VIẾT GỬI ĐẠI HỘI XII SẮP TỚI CỦA ĐẢNG CS VIỆT NAM (1)
http://vulep.blogspot.com.au/2014/07/viet-gui-ai-hoi-xii-sap-toi-cua-csvn.html
VIẾT GỬI ĐẠI HỘI XII SẮP TỚI CỦA ĐẢNG CS VIỆT NAM (2)
http://vulep.blogspot.com.au/2014/07/viet-gui-ai-hoi-xii-sap-toi-cua-csvn.html
VIẾT GỬI ĐẠI HỘI XII SẮP TỚI CỦA ĐẢNG CS VIỆT NAM (2)
Trong khi đó sự kiện giàn khoan HD
981 và những hệ lụy đang diễn ra cho thấy Trung Quốc lúc này tập trung áp lực bành trướng vào vùng biển của Việt Nam.
Các diễn tiến tiếp theo như việc Trung Quốc tiếp tục đặt thêm các giàn
khoan ở vùng vịnh Bắc Bộ (giáp gianh đường phân định và thuộc vùng đang còn
tranh chấp giữa ta và Trung Quốc), xúc tiến hình thành chiến tuyến các căn cứ quân sự nổi trên biển chạy dài từ Du Lâm (Hải Nam), Tam Sa
(thuộc Hoàng Sa chiếm của Việt Nam) đến Gạc Ma, Chữ Thập (2 đảo này chiếm của Việt Nam năm 1988) hướng về Scarborough (Philippines), báo chí Trung Quốc đã nói đến khả năng lập vùng nhận dạng phòng không
(AIDZ) trên Biển Đông… cho thấy Trung Quốc đang tìm cách khẳng định “đường lưỡi bò” bằng thực lực (bao gồm cả vũ lực), bất chấp sự lên án quyết liệt của toàn thế giới.
Các bước đi mới nói trên của Trung Quốc đối với Việt Nam, bắt đầu từ sự kiện giàn khoan HD 981, cho thấy hiện nay vùng biển của Việt Nam đã trở thành đối tượng bành trướng trực tiếp của Trung Quốc, khâu Trung Quốc có khả năng nhiều nhất để giành thắng lợi trên Biển Đông.
Nếu đặt tình hình thực tế nói trên trong bối cảnh Trung Quốc luôn bố trí sẵn sàng lực lượng quân sự trên toàn biên giới phía Bắc Việt Nam, có ảnh hưởng sâu sắc với tất cả các nước láng giềng trên sườn phía Tây của Việt Nam, trên biển Đông là cái đường 9 vạch đang được Trung Quốc tìm mọi cách khẳng định, từ căn cứ hải quân Du Lâm (Hải Nam) đến đặc khu kinh tế Vũng Áng (Hà
Tĩnh) chỉ cách nhau khoảng 350km hiện đang có hàng nghìn công nhân Trung
Quốc làm việc.., có thể hình dung một bản đồ tổng hợp quân sự – chính trị, trong đó Việt Nam đang bị uy hiếp và bao vây như thế nào. Nếu nhìn sâu thêm
vào sự lệ thuộc về kinh tế của Việt Nam, vào tình hình lũng đoạn của quyền lực mềm Trung Quốc vào nội tình Việt Nam, có thể nhận định: Về tổng thể Việt Nam đang bị Trung Quốc uy hiếp toàn diện và ở mức độ chưa từng có kể từ sau ngày 30-04-1975.
Phải nói khi xẩy ra cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc 17-02-1979 tình
hình Việt Nam bị uy hiếp hồi đó không nguy hiểm bằng hôm nay. Cái “4
không được”[4] Trung Quốc gửi gắm vào dịp chuyến đi Hà Nội 15-06-2014 của Dương Khiết Trì, càng làm rõ
Trung Quốc không có sự khoan nhượng nào.
Như đã trình bầy trong bài “Còn cay đắng hơn cả câu chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy”, Trung Quốc đã sẵn sàng trong tay các kịch bản từ A – Z để đối xử với Việt Nam theo lợi ích của Trung Quốc đòi hỏi. Hiện nay Trung Quốc đang theo đuổi kịch bản A, vì nó rẻ nhất, “êm ả” nhất đối với dư luận thế giới, đạt nhiều hiệu quả nhất. Bởi lẽ kịch bản này khai thác được tối đa sự khiếp nhược của Việt Nam, Trung Quốc có thể lấn chiếm tiếp mà không cần phải dùng đến những biện pháp quân sự ồn ào. Kịch bản Z là kịch bản cuối cùng, tổng hợp tất cả các biện pháp kinh tế, chính trị và chiến tranh.
Việc Trung Quốc cử Dương Khiết Trì đi Hà Nội có thể cho thấy kịch bản A được tiếp tục; với lý do nếu làm quá tay, sự phản ứng của nhân dân Việt Nam sẽ có thể dẫn đến tình huống Hà Nội không kiểm soát được tình hình, buộc Trung Quốc phải chuyển sang kịch bản ồn ào hơn mà Trung Quốc lúc này chưa muốn. Trong giới chuyên gia quân sự quốc tế, có ý kiến: Nếu lúc này Trung Quốc tiến hành chiến tranh dưới các hình thái như bất ngờ đánh chiếm biển đảo như đã làm trong các
năm 1974, 1988, hoặc chiến tranh trên bộ như quy mô
17-02-1979, Trung Quốc có thể thắng; song điều bất lợi khiến Trung Quốc còn đang cân nhắc là: bước đi này có thể sẽ đẩy nhiều nước Đông Nam Á ngả hẳn theo Mỹ và tạo thành một vòng vây chống Trung Quốc…
Nghĩa là nhìn về bất kể phương diện nào, trong cục diện quốc tế hiện nay chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam đã thực sự bước hẳn sang một giai đoạn có những đối kháng mới, vì đây là khâu
yếu nhất cần đột phá cho giai đoạn mới của chiến lược bá chiếm Biển Đông. Nghĩa là
Trung Quốc thấy đã đến lúc vứt cái lá nho “4 tốt và 16 chữ” đã hết thời.
Thế còn Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ)?
Cuốn sách Lược tân lịch sử Trung Quốc (xuất bản 1954) đưa lại lời phát biểu của Mao Trạch Đông nói sau
khi thành lập nước CHNDTH: “Tất cả các lãnh thổ và hải đảo thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc đã từng bị phe Đế Quốc Tây Phương và Nhật Bản chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau Thế Chiến I, như Ngoại Mông, Triều Tiên, “An Nam”,
Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện, Bhutan, Nepal,
Ladakh, Hồng Kông, Macao,
cùng những hải đảo Thái Bình Dương như Đài Loan, Bành Hồ, Ryukyu, Sakhalin, phải được giao hoàn cho
Trung Quốc”[5]. Quan điểm này của Mao, cùng với toàn bộ những sự việc tranh chấp lãnh thổ do Trung Quốc gây ra với tất cả các nước láng giềng (trong đó có Việt Nam) trong suốt chiều dài lịch sử nước CHNDTH cho đến hôm nay nói lên rất rõ ý thức hệ mà ĐCSTQ tôn thờ: chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.
Đại hội 18 của ĐCSTQ (11-2012)
đã đưa vào nghị quyết: Nước giầu quân mạnh, quyết đánh thắng các cuộc chiến tranh cục bộ. Gắn nội dung này với những phát biểu của Tập Cận Bình về giấc mộng Trung Hoa, về lợi ích cốt lõi của Trung Quốc trên Biển Đông…, quan sát những hành động Trung Quốc đang tiến hành, chỉ có thể kết luận ĐCSTQ hôm nay bộc lộ nguyên hình là tổ chức quyền lực của đế chế Trung Hoa phục sinh, đang khai phá con đường cho quốc gia này trở thành siêu cường số một.
Đến đây có thể kết luận: Cục diện quốc tế đã sang một trang mới, trong đó tranh
chấp quan hệ Mỹ – Trung trở thành yếu tố chính chi phối cục diện quốc tế đa cực trong thế kỷ 21. Trung Quốc bước vào một thời kỳ mới trên con đường khẳng định vai trò siêu cường. Trước mắt là tận dụng tình hình thế giới hiện nay đang có nhiều vấn đề mới ở khắp mọi nơi, Trung Quốc quyết định đi vào một thời kỳ mới của chiến lược bá chiếm Biển Đông.
Do bản chất bành trướng, nên quá trình đi lên siêu cường của Trung Quốc không gắn với trách nhiệm đối với thế giới. Thực tế này khiến cho Trung Quốc trở thành vấn đề của cả thế giới, không thể trở thành vai trò
lãnh đạo thế giới như Mỹ và phương Tây hiện đang tiếp tục nắm giữ.
II. Con đường phát triển của Việt Nam đã sang
trang từ lâu
II. 1. “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!”
Ngày 30-04-1975 đất nước thống nhất, Việt Nam hoàn toàn độc lập, kết thúc thời kỳ chiến tranh, đi vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước. Lịch sử Việt Nam bắt đầu sang trang mới từ đây: Dân tộc Việt Nam làm chủ quốc gia độc lập thống nhất của mình. Khẩu hiệu làm nên Cách Mạng Tháng Tám “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!” trở thành hiện thực với ngày 30-04-1975.
Lẽ ra…
Nhiệm vụ đầu tiên và mãi mãi của quốc gia độc lập là phải thiết lập và phát huy quyền làm chủ đất nước của toàn dân tộc, vì điều này đơn giản như lẽ sống: Đất nước này từ nay là của toàn thể dân tộc Việt Nam ta, trường tồn với dân tộc ta. Tổ quốc mang trong tim mỗi người Việt Nam chúng ta có
ý nghĩa thiêng liêng là vì lẽ như vậy.
Bao nhiêu hy sinh xương máu, bao nhiêu
đau thương mất mát, bao nhiêu điều đau lòng tay
trái chém tay phải, bao nhiêu lầm lỗi và oán thù, bao nhiêu sai lầm phải trả giá đau đớn, và còn biết bao nhiêu đau khổ khác nữa không thể nói lên thành lời cả dân tộc này đã phải chịu đựng trong suốt 3 thập kỷ chiến tranh… Máu nào của người dân ta đã ngã xuống cũng đều là máu của dân tộc ta, tất cả chỉ càng làm cho mỗi người Việt Nam chúng ta thấm thía sâu sắc hơn cái giá phải trả cho đất nước độc lập thống nhất, càng thôi thúc
mỗi người Việt Nam chúng ta từ nay phải hiểu các bài học của quá khứ để gìn giữ đất nước trong hiện tại và tương lai, giác ngộ mỗi chúng ta ý thức phải vươn lên sống xứng đáng với tính cách là người chủ của đất nước.
Hàng triệu sinh mạng bị cướp đi, hàng triệu tấn bom đạn tàn phá đất nước và biết bao nhiêu đau khổ khác nhân dân ta
phải trải qua suốt 3 thập kỷ chiến tranh ấy để có đất nước độc lập thống nhất không cho phép bất kỳ ai, dù với lý do gì, tiếp tục hành hạ đất nước trong hiện tại, cướp đi sức sống của đất nước vì hạnh phúc của hòa hợp dân tộc và vì tương lai của một đất nước độc lập, tự do.
Một giọt máu phải nhỏ xuống đất này, một giọt nước mắt mất đi, từng giọt mồ hôi phải nuốt vào trong, tất cả phải dồn nén, phải hun đúc ý chí của từng người dân Việt chúng ta thành một tinh thần dân tộc thống nhất, để sớm lấy lại cho đất nước những gì chiến tranh đã cướp đi, cùng nhau vực dậy đất nước. Hiện tại và tương lai của đất nước đòi hỏi mỗi người dân của đất nước ghi xương khắc cốt những bài học của quá khứ, bởi vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trên con đường dân tộc và dân chủ vô vàn gian
truân. Hơn nữa, nước ta trước đây, bây giờ và mãi mãi phải là láng giềng của một Trung Quốc tham lam, lại luôn luôn nằm ở vị trí đầu sóng ngọn gió của khu vực, nếu chúng ta không
thấy những yếu kém của nước ta và không hiểu cái thế giới chúng ta đang sống để quyết tìm ra con đường đi lên, nước ta làm sao tránh
được số phận con mồi trong tranh
giành quyết liệt tiếp theo giữa các cường quốc?… …
Những điều lẽ ra phải làm như vậy ngay sau ngày 30-04-1975 đã không xảy ra.
Sau 30-04-1975 ĐCSVN đã chọn con đường thừa thắng xông lên, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội theo con đường của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Hệ quả: kinh tế đất nước vốn kiệt quệ sau chiến tranh đi ngay
vào sụp đổ cho đến khi phải tiến hành đổi mới. Đồng thời đất nước bị đẩy tiếp vào 2 cuộc chiến tranh lớn kéo dài 10 năm (1979 – 1989).
Nguyên nhân chủ yếu là ý thức hệ của đảng một mặt đã lựa chọn cho đất nước con đường phát triển sai lầm vì duy ý chí, và
mặt khác đã nhìn nhận sai bàn cờ thế giới lúc ấy, nên đẩy đất nước vào tình thế nguy hiểm.
Cần nhìn nhận 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên là một giai đoạn phát triển thất bại, vì các lẽ:
1. Ngoài 10 năm đầu mất cho 2 cuộc chiến tranh tiếp theo, thành tựu giành được trong 28 năm đổi mới tuy là rất lớn so với điểm xuất phát, nhưng về cơ bản là thất bại nếu so với công sức đã bỏ ra và cơ hội đất nước có được. Mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020
không thể hoàn thành vì cơ cấu kinh tế hiện còn rất lạc hậu, kết cấu hạ tầng vật chất & kỹ thuật thấp kém, hiện đang khủng hoảng cơ cấu sâu sắc, chưa có lối thoát ra khỏi cái bẫy là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp, chất lượng nguồn nhân lực đạt được nhìn chung còn thấp, khoảng cách tụt hậu so với nhiều nước chung quanh ngày
càng rộng.
2. Sau 3 thập kỷ xây dựng đất nước, lúc đầu là xây dựng chủ nghĩa xã hội, do có nhiều sai lầm không khắc phục được nên từ khi tiến hành đổi mới phải điều chỉnh lại thành xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, những thành tựu kinh tế – xã hội đạt được có nhiều măt hạn chế như đã nói trong điểm 1 bên trên. Riêng về mặt thể chế chính trị, nước ta hiện nay rất lạc hậu so với đòi hỏi phát triển của đất nước, so với xu thế phát triển của thế giới, so với một số quốc gia có mức thu nhập tính theo đầu người tương tự như nước ta. Tuy có cái tên gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa hay là định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ chính trị một đảng của đất nước hiện nay về bản chất có quá nhiều tàn dư của chế độ phong kiến cũ. Quá trình tha hóa đã nhanh chóng làm cho tính đảng trị của chế độ ngày càng nổi bật, trên thực tế ngày nay đã trở thành chế độ toàn trị.
3. Đất nước đã độc lập thống nhất 4 thập kỷ. Thay vào chỗ phải có một nhà nước pháp quyền dân chủ để thực thi quyền lực của nhân dân, đất nước có một chế độ chính trị toàn trị. Tính đảng trị của chế độ này tạo ra cho truyền thống phong kiến cũ cha truyền con nối cái phương thức mới “làm vua tập thể” (Nguyễn Văn An) để duy trì chế độ đảng mặc nhiên và mãi mãi
cầm quyền cai trị đất nước. Trên thực tế đã hình thành sự phân chia: ĐCSVN
trở thành kẻ cai trị, nhân dân trở thành người bị cai trị. Nhân dân bị phân chia thành
các giai cấp để đối xử. Trong nhiều hình thái tư tưởng của xã hội và trong thiết kế các chủ trương chính sách vẫn tồn tại sự phân biệt giữa “ta” và “ngụy”, giữa “yêu nước đồng nghĩa với yêu chủ nghĩa xã hội” và “không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước, là chống chế độ”; ai dám mở miệng nói trong lòng kháng chiến có cuộc nội chiến, sẽ lập tức bị quy kết là phản động… Nhiều quyền tự do, dân chủ cơ bản của công dân tuy đã
được ghi trong hiến pháp nhưng chỉ là hình thức. Tuy chế độ toàn trị của ĐCSVN mang trong
nó nhiều tàn dư của chế độ phong kiến cũ, song cái nền tảng tinh thần của “làm vua tập thể” hôm nay được tạo dựng ra không phải từ một trật tự của thượng tầng kiến trúc phong kiến vương đế, mà hình thành từ một thứ văn hóa ra đời trong quá trình
chia chát quyền lực giữa các nhóm lợi ích đủ các thành phần phức tạp trong xã hội. Các “nhóm” này
sống và tự ngụy trang bằng nhiều thứ “giả, diễn, hão”, luôn luôn tìm kiếm đồng minh trong mọi rác rưởi của xã hội[6]. Hệ thống chính trị của đất nước được tổ chức theo cái phương thức “đảng cử dân bầu” là tiêu biểu tổng hợp nhất cho những “giá trị” “giả, diễn, hão” này. Thực tế này lý giải: Bên cạnh những thành tựu đạt được phải trả giá đắt, mỗi bước phát triển của đất nước luôn gắn theo một nấc thang xuống cấp mới về đạo đức, chính trị và tư tưởng. Dẫn đến nghịch lý càng phát
triển càng yếu, càng ngày sinh nhiều yếu kém mới, mâu thuẫn mới.
Xin lưu ý, chủ nghĩa Mác – Lênin ĐCSVN hiện đang kiên định bám giữ, có quá nhiều sai trái thoát ly hẳn cái gốc thực của lý luận Mác. Nhiều nhà khoa học trên thế giới đã chứng minh đó là chủ nghĩa Mác – Lênin
đã được Stalin-hóa,
trước khi vào đến Việt Nam nó được tác chế thêm một lần Mao-hóa nữa. Một thứ chủ nghĩa như vậy trên thực tế là phản khoa học – được chứng minh qua những thất bại của tất cả các ĐCS cầm quyền trên thế giới, chỉ còn lại là một công cụ giáo điều. Ý thức hệ này chỉ thuận tiện cho việc đàn áp chính trị – tư trưởng và làm tha hóa
chính bản thân ĐCSVN. Là một công cụ chính trị như thế, ý thức hệ này một mặt khiến đảng đặt quyền lực của mình là tối thượng, mặt khác đã lấy đi của đảng mọi khả năng nhận thức khách quan sự vật. Có thể nói chính bản thân ĐCSVN đã tự nô dịch mình bằng ý thức hệ như vậy, và qua đó đang
nô dịch cả đất nước.
Hệ quả là đất nước đã độc lập thống nhất bốn thập kỷ, song khẩu hiệu làm nên Cách Mạng Tháng Tám “Nước Việt Nam là của người Việt Nam!” với nghĩa nhân dân
là người chủ của đất nước đến hôm nay vẫn chưa trở thành hiện thực, kẻ chiến thắng trở thành người cai trị chính nhân dân nước mình.
VIẾT GỬI ĐẠI HỘI XII SẮP TỚI CỦA ĐẢNG CS VIỆT NAM (3)
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment