Việt
Nam so sánh với Duy Ngô Nhĩ, Uyghur (Tân Cương) - Những gì đã đang xảy ra tại
Duy Ngô Nhĩ-Tân Cương sẽ xảy ra tại Việt Nam
TRẠI
TẬP TRUNG CẢI TẠO: MỘT KIỂU NHÀ TÙ MAN RỢ NHẤT CỦA CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN MÀ NHÂN LOẠI
TỪNG BIẾT ĐẾN
Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam
(Danlambao) - Với
đất nước Duy Ngô Nhĩ-Tân Cương, Tàu cộng công khai đưa hàng triệu người gốc Hán
sang sinh sống để đồng hóa và xóa sổ dân bản địa gốc Duy Ngô Nhĩ. Với Việt Nam,
bành trướng Tàu cộng thâm độc hơn nhiều. Chúng dùng chính người Việt Nam, gián
điệp Tàu giả danh người Việt (Hồ Tập Chương, Hồ Quang Thục) thực hiện âm mưu
“Trăm năm trồng người Việt thành Tàu” sáp nhập Việt Nam vào đại quốc/liên bang Tàu,
biến Việt Nam thành một tỉnh hay khu tự trị của Tàu, biến dân Việt Nam thành
một bộ tộc Việt trong nước đại Hán, theo phương cách "Diễn Biến
Hòa Bình", nhóm chữ mà chúng ta thường nghe những viên chức cộng sản
dùng trong vài năm qua khi họ đề cập đến phong trào đòi nhân quyền và tự do dân
chủ của dân chúng chống lại đảng cộng sản Việt Nam...
*
Nước Duy Ngô Nhĩ-Uyghur
(Tân Cương)
Duy Ngô Nhĩ (Tân Cương)
nguyên là một quốc gia độc lập và tự trị. Sau khi Tàu trở thành nước cộng sản
thì Mao Trạch Đông mới chính thức thực hiện kế hoạch qui mô đồng hóa Tân Cương
bằng cách đưa dân gốc Hán vào sống tràn ngập trên toàn lãnh thổ Tân Cương. Năm
1949, số người gốc Hán (Tàu) chỉ chiếm khoảng 7% nhưng nay theo thống kê chính
thức đã tăng vọt lên 40% của tổng số dân trong vùng, trong khi đó người bản xứ
gốc Duy Ngô Nhĩ đã bị giảm từ trên 80% xuống còn khoảng 46% trong tổng số
khoảng 26 triệu dân tại Tân Cương. Nhà cầm quyền Tàu đưa ra con số 40% chỉ nhằm
mục đích che giấu hành động xâm lược và đồng hóa dân Duy Ngô Nhĩ của họ. Thực
ra con số người Hán (Tàu) đang sống tại Tân Cương đã chiếm đa số áp đảo so với
người dân bản địa.
Dân Duy Ngô Nhĩ (Tân
Cương) nguyên là dân du mục, tánh tình mộc mạc hiền hòa, chưa từng có chiến
tranh. Đã từ lâu người dân xứ này cam phận dưới sự cai trị của Tàu cộng, nhưng
họ đã không còn chịu đựng được sự ngang ngược của quân xâm lược Tàu tàn ác vô
nhân. Ngày càng có nhiều hành động phản kháng và chống lại xâm lược Tàu từ ôn
hòa chuyển sang bạo động, giành lại quyền con người, quyền tự chủ của dân tộc
và đất nước họ. Điển hình có cuộc biểu tình dẫn đến bạo động tại thủ đô của Tân
Cương, Urumkqi, vào năm 2009, với hằng ngàn người Duy Ngô Nhĩ bị cảnh sát và
quân đội Tàu bắn giết ngay trên các đường phố và sau đó là những vụ hành quyết
công khai những người dân Duy Ngô Nhĩ của lực lượng xâm lược Tàu cộng với mục
đích trấn áp phong trào đòi ly khai khỏi Tàu của dân bản địa Duy Ngô Nhĩ. Tuy bị đàn áp dã man và vô nhân đạo nhưng
các cuộc phản kháng của dân Duy Ngô Nhĩ càng lúc càng mạnh bạo hơn, quyết liệt
hơn và đẫm máu hơn. Gần đây, các nhóm dân Duy Ngô Nhĩ đã dùng đến bạo lực và
sẵn sàng hiên ngang hy sinh mạng sống chống lại bọn xâm lược Tàu cộng tại hang
ổ của chúng, và ngay tại thủ đô Bắc kinh và các thành phố chính trong nước Tàu.
- Ngày 30/12/2013, một
nhóm người Ngô Duy Nhĩ ném bom vào một đồn công an Tàu tại thành phố Khách Tập,
8 người trong nhóm tấn công bị thiệt mạng.
- Tháng 3/2014 một nhóm
người Duy Ngô Nhĩ đã tấn công một nhà ga xe lửa tại thành phố Côn Minh sâu
trong lãnh thổ Tàu gây nhiều thương vong.
- Ngày 04/05/2014 nhà ga
xe lửa tai thủ đô Urumqi bị đặt bom.
- Ngày 08/05/2014 người
Duy Ngô Nhĩ-Tân Cương tấn công bọn cảnh sát tại đồn trú ẩn của chúng tại trung
tâm thành phố Urumqi chỉ với vũ khí thô sơ dao mác.
- Ngày 28/07/2014 nhóm
người Duy Ngô Nhĩ -Tân Cương dùng dao đã tấn công một trạm cảnh sát và cơ quan
chính quyền Tàu tại huyện Toa Xa (Shache), Tân Cương gây nhiều thiệt hại vật
chất và sinh mạng.
Không những người Duy
Ngô Nhĩ trong nước đang anh dũng đứng lên hy sinh cả thân mình đánh lại bọn Tàu
đang thống trị và đồng hóa đất nước mình, công đồng người Ngô Duy Nhĩ-Tân Cương
ngoài nước cũng tích cực tham gia đấu tranh chống lại và tố cáo Tàu cộng trước
cộng đồng thế giới. Cuộc đấu tranh chống bọn xâm lược Tàu giành lại đất nước
của người Duy Ngô Nhĩ sẽ vô cùng gian nan, lâu dài và xuyên qua nhiêu thế hệ.
Nước Việt Nam
Duy Ngô Nhĩ - Tân Cương
thực sự đang bị Tàu cộng công khai đồng hóa và sáp nhập vào đại quốc Tàu còn
Việt Nam bên ngoài trông rất khác với tính trạng của Tân Cương. Việt Nam vẫn
được xem là một quốc gia riêng biệt, đang được cai trị với đầy đủ ban bệ gồm
nhà nước, quốc hội, quân đội toàn là người họ tên Việt, nhưng thực chất là toàn
dân Việt đang bị đảng cộng sản tại Việt Nam cai trị khắt khe hơn cả thời kỳ
Pháp thuộc. Tuyệt đại đa số người dân Việt chỉ là những kẻ nô lệ của nhóm nhỏ
người lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam cùng với dòng họ và bọn lợi ích hùa
theo đảng hưởng lợi.
Từ khi đảng cộng sản tại
Việt Nam cướp được chính quyền của một nửa đất nước, họ đã bắt đầu xóa bỏ một
cách có hệ thống lịch sử hào hùng chống xâm lược và đồng hóa của nhiều triều
đại Tàu từ phương Bắc. Thay vào đó họ tuyên truyền nhồi sọ tư tưởng quốc tế vô
sản, vô tổ quốc, tôn vinh Tàu với dân chúng miền Bắc để họ mù quáng xem Tàu là
quốc gia ruột thịt anh em, tôn thờ lãnh đạo cộng sản Tàu Mao Trạch Đông.
Trước năm 1975, đa số
dân chúng Việt Nam miền Bắc thuộc mọi tầng lớp bị tuyên truyền nhồi sọ nên không
những còn hãnh diện ủng hộ khi đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam trao đất đai
biển đảo cho Tàu cộng theo tinh thần vô sản quốc tế không còn tổ quốc, mà còn
mù quáng cổ vũ cho thế giới cộng sản không còn biên giới phân định quốc gia.
Từ 1975, trước sự bành
trướng của chủ nghĩa vô sản trên toàn thế giới, nửa phần còn lại của Việt Nam
bị nhuộm đỏ dưới tay cộng sản, và từ đó người dân miền Nam, nhất là lớp thanh
thiếu niên, tương tự như người dân miền Bắc trong thời gian 1954-1975, bị tẩy
nảo và đầu độc một cách có hệ thống, xem Tàu cộng là người anh em ruột thịt,
lịch sử anh hùng của tổ tiên bao đời chống bọn bành trướng Tàu phương Bắc bị
bóp méo hay bị xóa bỏ. Đền đài kỷ niệm vinh danh các vị tiền bối có công giữ
nước chống xâm lược Tàu hoặc bị đưa vào quên lãng hoặc bị phá bỏ một cách có hệ
thống. Những sách giáo khoa về lịch sử Việt Nam dùng trong các chương trình
giảng dạy bậc tiểu, trung, đại học không còn nêu đích danh bọn bành trướng Tàu
là quân xâm lược đã nhiều lần xâm lược và đồng hóa đất nước Việt Nam trong suốt
chiều dài bốn ngàn năm giữ nước, dựng nước của tổ tiên dân Việt.
Với đất nước Duy Ngô
Nhĩ-Tân Cương, Tàu cộng công khai đưa hàng triệu người gốc Hán sang sinh sống
để đồng hóa và xóa sổ dân bản địa gốc Duy Ngô Nhĩ. Với Việt Nam, bành trướng
Tàu cộng thâm độc hơn nhiều. Chúng dùng chính người Việt Nam, gián điệp Tàu giả
danh người Việt (Hồ Tập Chương, Hồ Quang Thục) thực hiện âm mưu “Trăm năm trồng
người Việt thành Tàu” sáp nhập Việt Nam vào đại quốc/liên bang Tàu, biến Việt
Nam thành một tỉnh hay khu tự trị của Tàu, biến dân Việt Nam thành một bộ tộc
Việt trong nước đại Hán, theo phương cách"Diễn Biến Hòa Bình",
nhóm chữ mà chúng ta thường nghe những viên chức cộng sản dùng trong vài năm
qua khi họ đề cập đến phong trào đòi nhân quyền và tự do dân chủ của dân chúng
chống lại đảng cộng sản Việt Nam.
Tàu cộng biết rằng chúng
không thể dùng bạo lực, dùng chiến tranh biển người để xâm chiếm và đồng hòa
đất nước và dân tộc Việt Nam như chúng thực hiện ở các nước nhỏ nằm vùng Trung
Á như Duy Ngô Nhĩ, Tây Tạng... Tàu cộng đã và đang lợi dụng chủ nghĩa cộng sản,
dùng đảng cộng sản tại Việt Nam từng bước thực hiện kế hoạch sáp nhập Việt Nam
vào Tàu mà không tốn một viên đạn hay một giọt máu. Tay sai của Tàu cộng là
đảng cộng sản tại Việt Nam đã ưu tiên tiến hành đầu độc tư tưởng lớp trẻ Việt
Nam trong nước bằng cách tráo đổi lịch sử để họ không còn biết gì về tổ tiên
dân Việt đã từng hiên ngang đánh đuổi bọn xâm lược Tàu, và thay vào đó là lịch
sử đảng cộng sản Tàu-Việt, mang ơn Tàu, hướng về Tàu, xem Tàu là mẫu quốc. Để
thực hiện công tác trường kỳ tẩy não dân Việt, không ai làm tốt hơn là chính
những người cộng sản Việt Nam và chế độ độc tài toàn trị với lớp tay sai đắc
lực chỉ biết vì đảng, chỉ biết còn đảng còn mình. Chính Hồ Chí Minh và đảng
cộng sản tại Việt Nam luôn tuyên truyền chiêu bài “Trăm năm trồng
người” thành Tàu. Đó chính là âm mưu cấy trồng vào toàn bộ lớp trẻ
Việt Nam từ lúc còn thơ dại tư tưởng cộng sản vô tổ quốc và một lòng yêu Tàu,
tôn thờ bọn Tàu cộng, xem Việt Nam là một phần của thế giới cộng sản do cộng
sản Tàu lãnh đạo.
Hồ Chí Minh và Đảng
cộng sản tại Việt Nam
thực hiện kế hoạch
trăm năm cấy trồng người Tàu tại Việt Nam
Với những gì đã được
phơi bày trước đây và nhất là trong thời gian qua cho thấy âm mưu thâm độc của
bá quyền Tàu cộng có vẻ đang đưa đến kết quả theo như ý đồ của Bắc Kinh từ thời
Mao Trạch Đông đến nay:
- Cuộc chiến tranh xâm
lược trên toàn vùng biên giới phía Bắc năm 1979 mà Tàu cộng bảo là dạy đàn em
hoang đàng cộng sản Việt Nam bài học, đã bị nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam cố
tình nhận chìm và đưa vào quên lãng. Những mộ bia của hằng chục ngàn bộ đội,
thường dân bị Tàu giết hại bị bỏ hoang phế, các tượng đài kỷ niệm cuộc chiến bị
phá bỏ, đảng CSVN không tổ chức lễ kỷ niệm cuộc chiến tranh xâm lược biên giới
phía Bắc đẫm máu năm 1979 do chính những người anh em đồng chí Tàu cộng cùng
theo chủ nghĩa vô sản gây ra.
- Từ sau hội nghị bí mật
tại Thành Đô kết thúc vào năm 1990 thì công tác sáp nhập “mềm” Việt Nam vào Tàu
trong một vài thập niên tới đã từng bước tiến hành nhưng chắc chắn theo phương
châm “diễn biến hòa bình”.
- Giao cho Tàu hằng trăm
ngàn mẫu đất vùng biên giới và nhiều vùng đất sâu trong lãnh thổ Việt Nam chạy
dài suốt từ Bắc đến Nam mà đảng cộng sản tại Ba Đình Hà Nội gọi là cho mướn dài
hạn 50-100 năm.
- Giao cho Tàu một phần vịnh
Bắc Bộ với cái gọi là “Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ” được úp mở công bố vào
tháng 12/2000.
- Dân Tàu tự do ra vào
Việt Nam đội lớp chuyên gia nhưng thực chất là lực lượng quân đội vô hình được
đưa vào đóng chốt trong các khu công nghiệp trá hình do Tàu thực hiện trên khắp
nơi trên đất nước Việt Nam. Bọn Tàu thì tự do tác oai tác quái trong những vùng
họ sinh sống, xem thường luật pháp Việt Nam mà đảng và nhà nước cộng sản Việt
Nam không giám đả động đến họ.
- Gây tiếng vang nhất và
đánh động đến lương tri của tầng lớp trí thức XHCN, đảng viên cộng sản kỳ cựu
là đại dự án Bauxit trên khắp vùng Tây Nguyên với hàng chục ngàn bộ đội Tàu trá
hình làm công nhân dự án. Và mới nhất là khu công nghệ Formosa do Tàu đầu tư
tại Vũng Án Hà Tĩnh, chiếm ngự hằng ngàn mẫu với hằng chục ngàn dân Tàu đang
sinh sống như một khu tự trị mà chính quyền địa phương không được phép vào kiểm
soát. Không những thế, mới đây chúng còn trân tráo chính thức đòi quyền tự trị
cho khu vực này. Dù nhà nước của đảng cộng sản tại Việt Nam bề ngoài không
tuyên bố chính thức thừa nhận nhưng thực tế thì họ đã giao khoán khu vực này
cho Tàu.
- Khi Tàu cộng mang giàn
khoan khổng lồ HD 981 và sâu trong vùng biển Việt Nam, vào đầu tháng 05/2014,
nếu là một quốc gia thực sự có đầy đủ chủ quyền thì hành động mang giàn khoan
và tàu chiến vào vùng biển của một nước khác là hành vi xâm lược thì chính
quyền Việt Nam cần phải dùng mọi biện pháp mạnh xua đuổi bọn xâm lược Tàu ra
khỏi vùng biển thuộc vùng lãnh hải đặc quyền kinh tế của Việt Nam và đưa chúng
ra trước Liên Hiệp Quốc và một tòa án quốc tế, nhưng nhóm lãnh đạo đảng cộng
sản tại Việt Nam, qua bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh, tuyên bố trước
công luận thế giới là “chuyện trong gia đình giữa hai anh em Tàu Việt” trong
khi đó Tàu cộng ngang nhiên hung hãn giết hại ngư dân trên vùng biển mà họ đưa
giàn khoan vào khai thác. Tệ hại hơn là trong khi Tàu cộng tuyên bố đó là vùng
lãnh hải của chúng thì nhóm người lãnh đạo của cộng sản tại Hà Nội qua tên đại
sứ tại Liên Hiệp Quốc Lê Hoài Trung ngày 16/07/2014 lại lên tiếng tại trụ sở
Liên Hiệp Quốc hoan nghênh Tàu cộng cùng “hợp tác” khai thác vùng biển Đông
thuộc chủ quyền của Việt Nam.
- Lãnh đạo đảng cộng sản
tại Việt Nam cho bọn tay sai liên tục đàn áp tàn nhẫn và vô nhân đạo với người
dân Việt thức tỉnh, quan tâm đến sư tồn vong của đất nước, lên tiếng phản đối
và lên án hành động xâm lược giết người cướp của của bọn Tàu cộng ngoài biển
Đông. Việc làm này chỉ có thể do bọn Tàu cộng làm để tiêu diệt những người
chống lại họ nhưng lại do chính những con người với tuổi đời chỉ mới đôi mươi
có họ tên Việt Nam mà tâm địa Tàu, ra tay rất ư là tàn ác.
Tấm bia kỷ niệm chiến
thắng tại đầu cầu Khánh Khê - Lạng Sơn
bị đục bỏ các chữ
“Trung Quốc xâm lược”.
Và tượng đài nghĩa
trang lính Tàu trước khu nghĩa trang
bộ đội Tàu tử trận
trong cuộc chiến biên giới 1979
Thanh niên Việt yêu
nước thức tỉnh biểu tình chống Tàu xâm lược Biển Đông
bị bọn đảng viên csvn
“100 năm trồng người Tàu”
của Hồ Chí Minh hành
hung dã man trên đường phố Sài Gòn, Hà Nội.
Trong những năm qua,
thanh niên trong nước đã bắt đầu thức tỉnh và nhận thức được họ đã bị tuyên
truyền nhồi sọ chủ nghĩa cộng sản tam vô, trong đó tư tưởng vô tổ quốc là vô
cùng thâm độc do bành trướng Tàu cộng chủ xướng và Hồ Chí Minh cùng các đồng
chí cộng sản Việt Nam của HCM một lòng thực hiện, dẫn đến sự vô cảm của người
dân và nhất là lớp thanh thiếu niên trẻ đưa đến hệ quả mất nước vào tay bành
trướng Tàu cộng. Tuy nhiên vẫn có nhiều thanh niên trẻ tuổi tuy chỉ ở lứa tuổi
đôi mươi nhưng sớm ý thức sự tồn vong của tổ quốc trước họa xâm lược Tàu, thấy
rõ hành động phản quốc, dâng hiến tổ quốc Việt Nam cho Tàu cộng của nhóm lãnh
đạo đảng cộng sản Việt Nam chỉ biết còn đảng còn mình, đang nhanh chóng gia
tăng.
Tương lại sống còn của
tổ quốc và dân tộc Việt Nam được đặt toàn bộ kỳ vọng vào tầng lớp thanh niên
thế hệ mới của thế kỷ 21 đang anh dũng đấu tranh ngoan cường, vừa chống lại chủ
nghĩa cộng sản hại dân bán nước vừa chống lại bọn bá quyền xâm lược Tàu cộng và
tay sai của chúng ngay tại trong lòng đất nước.
Con đường đấu tranh của
lớp thanh niên trẻ mang dòng máu anh hùng bất khuất với ý chí sát thát của tổ
tiên dân Việt tuy gặp nhiều chông gai, phải đương đầu với bọn tay sai của đế
quốc Tàu cộng không kém tàn ác so với bọn bành trướng Tàu cộng, nhưng cuối cùng
sẽ đạt thành công tiêu diệt chuyên chính độc tài. Tổ quốc Việt Nam chắc chắn sẽ
tường tồn và hãnh diện sánh vai cùng thế giới văn minh tự do dân chủ.
Thanh niên yêu nước
biểu tình lên án bọn Tàu cộng xâm lược Biển Đông,
bọn thanh niên đvcshcm
hạt giống “trăm năm cấy trồng người Tàu”
làm lá chắn bảo vệ mẫu
quốc Tàu cộng
Ngày 06 tháng 08 năm
2014
Hiểm họa Trung Cộng và bài học “Phần Lan hóa” (Finlandization)
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Có khả năng cao Việt Nam đã bị
“Phần Lan hóa” qua mật ước Thành Đô. Và Việt Nam, như một dân tộc, chỉ có thể
tự thoát khỏi quỹ đạo Trung Cộng tức tránh khỏi nạn bị “Phần Lan hóa” bằng
(1) dân chủ trước Trung Cộng, (2) đoàn kết dân tộc để vượt thoát và thăng tiến,
(3) chủ động chiến lược hóa vị trí quốc gia trong tranh chấp Thái Bình
Dương, (4) sát cánh với láng giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin
cậy như đã trình bày trong chính luận Để thắng được Trung Cộng...
*
Trong bài viết Việt
Nam đối diện với việc “Phần Lan hóa” từ Trung Quốc (Vietnam Faces
‘Finlandization’ from China) cuối tháng Năm vừa qua trên báo Asiasentinel,
David Brown, một cựu nhân viên ngoại giao Mỹ, viết: “Như vậy, trong khi
Washington dường như đã sẵn sàng vẽ một lằn ranh quanh Nhật Bản, Hàn Quốc và
cũng có thể Singapore và eo biển Malacca, Hải quân Hoa Kỳ đang từ bỏ việc đương
đầu tại một khoảng xa cách từ bờ biển Việt Nam.”Tác giả viết tiếp “Điều
đó có thể được hiểu rằng, Mỹ đang dự định chấp nhận nhìn Việt Nam bị “Phần Lan
hóa”.
Tháng 9 năm 2010, trong
một bài viết trên tờ Wall Street, Andrew Krepinevich,
Chủ tịch Trung tâm Định ước Ngân sách và Chiến lược (the Center for Strategic
and Budgetary Assessments) cũng cảnh báo Trung Cộng đang tiến hành “Phần Lan
hóa” Thái Bình Dương: “Liên Xô chưa bao giờ thành công “Phần Lan hóa”
Châu Âu. Nhưng sự đe dọa vừa trở lại từ phía Trung Cộng, quốc gia này đang cố
gắng “Phần Lan hóa” Tây Thái Bình Dương. Cách phát triển quân sự của một quốc
gia mở ra cánh cửa cho thấy ý định của nó, và Trung Cộng rõ ràng đang tìm kiếm
để gây hiệu quả tuần tự nhưng quyết định vào cán cân quân sự Mỹ-Trung. Mục đích
của Trung Cộng là ngăn chận Mỹ trong việc bảo vệ các quyền lợi lâu dài trong
khu vực – và để lôi kéo các đồng minh dân chủ của Mỹ vào quỹ đạo của nó.”
Trong chính luận Tranh chấp Mỹ-Trung,
một cảnh giác cho lòng yêu nước trên talawas hơn bốn năm trước, người viết cũng có bàn tổng
quát về trường hợp các quốc gia như Thổ Nhĩ Kỳ và Phần Lan. Để có thể tồn tại
trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh các nước này đã phải áp dụng nhiều chiến lược
đối ngoại và đối nội khác nhau. Trong lúc Thổ Nhĩ Kỳ chủ trương cứng rắn chống
Liên Xô, đứng hẳn về phía Tây phương, Phần Lan chủ trương các chính sách đối
ngoại và đối nội nhượng bộ Liên Xô. Người viết cũng đã phân tích chọn lựa của
Thổ Nhĩ Kỳ trong chính luận Hiểm họa Trung
Cộng và bài học Thổ Nhĩ Kỳ cách đây hai năm và lần này bàn đến trường hợp Phần Lan.
Với chủ trương bành
trướng Nga Hoàng của Vladimir Putin và ngọn lửa chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại
Hán của Tập Cận Bình đang cháy rộng, khái niệm “Phần Lan hóa” lại
lần nữa được nhắc nhở khá nhiều: “Phần Lan hóa” Ukraine, “Phần Lan
hóa” Đài Loan và cả khả năng “Phần Lan hóa” Việt Nam.
Trước khi bàn đến việc
liệu Việt Nam có thể sẽ bị “Phần Lan hóa” với sự thỏa thuận ngầm của Mỹ
như David Brown phân tích hay thực tế đã bị “Phần Lan hóa” sau mật
ước Thành Đô, cần tìm hiểu các điều kiện địa lý chính trị, lịch sử và
quốc phòng của Phần Lan trong quan hệ với Liên Xô trước và sau Thế chiến thứ
hai cũng như sự ra đời của khái niệm này.
“Phần
Lan hóa” là gì?
“Phần Lan hóa” (Finlandization) có
nghĩa “để trở nên Phần Lan” là một khái niệm chính trị để chỉ ảnh hưởng của một
cường quốc trên các chính sách đối nội, đối ngoại và quốc phòng của một quốc
gia láng giềng nhỏ, bị cô lập, không phải là thành viên của một liên minh quân sự
và không nhận được sự bảo vệ của các cường quốc. Khái niệm vẫn còn nhiều tranh
cãi, mang nặng cảm tính này bắt nguồn từ chính sách của chính phủ Phần Lan
trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh từ 1947 đến 1990 để đáp ứng với thực tế chính
trị và bảo vệ được chủ quyền đất nước, hay vắn tắt là để tồn tại.
Phần Lan trước Thế
chiến thứ hai
Năm 2013 dân số Phần Lan
có 5.5 triệu, tuy nhiên trong giai đoạn “Phần Lan hóa” trong
những năm 1940 quốc gia này chỉ có khoảng 4 triệu dân, đa số sống ở các khu vực
miền nam, nhiều nhất tại thủ đô Helsinki và vùng phụ cận. Vì là một nước quá
nhỏ chia sẻ biên giới với các nước lớn nên Phần Lan cũng gặp nhiều lận đận.
Suốt 600 năm, Phần Lan bị Thụy Điển đô hộ. Các viên chức Thụy Điển được cử đến
cai trị Phần Lan. Dù đương đầu với hiểm họa bị đồng hóa, Phần Lan vẫn giữ được
bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và tiếng nói riêng. Khi phong trào cải cách tôn giáo
của Martin Luther lan rộng đến Thụy Điển và Phần Lan, Tân Ước được dịch sang
tiếng Phần Lan và đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người
dân. Sau chiến tranh giữa Nga và Thụy Điển vào cuối thế kỷ 17, Nga chiếm Phần
Lan.
Năm 1912, vua Nga,
Alexander I nâng cấp Phần Lan từ hàng tự trị lên cấp quốc gia đặt thủ đô tại
Helsinki. Cũng vào thời điểm đó tinh thần quốc gia Phần Lan do Tiến sĩ Johan
Vilhelm Snellman nuôi dưỡng, bắt đầu phát triển mạnh. Để chống lại chính sách
đồng hóa của Nga Hoàng, Johan Vilhelm Snellman kêu gọi người dân Phần Lan tuyệt
đối không dùng tiếng Nga.
Cách Mạng CS Nga 1917
bùng nổ, Phần Lan tuyên bố độc lập. Tuy nhiên bị ảnh hưởng chính trị Nga, cánh
tả trong chính phủ Phần Lan rất mạnh và thực hiện một cuộc đảo chánh. Quân
chính phủ do tướng Gustaf Mannerheim chỉ huy phản công và đánh bại quân phiến
loạn. Phần Lan chính thức trở thành nước Cộng Hòa năm 1919 với K.J. Ståhlberg
là tổng thống đầu tiên. Biên giới giữa Nga và Phần Lan được công nhận theo hiệp
ước biên giới Tartu ký kết năm 1920. Quan hệ giữa Phần Lan và Liên Xô rất căng
thẳng, và quan hệ giữa Phần Lan và Đức cũng không tốt đẹp gì hơn.
Tháng Tám 1939, Hitler
và Stalin ký thỏa hiệp không xâm phạm nhau trong đó có điều khoản Hitler đồng ý
nhường Phần Lan cho Stalin. Khi Phần Lan từ chối việc cho phép Liên Xô xây dựng
căn cứ quân sự trên lãnh thổ Phần Lan, Stalin tấn công Phần Lan vào tháng 11
năm 1939. Chiến tranh Mùa Đông (Winter War) bùng nổ. Tuy Phần Lan thua nhưng đã
gây thiệt hại trầm trọng cho phía Liên Xô. Sau Chiến tranh Mùa Đông (1939) là
Chiến tranh Tiếp Tục (Continuation War) (1941-1944). Trong thời gian này Phần
Lan đứng về phía Đức và đem quân tấn công Liên Xô để chiếm lại các phần đất bị
mất trong Chiến tranh Mùa Đông và nhiều phần đất khác của Liên Xô. Chính Anh
Quốc cũng đã tuyên chiến với Phần Lan năm 1941. Năm 1944, Phần Lan ký hiệp ước
đình chiến với Liên Xô.
Phần Lan sau Thế chiến
thứ hai
Tại hội nghị Paris 1946,
Đồng Minh ân xá cho Phần Lan và các nước đã đứng về phía phe Trục như Romania,
Bulgaria, Hungary và cho phép các nước này trở thành hội viên Liên Hiệp Quốc.
Phần Lan và Liên Xô ký các hiệp ước hòa bình lần nữa vào những năm 1947 và
1948. Trong giai đoạn này Phần Lan quá yếu về khả năng quân sự so với Liên Xô
nên đã buộc phải nhường vùng đất phía nam cho Liên Xô. Đứng trước sự phân cực
đang hình thành trong sinh hoạt chính trị thế giới, Phần Lan đối diện với một
thực tế chính trị thế giới hoàn toàn bất lợi. Đức Quốc Xã, đối trọng với Liên
Xô sụp đổ, không có đồng minh quân sự, bị cô lập về địa lý chính trị, các quốc
gia trong vùng Đông Âu lần lượt trở thành chư hầu CS của Liên Xô, các quốc gia
vùng Baltic như Estonia, Latvia, Lithuania đều bị sáp nhập hẳn vào Liên Xô. Ưu
tiên hàng đầu của chính phủ Phần Lan, vì thế, bằng mọi giá để khỏi bị trở thành
một “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa” trong Liên Bang Xô Viết.
Quá sợ Liên Xô nuốt sống
như trường hợp các nước vùng Balkan, Phần Lan lấy lòng Liên Xô bằng cách từ
chối viện trợ Mỹ trong kế hoạch viện trợ kinh tế Marshall. Tuy vậy, Phần Lan
ngấm ngầm thiết lập quan hệ kinh tế với Anh, Mỹ và các chính phủ Anh, Mỹ cũng
tìm cách yểm trợ Phần Lan để hy vọng nuôi dưỡng chế độ dân chủ non trẻ tại quốc
gia nhỏ ở Bắc Âu này. Chính sách “Phần Lan hóa” ra đời.
Nội dung của “Phần Lan hóa”:
- Về đối ngoại. Phần Lan
theo đuổi một chính sách đối ngoại rất mềm dẻo, nhân nhượng, không làm mất lòng
Liên Xô, trung lập. Liên Xô trong thực tế không xem Phần Lan như là một nước
Trung Lập đúng nghĩa mà luôn xem quốc gia này phụ thuộc vào các chính sách đối
ngoại phát xuất từ điện Kremlin. Chẳng hạn, khi đại sứ Phần Lan Max Jakobson
được đề cử vào chức vụ Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, Liên Xô chẳng những không
ủng hộ mà còn dùng quyền phủ quyết để bác bỏ vì không muốn thấy một chính khách
Phần Lan đóng vai trò quan trọng trong tổ chức chính trị thế giới.
- Về đối nội. Loại
trừ các thành phần lãnh đạo quốc gia có khuynh hướng chống Liên Xô và ủng hộ
các thành phần thân Liên Xô. Theo tài liệu của CIA, Liên Xô duy trì mối quan hệ
mật thiết với các chính khách thân Liên Xô đứng đầu là Tổng thống Juho Kusti
Paasikivi (1870-1956) và sau đó là Tổng thống Urho Kekkonen (1900-1986). Liên
Xô có quyền phủ quyết các chính sách của Phần Lan và can dự vào nội bộ Phần Lan
qua trung gian đảng CS Phần Lan, Liên Đoàn Dân Chủ Nhân Dân, Quốc Hội Phần Lan
với đa số thuộc cánh tả.
- Về văn hóa giáo
dục. Để vừa lòng Liên Xô, Phần Lan áp dụng chính sách tự kiểm duyệt, tự kiểm
soát và thân Liên Xô. Chính phủ Phần Lan ngăn chận các phương tiện truyền thông
có cái nhìn tiêu cực về Liên Xô. Trên 1700 cuốn sách có nội dung chống Liên Xô
trước đó bị xếp vào thể loại “sách bị cấm”. Các phim ảnh không có lợi cho Liên
Xô như The Manchurian Candidate, Day in the Life of Ivan
Denisovich v.v... đều không được phép chiếu.
- Về quốc phòng. Hiệp
ước Hữu Nghị Hợp Tác Phần Lan-Liên Xô 1948 (Finno-Soviet
Pact of Friendship, Cooperation and Mutual Assistance) quy định Phần Lan phải có
trách nhiệm chống lại các lực lượng thù địch của Liên Xô khi các lực lượng này
tấn công Liên Xô ngang qua ngã Phần Lan và nếu cần sẽ kêu gọi sự giúp đỡ quân
sự của Liên Xô. Phần Lan không được liên minh quân sự với một quốc gia thứ ba.
Điều này do Liên Xô đặt ra để giới hạn Phần Lan gia nhập NATO giống như trường
hợp Đan Mạch và Na Uy. Trước đó, trong hiệp ước ký kết giữa hai nước, Phần Lan
đã nhường 10 phần trăm lãnh thổ cho Liên Xô.
Nhắc đến “Phần Lan
hóa” không thể bỏ qua vai trò của Tổng thống Phần Lan Urho Kekkonen, người
lèo lái chính sách này trong suốt 26 năm làm tổng thống. Những người phê bình
Urho Kekkonen cho rằng ông ta là con cờ của Liên Xô trong khi những người ủng
hộ xem ông như là một trong những anh hùng của Phần Lan vì đã bảo vệ được chủ
quyền Phần Lan trong một hoàn cảnh chính trị thế giới vô cùng khó khăn.
Công tâm mà nói, trong
suốt dòng lịch sử, lãnh thổ Phần Lan là bãi chiến trường cho các tham vọng bành
trướng của Thụy Điển và sau đó là Nga Hoàng. Sau Thế chiến thứ hai, hầu hết các
quốc gia vùng Baltic và Balkan đề nằm trong quỹ đạo Liên Bang Sô Viết. Lịch sử,
văn hóa, ngôn ngữ của quốc gia này đều bị xóa bỏ. Ý thức được điều đó, mục tiêu
hàng đầu của Kekkonen là bảo vệ chủ quyền Phần Lan, bảo vệ nền Cộng Hòa Phần
Lan bằng mọi giá, không thể để Phần Lan trở thành một xứ tự trị như thời Nga
Hoàng hay một “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa” của Stalin. Mặc dù nhân nhượng Liên
Xô rất nhiều trong các lãnh vực chính trị, quốc phòng Phần Lan cũng có lợi về
kinh tế vì Liên Xô là quốc gia nhập cảng lớn nhất sản phẩm của Phần Lan. Sự sụp
đổ của Liên Xô đã gây ra những suy thoái kinh tế trầm trọng tại Phần Lan. Sau
giai đoạn phục hồi, Phần Lan đã phát triển một cách vượt bực. Ngày nay Phần Lan
hội nhập cao vào sự nền kinh tế thế giới và là một trong những quốc gia phát
triển nhanh nhất thế giới.
Trở lại với quan hệ
Trung Cộng và CS Việt Nam trong cái nhìn so sánh giữa Liên Xô và Phần Lan.
Trung Cộng sau Thiên
An Môn
Chính sách đối ngoại của
Trung Cộng trong thời gian 1990 nhằm mục đích thoát khỏi sự cô lập quốc tế và
ổn định chính trị nội bộ sau biến cố Thiên An Môn. Những thành tựu kinh tế của
chính sách bốn hiện đại hóa từ đầu thập niên 1980 đã đạt một số thành tích đáng
kể nhưng tất cả đều rất mong manh, yếu kém. Các cường quốc dân chủ vẫn còn
trừng phạt kinh tế sau khi Đặng Tiểu Bình ra lệnh tàn sát nhiều ngàn sinh viên
Trung Quốc yêu dân chủ tại Thiên An Môn đầu tháng 6, 1989.
Như hầu hết các quốc gia
CS, kế hoạch chung của cả nước luôn chế ngự và đồng thời duy trì tính cân đối
của các chính sách đối ngoại cũng như đối nội trong mỗi thời kỳ. Để thoát khỏi
sự cô lập và phục hồi vị trí của Trung Cộng trong bang giao quốc tế, Đặng Tiểu
Bình theo đuổi chính sách đối ngoại mềm dẻo trong đàm phán biên giới với hàng
loạt các nước lân bang trong đó có Việt Nam. Chính sách của ho Đặng được gọi là
chính sách 20 nét chữ “bình tĩnh quan sát, giữ vững trận địa, bình tĩnh ứng
phó, giấu mình chờ thời” (lengjing guancha, chenzhuo yingfu, wenzhu
zhenjiao, taoguang yanghui, yousuo zuowei).
Sự sụp đổ của hệ thống
Liên Xô làm Trung Cộng không còn lo ngại vòng vây Liên Xô từ hướng Việt Nam
nhưng lại có mối lo mới nguy hiểm và hùng mạnh hơn nhiều, đó là Mỹ. Như người
viết đã trình bày trong các bài trước, thời điểm 1990 đối tượng cạnh tranh của
Trung Cộng là Mỹ và Nhật chứ không phải Liên Xô hay chư hầu của nó là CSVN và
mục tiêu bành trướng của họ Đặng không chỉ giới hạn ở các cù lao trên biển, vài
ngọn núi đất ở Hà Giang mà cả Thái Bình Dương. Và để giới hạn sự đe dọa của Mỹ,
Trung Cộng đã làm hòa với CSVN. Hai bên đã mở các cuộc đàm phán vào năm 1991 và
đạt đến thỏa hiệp vào năm 1993 sau mật ước Thành Đô.
Việt Nam sau Liên Xô
Sau khi hệ thống CS tại
châu Âu sụp đổ, nền kinh tế của các nước CS còn lại của khối COMECON trong đó
có Lào, Cu Ba và CSVN trở thành đàn gà mất mẹ. Trong bài bình luận nhân dịp kỷ
niệm 20 năm bức tường Bá Linh đổ, tạp chí The Economist nhận
xét chung rằng khi chế độ thực dân ra đi, các nước cựu thuộc địa ít ra còn
hưởng được các phương pháp quản trị, hệ thống tư pháp và nhiều trường hợp cả
ngôn ngữ nhưng chế độ CS ra đi không để lại gì ngoài nghèo đói, ngục tù và lạc
hậu.
Số phận của đảng CSVN
như chỉ mành treo chuông. Trong giờ phút sinh tử đó, lãnh đạo CSVN xem dấu hiệu
hòa hoãn của Đặng Tiểu Bình như chiếc phao giữa biển. Họ vui mừng bám lấy. Dĩ
nhiên, với bản chất thâm độc, đầu óc tính toán của lãnh đạo Trung Cộng, món lễ
vật của đàn em CSVN dâng lên trong ngày quy phục thiên triều lần nữa phải là
một lễ vật đắt giá. Món nợ máu xương từ năm 1979 trở về trước hẳn được Đặng
Tiểu Bình đòi cả vốn lẫn lời.
Hội nghị bí mật tại
khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên diễn ra trong hai ngày 3 và
4 tháng 9 năm 1990 giữa phía Việt Nam gồm Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn
Linh và phía Trung Quốc gồm Giang Trạch Dân và Lý Bằng thực chất là lễ cam kết
một loại “công hàm” khác, trầm trọng hơn nhiều so với “công hàm Phạm Văn Đồng”.
Chiều ngày 7 tháng 11 năm 1991 tại Nhà khách Chính phủ Điếu Ngư Đài Bắc Kinh,
Giang Trạch Dân tuyên bố “Nhưng chúng tôi hy vọng giữa Trung Quốc và Việt
Nam có thể khôi phục mối quan hệ mật thiết giữa hai Đảng và hai nước do những
người lãnh đạo thuộc thế hệ lão thành xây dựng nên." Họ Giang
muốn nhắc nhở lãnh đạo CSVN về thời kỳ mà đảng CSVN thở bằng bình oxyen Trung
Cộng trong các thập niên 1950, 1960.
Trung Cộng muốn Việt Nam
những gì Liên Xô muốn Phần Lan và nhiều hơn nữa:
- Giống như Liên Xô áp
dụng với Phần Lan, Việt Nam phải “trung lập” trên danh nghĩa. Phần Lan luôn
tuyên bố “trung lập” và Liên Xô ủng hộ vị trí trung lập của Phần Lan nhưng thực
chất có quyền phủ quyết hầu hết các chính sách đối ngoại của Phần Lan. CSVN
cũng thế. Họ luôn tuyên bố “quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi” với mọi quốc
gia trên thế giới nhưng thực chất chỉ “hợp tác” với sự đồng ý của Trung Cộng.
Bất cứ khi nào có dấu hiệu làm trái ý, Trung Cộng sẽ dùng mọi biện pháp hèn hạ
nhất để trừng phạt như trường hợp giàn khoan HD981 vừa qua, bất chấp dư luận
thế giới khinh khi.
- Giống như Liên Xô áp
dụng với Phần Lan, các chính sách an ninh quốc phòng của Việt Nam không được đi
ngược với chính sách quốc phòng của Trung Cộng, không được độc lập trong toàn
bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng. Để thỏa mãn Trung Cộng, Việt Nam
theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không” tự sát: (1) không tham gia các
liên minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (3)
không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước
này để chống nước kia. Các điều khoản này tương tự các điều khoản của hiệp ước
mà Phần Lan phải ký với Liên Xô năm 1948.
- Giống như Liên Xô đã
cướp đất của Phần Lan, CSVN đã chấp nhận vị trí đặc quyền, đặc lợi của Trung
Cộng trong Biển Đông. Như đã viết, khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết
xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải
và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần
đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa).
Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng
lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục
địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, Trung Cộng
còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa
và Trường Sa.
- Giống như Liên Xô đã
áp lực với lãnh đạo Phần Lan, Việt Nam cũng thực hiện các chính sách tự kiểm
duyệt các tin tức gây mất lòng Trung Cộng, giới hạn các phim ảnh, sách báo có
nội dung tiêu cực về chế độ CS tại Trung Quốc, ngăn chận mọi ý kiến, phản ứng
dù rất ôn hòa của người dân trước các hành động gây hấn, xâm lược lộ liễu của
Trung Cộng. Tháng Sáu vừa qua,các báo VnExpress, Thanh
Niên, Người Lao
Động, Tiền Phong, Giáo Dục đã phải đồng loạt
lấy xuống các hình ảnh và tin tức liên quan đến ngày kỷ niệm Tàn Sát Thiên An
Môn. TS Nguyễn Quang A, một trong những thành viên chủ trương Diễn đàn
Xã hội Dân sự phát biểu với RFA: “Điều đó chứng tỏ rằng những thế lực
trong Đảng Cộng sản Việt Nam còn gắn rất chặt với Trung Quốc. Tôi tin chắc chắn
là họ nghe theo lệnh của Bắc Kinh để họ làm như vậy.”
- Bên cạnh các điểm
giống nhau nêu trên, một điểm khác biệt có tính quyết định đối với tương lai
của dân tộc Việt Nam: Trung Cộng quyết tâm bảo vệ đảng CSVN. Làm gì thì làm,
nói gì thì nói, lãnh đạo CSTQ cũng biết hiện nay chỉ còn năm đảng cầm quyền
mang nhãn hiệu búa liềm. Nắm giữ Việt Nam về mặt lý luận tư tưởng không chỉ để
bảo vệ cơ chế mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong trường hợp cách mạng dân
chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Và do đó, bị “Phần Lan hóa” trong quỹ
đạo Trung Cộng cũng có nghĩa ngày nào Trung Cộng còn do đảng CS cai trị ngày đó
nhân dân Việt Nam lại cũng sẽ tiếp tục chịu đựng dưới ách chủ nghĩa độc tài
toàn trị Lê Nin không có Mác. Tổng thống Phần Lan Urho Kekkonen phải khuất phục
Liên Xô chỉ vì để bảo vệ chế độ cộng hòa và chủ quyền đất nước, lãnh đạo CSVN
bám vào chiếc phao Trung Cộng chỉ vì quyền lực và quyền lợi riêng của đảng CS.
Những phân tích trên cho
thấy có khả năng cao Việt Nam đã bị “Phần Lan hóa” qua mật ước Thành Đô. Và
Việt Nam, như một dân tộc, chỉ có thể tự thoát khỏi quỹ đạo Trung Cộng tức
tránh khỏi nạn bị “Phần Lan hóa” bằng (1) dân chủ trước Trung
Cộng, (2) đoàn kết dân tộc để vượt thoát và thăng tiến, (3) chủ động
chiến lược hóa vị trí quốc gia trong tranh chấp Thái Bình Dương, (4) sát cánh
với láng giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin cậy như đã trình
bày trong chính luận Để
thắng được Trung Cộng.
Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô?
"Vì sự tồn tại của
sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề
nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam
sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai
đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã
dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ
mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung
ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây... Phía
Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời
gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành
cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc." - Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa
Xã
Mặc Lâm (RFA) - Hội Nghị Thành Đô là cụm từ nhức nhối đối với người quan
tâm tới vận mệnh đất nước có liên quan đến yếu tố Trung Quốc. Hồi gần đây sự
đòi hỏi minh bạch hội nghị này ngày một xuất hiện nhiều hơn trong giới sĩ phu
cũng như tướng lãnh quân đội Nhân dân Việt Nam.
Bí ẩn vẫn bao trùm Hội
nghị Thành Đô
Trong hai ngày 3 và 4
tháng 9 năm 1990 Hội nghị Thành Đô được tổ chức tại Tứ Xuyên quy tụ lãnh đạo
cao cấp của hai nước Việt Nam-Trung Quốc cho đến nay vẫn còn để lại trong lòng
người dân nhiều câu hỏi về những gì mà hai bên bàn luận. Những khuôn mặt phía
Việt Nam như Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười,
và Phạm Văn Đồng, cố vấn ban chấp hành Trung ương Đảng. Phía bên kia là Giang
Trạch Dân, Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng
Quốc vụ viện Trung Quốc.
Chụp ảnh lưu niệm sau hội
đàm Thành Đô
|
Qua hình ảnh, những cái
bắt tay đi kèm những nụ cười cho biết họ vừa bàn thảo những sự kiện quan trọng
nhưng không ai được đọc hay nghe những gì mà hai bên thỏa thuận bên trong hội
nghị. Từ đó đến nay, sự bí mật, hay nói đúng hơn là bưng bít vẫn bao trùm câu
chuyện Thành Đô như một vùng cấm của người cộng sản mặc dù nội dung của nó liên
quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc.
Lịch sử cho thấy bất cứ
sự thỏa hiệp mờ ám nào dù tinh vi tới đâu cũng bị lật tẩy. Không ai có thể buộc
kẻ thù không được công bố những gì mà trong quá khứ đã trót bằng lòng với
chúng. Câu chuyện công hàm Phạm Văn Đồng là một thí dụ lớn nhất mà nhà nước có
thể lấy làm bài học vì thời gian dù có bao lâu vẫn không mài mất được chữ ký
của một Thủ tướng.
Công hàm Phạm Văn Đồng
do Hà Nội quá lâu không lên tiếng giải bày khiến Trung Quốc có lợi thế như một
yếu tố phân hóa quần chúng không còn tin tưởng vào sự lãnh đạo của chính quyền
khi xảy ra vấn đề tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Tương tự như vậy, Trung
Quốc đã dùng sự mập mờ của Hội Nghị Thành Đô để bịt miệng lãnh đạo Việt Nam
trong hoàn cảnh lịch sử khiến tay họ trót nhúng chàm vì quá tin vào người bạn
xã hội chủ nghĩa.
Năm 2004 tập hồi ký của
nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cho thấy phần nào sự bí ẩn phía sau
khi ông bị Trung Quốc gạt ra khỏi Hội Nghị vì quan điểm chống Trung Quốc công
khai của ông. Yếu tố này một lần nữa chứng minh sự gượng ép của những người đại
diện Việt Nam tham gia hội nghị và mãi một phần tư thế kỷ sau đó bí mật vẫn bao
trùm câu chuyện Thành Đô.
Đại tá công an Nguyễn
Đăng Quang là người từng nhiều lần tiếp xúc với nguyên Ngoại trưởng Nguyễn Cơ
Thạch cho biết:
"Trung quốc đưa
ra một điều kiện tiên quyết đó là Việt Nam thực tâm muốn bình thường, cải thiện
quan hệ ngoại giao với Trung Quốc thì việc đầu tiên là Việt Nam phải loại bỏ Bộ
trưởng Thạch, đó là điều anh ấy nói riêng với tôi và sau này tôi được biết anh
ấy nói công khai trong Bộ Ngoại giao. Còn nhiều việc anh ấy nói với tôi nữa
nhưng tôi chưa dám công bố bởi vì có thể những việc đó anh ấy sẽ viết trong
cuốn hồi ký của anh ấy.
Anh ấy là người rất hiểu
Trung Quốc và hiểu tận tim gan của họ. Ví dụ như Trung Quốc nói rằng đảo Hoàng
Sa có xương của người Trung Quốc thì ảnh đập lại anh ấy nói nếu như thế thì
ngay thủ đô Hà Nội cũng sẽ là đất của Trung Quốc bởi vì gò Đống Đa có rất nhiều
xương của Trung Quốc vì người Hán bị vua Quang Trung tiêu diệt chất thành cả
một cái gò như thế. Nếu nói đâu có xương của người Hán người Trung Quốc thì nơi
đó là dất của Trung Quốc thì phi khoa học."
Việt Nam một tỉnh tự
trị của Trung Quốc?
Tài liệu về hội nghị này
hết sức ít ỏi khiến bao nhiêu học giả muốn nghiên cứu về nó phải chịu thua vì
sự trung thành của người trong cuộc. Bí mật càng giữ, sự xuyên tạc sự thật về
nó càng khiến người ta tin hơn, đặc biệt nếu sự xuyên tạc ấy đến công khai từ
phía Trung Quốc khi hai nước chạm trán với nhau trên vấn đề biên cương lãnh
thổ.
Tờ Thời báo Hoàn Cầu và
Tân Hoa Xã vừa cùng nhau công bố những chi tiết mà hai cơ quan này gọi là sự
thật về “Kỷ Yếu Hội Nghị” trong những ngày vừa qua với những câu chữ như sau:
"Vì sự tồn tại của
sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề
nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam
sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai
đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã
dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận
làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung
Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây...
Phía Trung Quốc đồng ý
và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm
(1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết
cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc."
Với những từ ngữ tuyên
giáo như thế không ai có thể tin rằng lãnh đạo Việt Nam đã mù quáng đến nỗi đi
tới quyết định như vậy mặc dù sự xụp đổ của Liên Xô đã khiến đảng Cộng sản Việt
Nam phải tìm cách dựa vào Trung Quốc để sống còn.
Dù sao thì Chủ nghĩa Xã
hội cũng không thể biến Việt Nam thành một tỉnh tự trị của Trung Quốc vì ông Nguyễn
Văn Linh, Đỗ Mười cộng với Phạm Văn Đồng không đủ chính danh để ký một văn tự
vô giá trị như thế.
Tuy nhiên vì Hà Nội tiếp
tục im lặng nên câu hỏi đã dần dần biến thành sự thật cho dù chỉ phân nửa sự
thật đến từ Hoàn Cầu Thời Báo.
Phản ứng của nhân sĩ trí
thức và tướng lãnh Việt Nam rõ ràng là phẫn nộ và họ đòi hỏi nhà nước phải bạch
hóa sự kiện Thành Đô. Trước tiên là Thiếu tướng Lê Duy Mật sau đó là Đại tá
công an Nguyễn Đăng Quang cùng nhiều người khác đã công khai kiến nghị lãnh đạo
phải giải thích minh bạch những điều mà Trung Quốc đưa ra như đã từng đưa sự
việc công hàm Phạm Văn Đồng khiến Hà Nội phải ngậm bù hòn làm ngọt không thể
tiến tới một vụ kiện phản đối Trung Quốc.
Nói với chúng tôi Thiếu
tướng Lê Duy Mật cho biết:
Vấn đề Thành Đô quan hệ
như thế nào nó ảnh hưởng ra sao và hậu họa của nó thế nào thì giờ mình cũng
chưa thật rõ cho nên tôi nêu ra vấn để để các đồng chí lãnh đạo xem xét và đồng
thời có ý kiến với toàn bộ đảng toàn nhân dân thế thôi. Bây giờ thì cứ chờ họ
xem quan điểm, thái độ và cách giải quyết như thế nào. Còn bây giờ mình hãy nêu
vấn đề, một vài ví dụ thế thôi. Nó là vấn đề bang giao chiến lược và của tập
thể chứ không phải của một cá nhân nào.
Đại tá Nguyễn Đăng Quang
không tin vào những thông tin này tuy nhiên theo ông nếu nhà nước vẫn chủ
trương im lặng thì không khác gì trao vũ khí tuyên truyền cho giặc, ông chia
sẻ:
Cái thông tin này thì
bản thân tôi nghĩ rằng không phải là thật. Hoàn Cầu Thời báo nó tung ra để gây
chia rẽ mâu thuẫn trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam với nhau thôi và gây phân hóa
trong người dân Việt Nam với nhau.
Hoàn Cầu Thời báo thì nó không phải là cơ quan
chính thức của dảng và nhà nước Trung Hoa cho nên nó đưa như thế ai muốn hiểu
thế nào thì hiểu. bản thân cá nhân tôi thì tôi không tin đó là sự thật. Thế
nhưng nếu mình im lặng trong chuyện này thì bất lợi cho mình. Phải có một kênh
thông tin nào đó để phản bác lại chuyện đó.
Còn chuyện có công bố
cho dân biết về Hội nghị Thành Đô hay không thì tôi nghĩ rằng không phải là
chuyện dễ làm nhưng phần nào ít nhiều gì cũng phải cho người dân biết.
Hội Nghị Thành Đô như
một giọt nước tràn ly, đây là cơ hội để nhà nước bạch hóa một sự thật được giữ
kín trong suốt 24 năm. Tuy nhiên bí mật khi đã trở thành gai nhọn thì cách hay
nhất vẫn phải chịu đau mà lấy gai lể nó.
Vô đạo không thể an dân giữ nước
Phạm Trần (Danlambao) - Lịch sử Việt Nam đã chứng minh không có
bất kỳ thời đại nào, từ Vua chúa đến hậu Phong kiến và Cộng sản, dù tàn bạo và
hà khắc bao nhiêu và dù có “trăm mưu ngàn kế” đề ra những luật lệ để kiểm soát
và hạn chế tối đa các quyền tự do cơ bản của con người thì Nhà nước cũng không
thể tiêu diệt được niềm tin của người dân vào Tôn giáo và Tín ngưỡng.
Bằng chứng đã xảy ra cho đạo Công giáo trong
suốt 271 năm bị bách hại từ thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1615-1635) cho
đến thời Văn Thân (1885-1886).
“Người ta ước lượng: dưới thời các chúa Trịnh,
Nguyễn, và Tây Sơn, chừng 30,000 giáo dân bị giết; dưới thời ba vua Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự Đức, chừng 40,000 tín hữu bị xử tử hay chết trong lao tù; nhưng
dưới thời Văn Thân có tới trên dưới 60,000 người dân Công Giáo bị sát hại.” (Trích tập sách Vụ Án Phong Thánh của tác
giả Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, xuất bản năm 1987, Hoa Kỳ)
Đến thời vô thần Việt Minh Cộng Sản, dù các Tôn
giáo có bị “ngăn sống cách núi” hay “làm khó đủ điều”, dân chúng vẫn âm thầm
thờ phương các đấng linh thiêng theo tôn giáo hay tín ngưỡng của mình. Tình
trạng hiếm Cha, thiếu Thầy, Nhà Thờ bị bỏ hoang cho thời gian tiêu hủy, Đình,
Miếu bị rêu phong điêu tàn hay nhà Chùa thiếu hương khói vẫn không làm cho tín
đồ nản chí bỏ đạo. Và người dân thì vẫn hiên ngang tuyên xưng ra Tôn giáo của
mình với chính quyền dù có bị kỳ thị trong đời sống hàng ngày.
Và tuy lý luận duy vật coi“tôn giáo là thuốc
phiện của nhân dân” (Karl Heinrich Marx, 1818-1883) đã được người Cộng sản Việt
Nam “tuyệt đối tin và áp dụng méo mó” vào đời sống bằng những Sắc lệnh, Nghị
quyết, Chỉ thị, Pháp lệnh, Nghị định bắt đầu từ Sắc lệnh thời Hồ Chí Minh (Số:
234/SL14 Tháng 06 năm 1955) cho đến Nghị định 92/2012/NĐ-CP ngày 08 tháng 11
năm 2012 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, các đạo giáo vẫn tìm mọi cách vượt qua
lực cản để tồn tại.
Bằng chứng nhãn tiền đã diễn ra ở miền Bắc Việt
Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) trước 1975, theo phổ biến của Bách Khoa Toàn
thư (mở): “Sau cuộc di cư 1954, số linh mục còn lại tại miền Bắc chừng
28%, giáo dân chừng 60%, có những giáo phận như Thái Bình, Bùi Chu, Bắc Ninh,
Phát Diệm, Hải Phòng... số người Công giáo di cư vào miền Nam khá đông.
Các hoạt động chủ yếu của người Công giáo miền Bắc là giữ đạo thay vì truyền
giáo bởi vì thiếu người lãnh đạo, cộng với chính sách kiềm chế tôn giáo, đặc
biệt là đạo Công giáo của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả các
chủng viện, trường học và hầu hết các tu viện Công giáo đều bị nhà nước tịch
thu. Một số linh mục và chức sắc của xứ đạo bị bắt, đi tù trong chính sách cải
cách ruộng đất (1955-1956). Ngoại trừ Dòng Chúa Cứu Thế và Dòng Thánh Phaolô
còn lại ở miền Bắc, các dòng tu khác đều rút lui vào miền Nam. Vì nhu cầu cần
có thêm linh mục nên nhiều Giám mục đã phải truyền chức "chui" (lén
chính quyền) cho một số người làm linh mục.”
Tình trạng tịch thu tài sản, đất đai của các Tôn
giáo và hạn chế hoạt động của các Giáo hội cũng đã diễn ra ở trong Nam kể từ
sau ngày quân Cộng sản chiếm Sài Gòn 30/04/1975. Đối với các Tôn giáo hay Giáo
phái không muốn để cho Nhà nước quản trị, dù có được thêm ân huệ khi gia nhập
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, như Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Ấn
Quang), hệ phái Hòa Hảo thuần túy, Cao Đài độc lập Vĩnh Long và một số hệ phái
Tin Lành miền Nam v.v... vẫn thường xuyên là đối tượng bị đàn áp, canh chừng và
đối xử bất công của nhà nước.
Thái độ thù nghịch với Tôn giáo và phân biệt đối
xử với người dân có niềm tin vào các “đấng thiêng liêng” của đảng CSVN đã được
Nhà nước thú nhận: “Do nhận thức không đầy đủ, đã có một thời kỳ chúng
ta mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong việc đấu tranh chống tôn giáo.
Chúng ta đã quá nôn nóng, cực đoan trong ứng xử với các tôn giáo cũng như với
các cơ sở thờ tự của tôn giáo. Nhiều nhà thờ, chùa chiền, miếu mạo đã bị đập
phá, các sinh hoạt tôn giáo bị ngăn cấm, người có đạo bị kỳ thị. Quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo không được đảm bảo. Chính sự nóng vội đó đã dẫn đến hậu
quả xấu về mặt chính trị, tư tưởng, là cơ sở để các thế lực phản động lợi dụng
chống phá cách mạng nước ta. ở điểm này, rõ ràng chúng ta đã không vận dụng tốt
những quan điểm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác - Lênin.” (Theo: Giáo
trình chủ nghĩa xã hội khoa học. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. tr.236.)
Nhưng đảng chưa bao giờ xin lỗi các Tôn giáo và
bồi thường thiệt hại cho các Giáo hội về những “sai lầm nghiêm trọng” của mình.
Ngược lại đảng và nhà nước CSVN vẫn liên tục chống phá các Tôn giáo, người hành
đạo và người theo đạo từ 1954 ở miền Bắc rồi sau đó trên phạm vi cả nước từ sau
1975.
Như vậy thì không thể bảo là “do nhận thức không
đầy đủ” nên đã “nóng vội” cho hành động chống Tôn giáo của đảng. Sự liên tục
thù nghịch và gây khó khăn cho các tổ chức Tôn giáo không chịu gia nhập các
Giáo hội quốc doanh của đảng đã phản ảnh đầy đủ trong các văn kiện về Tôn giáo,
Tín ngưỡng của nhà nước.
Hai Tác giả Mai Thị Quý (Tiến sĩ triết học,
Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa) và Bùi Thị Hằng (Khoa Lý luận Chính trị,
Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa) đã để lộ điều này trong một bài viết chung
trên Tạp chí Triết học ngày 14/11/2011.
Họ viết: “Quan điểm của Đảng ta về giải
quyết vấn đề tôn giáo được thể hiện trong nhiều văn kiện của các kỳ Đại hội và
được cụ thể hóa bằng các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, như Nghị quyết số
24/NQ-TW (ngày 16/10/1990) của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo
trong tình hình mới... Chỉ thị số 37 CT-TW (ngày 2/7/1998) của Bộ Chính trị Về
công tác tôn giáo trong tình hình mới... Ngoài ra, còn có nhiều chỉ thị, nghị
quyết khác của Đảng về các mặt công tác đối với tôn giáo nói chung và từng tôn
giáo nói riêng trong từng thời kỳ. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW (ngày 12/3/2003) Về công
tác tôn giáo. Những quan điểm của Đảng ta về công tác tôn giáo được cụ thể hóa
trong Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11 ra ngày
18/6/2004.”
Quan điểm này được tóm tắt trong 5 điểm:
- Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Hai là, thực hiện nhất quán chính sách
đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Ba là, nội dung cốt lõi của công tác
tôn giáo là vận động quần chúng. Công tác vận động quần chúng phải động viên
được đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất
Tổ quốc thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng, đảm bảo lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong
đó có đồng bào các tôn giáo.
- Bốn là, công tác tôn giáo là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, trong đó, đội ngũ cán bộ
chuyên trách làm công tác tôn giáo là lực lượng nòng cốt.
- Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Mọi tín đồ có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo
quy định của pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn
giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn
giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người
dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và cách thức
truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của pháp luật.
Sau khi đã “giảng giải” về chính sách Tôn giáo
của Đảng qua các văn bản quy định hoạt động và quyền lợi của các Tôn giáo, hai
Tác giả Mai Thị Quý và Bùi Thị Hằng tự mãn cho rằng:
“Như vậy, quan điểm của Đảng ta về tôn giáo là
rõ ràng, nhất quán, đảm bảo quyền tự do, dân chủ. Trong khi đó, hiện nay, có
những cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước vẫn cho rằng ở Việt Nam người dân
không có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Từ đó, chúng dùng nhiều thủ đoạn để
kích động đồng bào có đạo gây rối, chống phá cách mạng, rơi vào âm mưu “diễn
biến hòa bình” vô cùng thâm độc của chúng. Đó là những luận điệu sai lầm, xuyên
tạc chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta cũng như xuyên tạc tình hình tôn
giáo và các hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nay mà chúng ta cần kiên quyết
bác bỏ.”
Gáo nước lạnh
Oái oăm thay và cũng trớ trêu cho hai cái loa
“dư luận viên” Mai Thị Quý và Bùi Thị Hằng khi cả Thế giới được nghe Ông Heiner
Bielefeldt, Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc về tự do tôn giáo hay tín
ngưỡng nói trong cuộc họp báo ngày 31/07 (2014) tại Hà Nội: “Tôi kinh
ngạc thấy phạm vi của tự do tôn giáo vẫn còn rất hạn chế và không rõ ràng.”
Ông Bielefeldt đã đưa ra “những phát
hiện sơ bộ và một số nhận xét” sau 10 ngày làm việc tại Việt Nam từ 21
đến 31 tháng 7 năm 2014. Ông nói với báo chí: “ Không định kiến về tính
chính xác của tất cả các sự kiện thực tế của tất cả các trường hợp cụ thể đã
được báo cáo với tôi, tôi tin rằng, những vi phạm nghiêm trọng đối với quyền tự
do tôn giáo hay tín ngưỡng là một thực tế đang diễn ra ở Việt Nam - nhất là ở các
vùng nông thôn, tuy không phải chỉ có ở nông thôn.”
Không có gì phải bàn cãi thêm về nhận xét bi
quan của ông Bielefeldt vì sự thật đã diễn ra như thế từ khi đảng CSVN cầm
quyền ở miền Bắc Việt Nam sau ngày đất nước chia đôi 20/07/1954.
Chủ trương bài xích tôn giáo, tín ngưỡng và
chống người có đạo để bảo vệ Chủ nghĩa vô thần luôn luôn được coi là nhiệm vụ
cốt lõi hàng đầu của mỗi đảng viên Cộng sản Việt Nam.
Vì vậy, ông Bielefeldt mới nói: “Trong
bối cảnh này, tôi muốn nhấn mạnh rằng thông qua nhiều cuộc trao đổi thảo luận
của tôi với các thành viên của các cộng đồng tôn giáo, mà một vài tổ chức trong
số đó đã chính thức đăng ký với chính quyền và thậm chí còn là thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, mọi người đã bộc lộ nhận thức chung về những hạn chế
hiện tại trong quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều đáng ngạc nhiên hơn cả
là các lãnh đạo cấp cao của tòa án chưa hề nghe đến bất kỳ trường hợp nào một
cáo buộc vi phạm quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng đã được đưa ra tòa.”
Sự ngạc nhiên của ông Bielefeldt rất dễ hiểu vì
hệ thống Tòa án do đảng kiểm soát và chi phối ở Việt Nam không có thói quen bảo
vệ quyền lợi tinh thần của người dân, dù có thấy rõ những vi phạm của nhà nước.
Đối với các quan tòa do đảng chỉ định thì các quyền tự do của người dân, nhất
là các các quyền tự do ngôn luận, tư tưởng và tín ngưỡng dù đã được Hiến pháp
quy định là “dân quyền”, nhưng chúng vẫn thấp hơn và không quan trọng bằng “quyền
lãnh đạo toàn xã hội của đảng”.
Hơn thế nữa, với một chế độ công an trị như ở
Việt Nam thì không người dân nào dám đi kiện nhà nước đã “vi phạm quyền tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng” để tránh bị đàn áp bằng đủ mọi mưu chước của công an
và “công an đội lốt côn đồ” mà chưa biết đến bao giờ vụ án mới được đem ra xét
xử, nếu có.
Đặc phái viên của Liên Hiếp Quốc còn cáo buộc
Chính phủ Việt Nam đã ngăn cản và làm khó dễ chuyến đi của ông: “Dự
định đi thăm An Giang, Gia Lai và Kon Tum của đoàn không may đã bị gián đoạn từ
ngày 28 đến 30 tháng 7. Tôi nhận được những thông tin đáng tin cậy là một số cá
nhân tôi muốn gặp đã bị đặt dưới sự theo dõi chặt chẽ, cảnh cáo, đe dọa, sách
nhiễu hoặc bị công an ngăn cản việc đi lại. Ngay cả những người đã gặp được tôi
cũng không tránh khỏi việc bị công an theo dõi hoặc chất vấn ở một mức độ nhất
định. Ngoài ra, việc di chuyển của tôi cũng bị giám sát chặt bởi “những cán bộ
an ninh hoặc công an” mà chúng tôi không được thông báo rõ, đồng thời sự riêng
tư và bảo mật của một số cuộc gặp gỡ cũng bị ảnh hưởng. Những việc này là sự vi
phạm rõ ràng các điều khoản tham chiếu của bất kỳ chuyến thăm quốc gia nào.”
Tố cáo nghiêm trọng này đã bị phủ nhận bằng câu
nói ngắn của Phó Vụ trưởng Vụ Các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao Phạm Hải Anh: “Về
một số vấn đề ông Beilefeldt nêu tại cuộc họp báo ngày 31/7, tôi cho rằng đã có
sự hiểu lầm, chưa trao đổi hết thông tin.”
Tại sao lại “hiểu lầm” vì “chưa trao đổi hết
thông tin” khi bằng chứng gây khó khăn điều tra cho đặc phái viên của Liên Hiệp
Quốc đã rõ như ban ngày? Tại sao nhà nước Việt Nam lại không điều tra cho ra
nhẽ để bảo vệ “nhà nước ta là nhà nước pháp quyền” mà để bị mang tiếng xấu đã
ngăn cản cuộc “thăm dân cho biết sự tình” của đặc phái viên Liên hiệp quốc?
Ông Bielefeldt còn nói: “Tôi đã được
nghe một số cáo buộc nghiêm trọng về các vi phạm cụ thể đối với quyền tự do tôn
giáo hay tín ngưỡng ở Việt Nam. Các vi phạm được báo cáo gồm có những vụ vây
bắt nặng tay của công an; những trường hợp thường xuyên được mời lên đồn công
an “làm việc”; các hoạt động tôn giáo bị giám sát chặt chẽ; các lễ hội và nghi
thức làm lễ tôn giáo bị cắt ngang; các vụ giữ tại nhà, đôi khi trong thời gian
dài; các vụ bỏ tù, đôi khi cũng trong cả một quãng thời gian dài; các vụ đánh
đập và hành hung; bị mất việc làm; mất phúc lợi xã hội; gây áp lực đối với
những người trong gia đình; hành động phá hoại; phá dỡ những nơi thờ tự, nghĩa
trang và các nhà tang lễ; tịch thu tài sản; gây áp lực một cách có hệ thống để
phải từ bỏ một số hoạt động tôn giáo nhất định và chuyển sang hoạt động theo
các kênh chính thức được thiết lập cho việc thực hành tôn giáo; và gây áp lực
để bắt từ bỏ tôn giáo hay tín ngưỡng. Tôi cũng đã gặp một tù nhân lương tâm tại
trại giam nơi đang thụ án.”
Trong thâm tâm CSVN
Ngoài ra ông Bielefeldt cũng nêu ra nhiều điều
“mơ hồ” của Hiến pháp, luật pháp hay các văn kiện liên quan đến thực thi quyền
tự do tôn giáo, tín ngưỡng nhằm hạn chế tối đa quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Những nhóm chữ như: “lợi ích xã hội”, “lợi dụng”,
“pháp luật Việt Nam”, “không phù hợp với lợi ích chính đáng của số đông” v.v..
đã được các viên chức Chính phủ đưa ra để bảo vệ cho quyền kiểm soát các hoạt
động tôn giáo.
Nhìn chung tất cả những đánh giá càng ngày càng
tồi tệ về các quyền con người, đặc biệt quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt
Nam của ông Heiner Bielefeldt rất chính xác. Những “hầm chông” và “bãi mìn” đã
được đảng CSVN gài đặc trong Hiến pháp khi nói về Quyền con người luôn luôn có
sợi dây thòng lọng “do pháp luật quy định” theo quy định của pháp luật” hay “do
luật định”!
Những Nghị quyết, Nghị định, Pháp lệnh, Chỉ thị
liên quan đến hoạt động Tôn giáo đã chồng chéo lên nhau với muôn vàn những hạn
chế, điều kiện bắt buộc chỉ cốt làm mất đi hiệu lực của Hiến pháp, bộ Luật cao
nhất của Quốc gia.
Và ai cũng biết từ lâu, nhà nước Việt Nam thường
đưa ra những con số tu viện, chủng sinh, nhà thờ, thánh thất, đền, chùa, tu sĩ
và số người đi lễ chùa, dự lễ nhà thờ của bổn đạo để phô trương Việt Nam có “tự
do tôn giáo” và quyền tự do thờ phượng của người dân được nhà nước nhìn nhận và
bảo vệ.
Nhưng trong đời sống thực tế thì đảng Cộng sản
vô thần Việt Nam chưa bao giờ chứng minh họ đã thật tâm muốn thấy Tôn giáo
“không phải là liều thuốc độc”, “không còn là thế lực thù địch”, không phải nằm
trong “âm mưu diễn biến hòa bình” của Đế quốc và những người có tín ngưỡng,
nhất là người theo đạo Công giáo và Tin lành cũng là những công dân như những
người khác không còn bị kỳ thị và theo dõi.
Và đến bao giờ thì đảng CSVN mới hết còn xuyên
tạc Công giáo và Tin lành là hai Tôn giáo được “địch lợi dụng” để chống phá
Đàng và Nhà nước như một Tài liệu được luân chuyển “nội bộ” ở Tỉnh Lào Cai,
ngày 24 tháng 12 năm 1998?
Cũng như thế, bao giờ ở Việt Nam mới có một Quốc
hội và một Đảng cầm quyền không còn ngót 100% người ghi trong lý lịch chữ
“KHÔNG” to tướng khi khai về Tôn giáo-Tín ngưỡng?
(08/014)
Chiến tranh biên giới Việt
Trung năm 1979
Battlefield Vietnam - Part 01: Dien Bien Phu
The Legacy
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P1)
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P2)
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P3)
|
|
HTTP://DANLAMBAOVN.BLOGSPOT.COM/2014/05/HANG-VAN-CONG-NHAN-BINH-DUONG-INH-
Hồi Trống Tự Do - Lê Hoàng Trúc (Le Hoang Truc)
|
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment