lê Vĩnh Trương:
Tôi chưa bao giờ xem mình là một nhà nghiên cứu biển Đông. Tôi làm trong ngành
hàng hải rất lâu. Và tôi muốn góp phần nhỏ bé vào công việc chung của cộng
đồng. Tôi là người lớn lên ở miền Nam, tôi từng chứng kiến các cuộc biểu tình
sau trận chiến Hoàng Sa năm 1974 ở các trường trung học và đô thị ở miền Nam.
Như là chỗ tôi ở là trường trung học Hoàng Diệu ở Sóc Trăng, Ba Xuyên để chống
cuộc xâm lượng của Trung Quốc những ngày đó.
Tiếp theo đó là
cuộc chiến tranh Tây Nam Bộ chống Polpot Khmer đỏ vào năm 1978, rồi cuộc chiến
chống Trung Quốc xâm lược vào năm 1979 và sau đó, cho đến gần đây thì vẫn diễn
biến rất là khốc liệt. Những câu chuyện đó vẫn còn trong ký ức của chúng tôi,
tôi cho đó là cái động lực tác động đến nhiều người trong chúng tôi sau này.
Còn về nghiên cứu
thì nói đến nghiên cứu thì phải có sự chuyên tâm, dành thời gian, dành nội lực,
đọc, học, tranh luận, tham gia hội thảo, chia sẻ kiến thức với các nhà khoa học
liên quan. Đó là khi nói đến cái học vấn nền tảng của chuyên ngành mà mình đeo
đuổi.
Nghiêm túc trong
công cuộc nghiên cứu biển Đông nên tôi rất là quí trọng những nhà ngiên cứu có
tâm và có tầm trong công việc này như ông Dương Danh Huy, Lê Tuấn Huy, ông Phạm
Hoàng Quân, ông Hoàng Việt. Họ đã vượt qua những khó khăn để thực sự dấn thân
vào công việc này.
Là những nhà
nghiên cứu độc lập, họ phải chấp nhận sự cô độc, sự gian khổ và có khi là rủi
ro để thực hiện những công việc của họ.
Kính Hòa:
Xin rất cám ơn ông đã giành thời gian cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn
này.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/young-people-n-east-sea-study-kh-07242014133512.html
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment