"Cam kết Thành
Đô" quá thơ & ngây
Hạ Đình Nguyên
|
"...Gặp
nhau cười một cái quên hết oán thù"
|
Từ Hội nghị Thành
Đô 1990, mối quan hệ hữu nghị giữa đảng CS Việt Nam và đảng CS Trung Quốc trở
nên đặc biệt một cách bất thường, đến nỗi cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch gọi
đây là khởi đầu của một thời kỳ Bắc thuộc lần nữa:“Một thời kỳ Bắc thuộc rất
nguy hiểm bắt đầu”
Đến nay, sau 24
năm nó vẫn còn là một bí mật – toàn dân chưa ai biết, kể cả Quốc Hội, cả ủy viên
Trung Ương đảng chưa chắc đã biết. Chỉ có một vài tiết lộ của Thứ trưởng Trần
Quang Cơ về cuộc đấu tranh nội bộ gay gắt vào thời tiền hội nghị, qua hồi ký để
lại của ông, nay thì ông đã qua đời.
Hiện cái “kỷ
yếu hội đàm Thành Đô, mang nhiều ý nghĩa lịch sử” vẫn còn là một bí mật,
nhưng không còn nguyên vẹn vì bị sứt mẻ dần qua thời gian, nên chưa thể “biệt
tăm” như cái hộp đen của chiếc máy bay MH370 của Malaysia mất tích đâu đó ở đáy
đại dương.
Ngoài vài điểm đã
tiết lộ trong hồi ký của Trần Quang Cơ, hồi ký của đại sứ Trung Quốc, sự tiết lộ của
báo Hoàn Cầu TQ, và một ít từ Wikileaks, nhưng đều không thể xem là
chính thức hay chính xác, dù có rõ mười mươi đi nữa, trừ phi Đảng CSVN công
bố chính thức để minh bạch công và tội. Nhưng lãnh đạo đảng CSVN vẫn để mặc cho
dư luận đồn đoán.
Vậy, trong khi chờ
đợi sự bạch hóa đó, chúng ta có thể góp phần giải mã bí mật Thành Đô qua phương
diện “thơ” xuất phát từ hội nghị. Những dòng thơ nầy thì không có gì để phải
hoài nghi.
Theo hồi ký được
đăng tải của vị Đại sứ TQ (1), người đã có mặt với vai trò xuyên suốt hội nghị,
đã mô tả: ban đầu trên chiếc chuyên cơ bí mật của đoàn cao cấp Việt nam sang
Thành Đô là nặng trĩu không khí lo âu căng thẳng, nhưng khi kết thúc hội nghị
là sự hoan hĩ tràn ngập của hai bên. Sau khi 2 bên ký kết vào văn kiện, Giang
Trạch Dân đã đọc tặng hai câu thơ (của Giang Vĩnh-đời nhà Thanh):
“Độ tận kiếp ba
huynh đệ tại,
Tương phùng
nhất tiếu mẫn ân cừu”
(Trải qua cơn sóng
gió, tình anh em vẫn còn.
Gặp nhau cười một
cái quên hết oán thù)
Thủ tướng Đỗ Mười
rất đắc ý, trên đường về cùng chuyến bay, đã yêu cầu ông Đại sứ nầy dịch và
viết lại âm Hán-Việt và chữ Việt 2 câu nầy, ông càng đắc ý hơn. Sau khi về Việt
Nam, ông TBT Nguyễn Văn Linh ngẫm nghĩ càng sảng khoái, bèn sáng tác :
“ Huynh
đệ chi giao sổ đại truyền
Oán hận
khuynh khắc hóa vân yên
Tái tương
phùng thời tiếu nhan triển,
Thiên niên
tình nghị hựu trùng kiến”
(Anh em chơi với
nhau đã mấy thế hệ.
Oán hận trong
khoảnh khắc đã biến thành mây khói.
Khi gặp lại nhau
cười rạng rỡ.
Tình nghĩa ngàn
năm xây dựng lại )
Niềm vui thơ phú
trong chốc lát của 2 vị đứng đầu Đảng và Nhà nước ngang giá hàng triệu sinh
linh Việt Nam đã ngã xuống vì cuộc chiến đấu 74-79- 84-88. Bao nhiêu thanh niên
18-20, đã hy sinh trong rừng sâu, trong làng mạc, ngoài biển cả… và nổi đau của
cha mẹ , bao nhiêu gia đình mất cửa nhà, tài sản, tất cả hóa thành không, bởi
vì “anh em ‘chơi’ với nhau, gặp nhau cười rạng rỡ”. “Oán hận ‘trong khoảnh
khắc’ đã thành mây khói”…Với ảo tưởng điên rồ, bốc đồng “tình
nghĩa ngàn năm xây dựng lại”
Giờ đây chúng ta
không còn gì để thắc mắc, vì sao bia kỷ niệm chiến sĩ bị đục bỏ, không được
nhắc tới, không làm kỷ niệm những ngày lễ, và đàn áp thẳng tay, đánh dã man, bỏ
tù những người biểu tình yêu nước, thanh trừng, triệt hạ, loại trừ những “đồng
chí” khác ý kiến…!
Ông Nguyễn Trung
đã nhận định rằng (2):
“Những ngưòi lãnh
đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi,
những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước XHCN
Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của
mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa
ra những quyết định rất sai lầm”.
Nhưng cho dù sự
hạn chế tầm nhìn thế nào đi nữa, cũng không thể đắm đuối với niềm tin quá dễ
dàng về cái nhìn lịch sử của hằng ngàn năm từng va chạm cho cuộc sống còn. Vậy
nó xuất phát từ đâu ? Về cá nhân, người ta thường gọi đó là tính “kiêu ngạo
cộng sản”. Về xã hội, là thể chế độc tài mà quyền lực nằm gọn
trong tay một nhóm người, --lãnh đạo chủ chốt-, bộ máy đảng-nhà
nước chỉ còn là hệ thống kèn trống tồn tại để ăn theo, không hơn không kém.
Niềm sảng khoái
văn thơ nầy, có thể gọi là thơ ngây, ngây ngất, và ngây ngô mà đầy tai họa.
Nhưng chưa hết. Loại thơ độc hại nầy còn phát tiết, chảy dài theo 2 thập niên
sau, kéo theo “anh em chơi với nhau nhiều thế hệ”
Đó là 2 bài thơ,
mang tính chất phương châm, có nghĩa là cương lĩnh, mỗi bài 4 câu, 16 chữ dùng
cho mỗi thập niên. (theo tiết lộ của Wikileaks là thời gian thực hiện trọn vẹn
“Kỷ yếu hội đàm Thành Đô” mà Ông Đại sứ TQ gọi là mang
nhiều ý nghĩa lịch sử, được quy định là 3 thập niên).
Theo âm Hán-Việt,
đó là “Thập lục tự phương châm” (phương châm 16 chữ), được đảng CSVN
công khai, đón nhận như một món quà vô giá từ sản phẩm Thành Đô.
- Phương châm
1 định hình tư tưởng, có giá trị như một slogan, một tuyên ngôn của văn kiện,
do Giang Trạch Dân sang Hà nội triển khai, vào tháng 11-1991:
“Sơn
thủy tương
liên.
Lý
tưởng tương thông
Văn
hóa tương đồng
Sinh
mệnh tương quan”
- Phương
châm 2 chỉ đạo hành động cụ thể, sau 10 năm thành tựu bước 1 căn bản , để tiến
hành 10 năm bước 2, do Giang Trạch Dân chính thức công bố cùng Tổng Bí Thư Lê
Khả Phiêu, vào tháng 2-1999 :
Mục
lân hữu hảo (láng
giềng tốt)
Toàn
diện hợp tác (hợp
tác tốt )
Trường
kỳ ổn định (ổn đinh tốt)
Diện
hướng tương lai (tương lai tốt)
Phía Việt Nam đã
đồng thuận triệt để, tích cực thực hiện và Việt-hóa một cách tài tình với sự
trân trọng, phương châm tư tưởng thành “16 chữ
vàng”, phương châm hành động, thành “4 tốt”. Và đã triển khai giáo
dục cho toàn quân tòan dân.
Chỉ cần suy ngẫm
từ hai phương châm nầy, so với thực tế diễn ra trong 24 năm qua, thì mọi sự
khớp nhau, sáng tỏ như trăng rằm.
Quả thực, hai
phương châm cực kỳ thâm hiểm do Trung Quốc đặt ra, trong chiến lược xâm
lăng văn hóa bằng “sức mạnh mềm” của họ, tầm quan trọng hơn cả tuyên bố
“hải phận Trung Quốc” của Trung Nam Hải trong chiến lược xâm lăng pháp lý
và ngoại giao.
Công hàm của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã “tán thành” và “chỉ thị cho các cấp thi hành”, đã gây
nên nổi nhức nhối ngày nay về chủ quyền biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa, dẫn đến
giàn khoan HD 981. Đó là mặt cụ thể.
Về sức mạnh
mềm,“mười sáu chữ vàng” và “bốn tốt” thì được tiếp nhận hồ hởi và
triển khai triệt để tận tình, đã đập thẳng vào mặt nhân dân, đâm thẳng vào trái
tim của lịch sử, có sức công phá tận nền tảng tư tưởng - văn hóa
của dân tộc, mà trên cơ sở đó, Việt Nam đã tồn tại mấy ngàn năm như một quốc
gia riêng biệt. Điều đáng kinh ngạc cho toàn bộ dân tộc Việt Nam, hai phương
châm nầy đã thong dong xuyên thủng và băng qua từng tập thể lãnh đạo của các
thời kỳ Bộ Chính Trị và Trung ương đảng, xuyên thấu các cấp đảng đến tận cơ sở,
và ngự trị trên diễn đàn tư tưởng cả nước trong suốt thời gian hơn 2 thập kỷ
qua. Không có một phản ứng nào đáng kể, từ những nhà văn hóa, sử gia, giáo sư
và hằng đống tiến sĩ, (kể cả nhân sĩ trí thức ?), và báo chí. Là tại sao ?
(...)
Mười sáu chữ VÀNG
và bốn TỐT đã đi ngược lại, đến mức phủ định một cách đau xót “nền tảng tinh
thần” của Quốc gia mà Nguyễn Trãi đã khắc họa qua 4 câu, cả dân tộc
kiêu hãnh và không ai dám quên, khi khẳng định mình là người Việt Nam.
“Như Nước Đại Việt
ta từ trước,
Vốn xưng nền văn
hiến đã lâu.
Nước non bờ cõi đã
chia.
Phong tục Bắc Nam
cũng khác”.
Khẳng định tính
độc lập của một quốc gia mới là ngàn năm, chứ không phải hữu nghị là “ngàn năm”
(tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại) như thơ của TBT Nguyễn Văn Linh.
Càng nghĩ, càng
đau về phương châm nầy, nó ngang nhiên hơn cả chiếc giàn khoan HD 981 . Nó đối
chọi trực diện với 4 câu cô đọng, nén chứa toàn bộ tinh thần và sức mạnh của
một dân tộc. Cái đau nằm ở tính thâm độc của đối phương đã đành, càng làm nhói
tim mọi người, khi mà nó được sự đồng tình đến mức triệt để, nâng lên thành
vàng của chính đảng CSVN ! Một đảng vốn ra đời và tồn tại với sứ
mạng là để cứu nước, giữ độc lập chứ không phải để làm điều gì khác.
Bình
tâm mà so sánh, xem xét lại kỷ, 4 câu xuất phát từ gan ruột, trí tuệ
của Tiền nhân ta, và 4 câu mà Đảng mang về.
Ai là kẻ đã Việt-
hóa thành phương châm “16 chữ vàng” và “4 tốt” ? Rất
dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ lan truyền trong nhân dân- (như lời “chỉ đạo”
viết văn kiện của TBT Nguyễn Phú Trọng mới đây, cho hội nghị Trung ương sắp tới
).
Mỗi câu trong 4
câu của phương châm vừa bóng bẫy nhẹ nhàng, lại hàm súc, phủ định một cách trọn
vẹn tính độc lập của quốc gia, cả về phương diện vật thể cũng như phi vật thể,
tạo nên một tiến trình đồng hóa ngọt ngào, êm ả. Ý thơ của nó thâm
và êm như lưởi dao phẫu thuật, cắt thẳng vào mạch nguồn tồn tại của dân tộc, mà
nạn nhân không một chút phản ứng.
- Sơn thủy
tương liên. Núi sông trùng điệp nối liền nhau, là cái vui và thuận lợi của
kẻ mạnh, sao kẻ yếu không lo, lại mừng như được vàng, lại vô tâm cứ như xem một
bức tranh đẹp ? Chẳng phải đời Tần của Trung Quốc đã từng không tiếc máu xương
sinh mạng của dân mà xây Vạn Lý Trường Thành, ngăn sông chắn núi để ngăn quân
ngoại xâm từ phương bắc tràn vào ? Bởi cái tương liên nông nổi đó mà
ngày nay, sau 24 năm đường xe, đường tàu thông thống chạy qua, hàng độc hại, xe
tăng có thể lao qua như nước từ trên cao ào ào đổ xuống. Đóng cửa, mở cửa là do
họ chứ không phải ta.
Ai có
mưu đồ sâu độc muốn xóa tan bờ cõi của ta ? Ai là kẻ mơ màng mịt mù hữu
hảo? Vì cái gì che mắt, để không nhìn thấy cạm bẫy của
"tương liên" vốn có một chiều và thảm hại.? Còn đâu sự tự tin và
khẳng định đầy cương quyết : “Như nước Đại Việt ta từ trước !” “Nước non bờ
cõi đã chia”- Và “Sách Trời đã định” (Tuyệt nhiên
định phận tại Thiên thư- Lý Thường Kiệt).
- Lý tưởng
tương thông. Đó là gì ? Là cùng nhau một ý thức hệ chủ nghĩa Mác-Lê,
Mao, Đặng, Giang, Hồ,Tập..? Là xóa bỏ Tổ Quốc, Lịch sử, Dân tộc, như bài ca: “Chờ
ngày xóa tan biên cương, loài người sống thân yêu..”, “Vô sản thế giới hãy đoàn
kết lại”…Nhân loại có ai còn tin vào những lời nầy có thể là hiện thực,
bằng con đường bạo lực mông muội của ý thức hệ Cộng sản, vừa thô thiển vừa viễn
mơ ? Và còn ai trong đảng Cộng sản Việt Nam hôm nay thật sự tin điều nầy ? Và
kể cả đảng Cộng sản Trung Quốc ? Chắc chắn là không một ai !
“Lý tưởng” nầy đã
trở thành một sự “dối trá hoàn hảo” của cả hai bên :dối mình, dối người,
dối cả nhân dân hai nước, trong khi nhân loại thấy rõ đó là một vở kịch bi hài
dai dẳng, đáng tiếc cho một kẻ khờ. Một bên thì dối mà được cả, còn một bên dối
kia, chỉ để tự nguyện đánh mất mình ! Sao lại tự xóa bỏ “Một nền văn hiến đã
lâu” để thay vào một thứ hư ảo không có thật ?
- Văn hóa tương
đồng. Văn hóa “cùng giống như nhau”, thì từ lâu đã bị đồng hóa, làm gì còn
đất nước này, mà đảng Công Sản Việt Nam “nhân danh” để đi cứu nước?
Phong tục, tập quán, tín ngưỡng, nhân sinh quan, giống loài đều khác. Nguyễn
Trãi đã khẳng định cái riêng biệt để tồn tại : “phong tục Bắc, Nam cũng
khác”. Chính đảng CSVN cũng đã nêu “hòa nhập chứ không hòa tan” khi mở đầu
cuộc đổi mới kinh tế theo hướng thị trường trước đây. Thì ra, chỉ lo đối phó
với phương Tây mà ôm phương Bắc theo phương châm đã được chỉ đạo, cùng với định
hướng đi kèm “thế lực thù địch”, nhằm vào những ai không ôm chân phương Bắc.
- Sinh
mệnh tương quan, là một kết thúc ngọt ngào, cùng “sống chết có nhau”. Thế
mà nó lại tương khắc, lại chẳng bao giờ do ta gây ra!
Sự cố kết nầy được
triển khai, thực hiện theo bốn tốt, qua từng thông cáo chung của mỗi triều Bộ
Chính Trị, cái mới nhất là do TBT Nguyễn Phú Trọng ký với Hồ Cẩm Đào “hợp
tác toàn diện và chiến lược”.
Quả chín chỉ còn
chờ ngày rơi rụng, Tập Cận Bình lại muốn nhanh hơn, cố đóng vai người hùng
trong “Giấc mơ Trung Hoa” để kết thúc thập niên thứ 3 trong kế hoạch 30 năm
Thành Đô. Thế là giàn khoan HD 981 rất oai hùng xuất hiện ngang nhiên, hoành
tráng ở thềm lục địa Việt Nam.
Ngọn gió xoay chiều
Sự hiện diện của
HD 981 từ ngày 1-5, là bất ngờ đầy kinh ngạc làm BCT Việt Nam á khẩu, nín thở
suốt 10 ngày. Nhân dân sục sôi và nổ ra cuộc biểu tình ngày 11-12/5 như chưa
từng có trong 40 năm qua. Ngày 18 lại hứa hẹn một cuộc biểu tình tự phát trên
khắp nước, thì bị ngăn chận và trấn áp trong trứng nước. Thông tin đã bùng phát
khắp trong nước và thế giới. Bộ mặt bành trướng không thể nào che đậy được nữa.
Vì liên quan đến biển đảo nên xuất hiện Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng,
làm vấn đề càng trở thành gai góc, bộc lộ mối quan hệ không lành mạnh giữa Việt
Nam- Trung Quốc, kéo theo “bí mật Thành đô” được “hoài nghi” ngày càng lớn, về
mối quan hệ bất chính tập thể của đảng cộng sản Việt Nam đối với đảng Cộng sản
Trung Quốc. Nó ngày càng trở nên trầm trọng hơn, hầu như “khó nói” của đảng
Cộng Sản Việt Nam.
Nếu đem những
thông tin đã được tiết lộ, cùng với “16 chữ vàng” và “4 tốt”, so sánh
với thực tế diễn ra trên khắp đất nước của 24 năm qua, từ khi ký kết Thành Đô,
thì lại vô cùng ăn khớp. Nó là một tiến trình logique từ lý thuyết sang hành
động, thể hiện thật sự là “hợp tác chiến lược và toàn diện” theo cách “hòa
tan”, đang rất cần sự “biện hộ” chân thành của Đảng.
Đang có yêu
cầu bức bối trong nhân dân, tiêu biểu qua tiếng nói của 61 cựu đảng viên, của
Thiếu tướng Lê Duy Mật, của Đại tá Nguyễn Đăng Quang bằng thư chính thức đòi
Trung Ương phải “bạch hóa” hồ sơ Thành Đô ngay trong kỳ hội nghị TƯ lần nầy.
Gió xoay chiều
chính là sự thức tỉnh của toàn dân, và cả thế giới đều thấy, một liên minh quốc
tế chống bành trướng là vấn đề của thời đại, không thể đảo ngược.
Nói đúng hơn, nay
chỉ là chờ đợi sự công bố chính thức, bạch hóa nó trước nhân dân, trước
lịch sử, cũng đồng thời là đòi hỏi thái độ công khai chính thức về sự thật và
cách ứng xử của đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự kiện nầy.
Trong hội nghị
Trung Ương lần thứ 10 tới đây, nếu tổng kết 30 năm được và mất, mà không đề cập
đến vấn đề nầy, thì giá trị của tổng kết ấy khá vô nghĩa.
Để kết luận, xin
mượn lời của Đại tá Nguyễn Đăng Quang (3):
“Nhân dân rất kỳ
vọng một trong các quyết sách này là Đảng sẽ báo cáo cho toàn dân biết sự thực
về mối quan hệ với TQ trong 1/4 thế kỷ qua, trong đó có vấn để Thành Đô năm
1990, kèm theo một lời (nên là mộthành động- người viết) tạ lỗi
chân thành ! Nếu đúng thì đây sẽ là một trong các quyết định dũng cảm, hợp
lòng dân và quan trọng nhất trong lịch sử tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Nên là một hành
động xin lỗi theo cách mà người Nhật đã làm, xin lỗi thay cho tiền nhân đã
có hành động sai trái với dân tộc khác, từ đó đứng thẳng lên để
nâng cao phẩm chất của mình và xây dựng lại sức mạnh nội lực của dân tộc./.
HĐN 10-8-2014
DienDanCTM
..............................
- Hình ảnh xin lỗi
của người Nhật Link hình :
http://saigondiemtin.blogspot.com/2014/07/khi-quan-chuc-xin-loi-nguoi-dan.html
- Bài viết tham
khảo từ các tài liệu và bài liên quan
(1) Hồi ký của Đại
sứ Trung Quốc- Hồi ký Trần Quang Cơ – “Trước và sau cuộc gặp cấp cao Trung
–Việt ở Thành Đô” link:http://vietsuky.wordpress.com/hoi-ky-tran-quang-co/ (bị
chặn khó vào
>>>) http://saigondiemtin.blogspot.com/2014/08/tu-lieu-truoc-sau-cuoc-gap-cap-cao.html………..
(2) “Phải chận
đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990”- Nguyễn Trung (http://bongbvt.blogspot.com/2014/08/phai-chan-ung-nguy-co-tai-dien-kich-ban.html#more)
(3) “Phải công bố
thỏa thuận ở Thành đô” – Đại tá Đặng Văn Quang. Link http://saigondiemtin.blogspot.com.tr/2014/08/phai-cong-bo-cac-thoa-thuan-o-thanh-o.html
(4) Bài liên quan
“Hiểm họa Trung Cộng và bài học “Phần Lan hóa” – Trần Trung Đạo. http://saigondiemtin.blogspot.com/2014/08/hiem-hoa-trung-cong-va-bai-hoc-phan-lan.html
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment