LỜI THÚ TỘI KINH HOÀNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Ông Thanh nói:”Trên thực tế, ngay ở
trong quốc gia hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống
chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ
hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi.” (Phùng Quang Thanh)
Ông Thanh ví cuộc tranh chấp như mâu
thuẩn trong một gia đình rất đúng. Về mâu thuẩn gia đình thì Tổng Bí thư Nguyễn
Văn Linh và phái đoàn của đảng CSVN đã xin cho Việt Nam được làm một khu tự trị
trực thuộc chính quyền Trung ương Bắc Kinh, và đã được “Phía Trung Quốc đồng ý
và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để
đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc “gia nhập
đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. (Hết trích)
Mâu thuẩn trong đại gia đình các dân
tộc Trung Quốc là hiện thực, Tây Tạng và Tân Cương là một chứng minh cụ thể.
GS Carl Thayer cho biết: “Giới chức
Việt Nam thường có thói quen nói chung chung và không đi vào cụ thể”, do đó ta
có thể nhận ra ‘mâu thuẫn gia đình’ nằm trong đại
gia đình các dân tộc Trung Quốc.
“Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm
đã bắt đầu”. Đó là lời xác nhận của một cán bộ Việt Cộng cao cấp thuộc Bộ Chính
Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Ngoại giao, đã tuyên bố
sau Hội nghị Thành Đô, Tứ Xuyên năm 1990.
Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố như thế thì
có thể tin tưởng được Hội nghị Thành Đô đã đưa Việt Nam vào thời kỳ Bắc thuộc.
Đó là đại sự của quốc gia cho nên ông không có thể nói chơi cho vui miệng, vì
lời nói có ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp chính trị của ông. Bị mất chức.
Bài nầy nêu những bằng chứng cụ thể
để chứng minh hoạt động của hai bên Việt-Trung trong chương trình 30 năm về mọi
mặt gọi là “đại cuộc”, và ngụy trang bằng cụm từ “16 chữ vàng”
Do kinh nghiệm ở hai khu tự trị Tây
Tạng và Tân Cương, chính quyền trung ương ở Bắc Kinh đã kiềm chế CSVN bằng cách
đã cấy sinh tử phù và đặt chiếc vòng kim cô lên đầu CSVN cho nên những tên Hán
ngụy hiện nay như cá nằm trên thớt, vô phương cục cựa.
Giang Trạch Dân đã cho CSVN thời gian
30 năm để tiến hành sự kiện vĩ đại đối với Việt Nam cho nên gọi đó là “đại
cuộc” và việc thực hiện chương trình 30 năm nằm trong khuôn khổ “16 chữ vàng”.
Vì thế cứ mỗi lần có tranh chấp thì Bắc Kinh khuyên nhũ Việt Cộng hãy vì “đại
cuộc”, và CSVN luôn luôn cam kết thực hiện 16 chữ vàng.
Tuyên bố của Phùng Quang Thanh thật
đúng là lời thú tội kinh hoàng đối với người Việt trong nước.
Cho dù Wikileaks không tiết lộ, xem
như không có biên bản đó, thì xuyên qua những hành động mà đảng CSVN đã thể
hiện và nhiều người đã xác nhận đó là hành động bán nước.
2* Đảng Cộng Sản Việt Nam xin được làm một khu
tự trị trực thuộc
Bắc Kinh
Bắc Kinh
Hàng trước từ trái sang: 1) Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư., (3)Phạm Văn Đồng,
(4) Nguyễn Văn Linh (bên phải Giang Trạch Dân),
5) Giang Trạch Dân (áo xám đứng giữa), 6) Lý Bằng, 7) Đỗ Mười, 9) Hồng Hà (bìa phải)
Wikileaks xác định văn kiện đó là một
trong 3,100 bức điện thư lưu trữ tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tài liệu chi tiết
như sau:
“Biên bản buổi họp kín giữa Nguyễn
Văn Linh , Tổng Bí Thư đảng CSVN, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại
diện phía Việt Nam, và Giang Trạch Dân, TBT/CSTQ, Lý Bằng, Thủ tướng, đã họp 2
ngày từ 3 và 4-9-1990, tại Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ”.
“Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng
Chủ Nghĩa Cộng Sản, đảng Cộng Sản và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc
giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố hết sức mình để
vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ
tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ.
Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị
thuộc chính quyền Trung Ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông,
Tân Cương, Tây Tạng, Quảng Tây”.
“Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận
đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN “giải
quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc
TrungQuốc”. (Hết trích)
3* Bí mật của chương trình 30
năm sát nhập Việt Nam vào Trung Cộng
Hội nghị tái lập bang giao giữa hai nước
được tổ chức công khai vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại Thành Đô, Tứ
Xuyên, nhưng nội dung CSVN xin được sát nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung
Quốc là bí mật.
Cho mãi đến khi Wikileaks phổ biến
tài liệu mật đó thì người Việt ở nước ngoài mới biết đến, nhưng đối với đa số
người trong nước thì nó vẫn còn là một bí mật. Vì thế, để lừa bịp nhân dân Việt
Nam, chương trình 30 năm mà hai đảng Cộng Sản nầy thực hiện được ngụy trang
dưới những từ ngữ mỹ miều như “đại cuộc”, “phương châm 16 chữ vàng”, “hợp tác
chiến lược toàn diện”, “Ủy ban Chỉ đạo Hợp tác toàn diện”…
Những cụm từ nêu trên là cái nhãn
hiệu che giấu chương trình 30 năm ở Thành Đô.
Wikileaks không phải là căn bản để
đánh giá, nó không phải là bằng chứng, cho nên có nó hay không có nó không quan
trọng, mà hành động cụ thể là CSVN thi hành đối với Trung Cộng mới chính là
bằng chứng bán nước. Hành động bán nước của đảng CSVN được xác định qua những
hành động cụ thể một cách chính thức bằng những văn bản của những tuyên bố
chung và hành động mà Đảng CSVN đã làm.
4* Sự ra đời của “16 chữ vàng”
4. 1. Bước mở đầu
Tháng 11 năm 1991, sau hội nghị Thành
Đô, lãnh đạo cao cấp hai đảng, hai nước liên tiếp thăm viếng lẫn nhau. Sự giao lưu,
hợp tác giữa hai bên về các lãnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học kỹ
thuật, văn hoá… được mở rộng, nâng lên tầm cao là bước đầu của việc hội nhập.
Trung Cộng cho biết con đường hợp
nhất của hai nước vô cùng thuận lợi vì đó là những đặc thù về địa lý tự nhiên,
chế độ chính trị, văn hoá, xã hội và vận mệnh của hai dân tộc, của hai đảng
được xem như một.
“Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương
thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan”
Việt Trung tuy hai mà một, tương nhập
là lẻ tất yếu và hợp tình, hợp lý.
4.2. Trung Cộng khởi tạo phương châm
16 chữ vàng
Tiếp tục thúc đẩy tiến trình bí mật
30 năm Thành Đô, Giang Trạch Dân đưa ra chiêu bài để ngụy trang là phương châm
16 chữ vàng. Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu nhất trí ngay và cam kết luôn luôn thực
hiện với quyết tâm cao độ để hoàn thành “đại cuộc” đó.
Thế là phương châm 16 chữ vàng ra đời
từ đó. Bản tuyên bố chung về 16 chữ vàng chính thức được Giang Trạch Dân và Lê
Khả Phiêu ký vào tháng 2 năm 1999.
16 chữ vàng:
Láng giềng hữu nghị (mục lân hữu
hảo), hợp tác toàn diện (Toàn diện hợp tác), ổn định lâu dài (Trường kỳ ổn
định), hướng tới tương lai (Diện hướng vị lai).
Tháng 11 năm 2000 khi tân Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh sang diện kiến thì Giang Trạch Dân nhắc đến và nhấn mạnh, phương
châm 16 chữ vàng là cái khung chỉ đạo căn bản và nhất quán để Việt Nam phát
triển quan hệ với Bắc Kinh. Cũng giống như những người tiền nhiệm, Nông Đức
Mạnh hạ quyết tâm thực hiện nội dung của 16 chữ vàng.
5* Thực hiện chương trình 30 năm trên
cơ sở 16 chữ vàng
5. 1. Nội dung chương trình
Chương trình 30 năm Thành Đô được các
đời Tổng bí thư CSVN ký kết qua những bản tuyên bố chung về hợp tác toàn diện
để Việt Nam hội đủ điều kiện sát nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
Hợp tác toàn diện về các mặt:
- Việc quản lý đảng, quản lý nhà nước
thông qua những cuộc thăm viếng của các lãnh đạo cao cấp hai bên.
- Giao lưu về các mặt: chính trị,
kinh tế thương mại, quân sự, văn hóa, hữu nghị nhân dân…từng bước nâng lên
tầm cao mới sẵn sàng cho ý nguyện hội nhập theo tinh thần của hội nghị
Thành Đô năm 1990.
5. 2. Những bước cụ thể đã được thực
hiện
5. 2.1. Hợp tác toàn diện về việc quản
lý đảng và quản lý nhà nước
Các lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà
nước hai bên liên tục có những cuộc viếng thăm quan trọng, không ngừng vun đắp
quan hệ hợp tác toàn diện, từng bước nâng lên tầm cao mới để đáp ứng “nguyện
vọng của nhân dân hai nước” là hội nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung
Quốc.
1). Những lãnh đạo Trung Cộng sang
thăm Việt Nam
Từ tháng 11 năm 1992 đến năm 2013 đã
có 8 lãnh đạo cao cấp Trung Cộng đến thăm và làm việc với lãnh đạo đảng CSVN.
Thủ tướng Lý Bằng (tháng 11 năm
1992). Chủ tịch Quốc hội Kiều Thạch Đàng (tháng 11, 1994 và tháng 3, 2002). Chủ
tịch nước Giang Trạch Dân (tháng 6, 1996). Thủ tướng Chu Dung Cơ (tháng 11,
1996). Thủ tướng Ôn Gia Bảo (tháng 12, 1996).
Từ 31-10 đến 2-11-2005 Hồ Cẩm Đào
kinh lý Việt Nam. Đó là chuyến viếng thăm cao cấp nhất, đầy đủ cương vị: Tổng
Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quân ủy TW, là bước ngoặt quan trọng thúc đẩy
Việt Nam hội nhập vào Trung Quốc.
Sau đó là viếng thăm của Tập Cận Bình
và Thủ tướng Lý Quốc Cường. Ngoài ra còn có nhiều lãnh đạo cấp thấp tới lui rộn
rịp.
2). Về phía lãnh đạo Việt Nam sang
chầu thiên triều
Tất cả những Tổng bí thư, chủ tịch
nước, Chủ tịch quốc hội và thủ tướng đều phải qua diện kiến lãnh đạo Trung
Cộng. Tổng bí thư, chủ tịch nước đều phải ký những bản Tuyên bố chung xác định
quyết tâm thúc đẩy, hợp tác toàn diện trên phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt mà
thực chất là hoàn tất chương trình 30 Thành Đô, sát nhập vào “đại gia đình các
dân tộc Trung Quốc”.
Ngoài những bản tuyên bố chung, Việt Nam bị bắt buộc phải thành lập “Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp Tác Toàn Diện” để làm việc một cách cụ thể với Ủy ban Hợp tác Toàn diện của Trung Cộng.
Phiên họp lần thứ tư, phiên họp lần thứ 5 Ủy ban Chỉ đạo Hợp Tác Toàn Diện
Vì sao phải thành lập ủy ban chỉ đạo
hợp tác toàn diện? Một quốc gia độc lập chỉ cần xác định chính sách ngoại giao
là đủ. Khi cần thì ký những hiệp ước, những thỏa thuận riêng biệt cho mỗi vấn
đề.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh (phải)
và thượng tướng Mã Hiểu Thiên
Việt Trung hợp tác toàn diện về quốc phòng
5. 2.2. Hợp tác toàn diện về kinh tế với
Bắc Kinh
1). Thiết lập những nguyên tắc luật
pháp căn bản về kinh tế
Năm 2005, trong số 44 hiệp định và
thỏa thuận về kinh tế và thương mại, Việt Nam và Trung Cộng đã có 20 văn bản
thỏa thuận làm căn bản pháp lý trong quan hệ giữa Việt Nam với các địa phương
bên Trung Cộng. Đó là: Hiệp định thương mại, Hiệp định mua bán vùng biên giới,
Hiệp định thành lập Ủy Ban Việt-Trung về kinh tế và thương mại.
Hiệp định giao thông đường sắt cao
tốc và đường bộ, đường hàng không để lưu thông hàng hóa giữa địa phương với
trung ương Bắc Kinh.
Từ ngày 1-1-2004 Việt Nam và Trung
Cộng thực hiện bãi bỏ thuế xuất, nhập khẩu. Các cặp cửa khẩu hai bên đã được
khai thông tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông tự do, mở ra một thời kỳ giao
lưu hàng hóa không biên giới giữa hai bên.
2). Kinh tế Việt Nam đã lệ thuộc vào
chính quyền trung ương Bắc Kinh
Hợp tác toàn diện về kinh tế thương mại
1. Về đầu tư xây dựng
Nhà thầu Trung Cộng hầu như thắng
thầu hầu hết những công trình quan trọng với loại thầu trọn gói EPC, còn gọi là
“hợp đồng trọn gói” hay “hợp đồng chìa khoá trao tay”. EPC là Engineering ,
Procurement and Construction. (Thiết kế, mua sắn, xây dựng).
Hiện nay có 90% gói thầu EPC được
giao cho Trung Cộng thực hiện, bao gồm những dự án lớn và quan trọng về năng
lượng (nhà máy điện), kim loại, hoá chất…điều nầy cho biết Việt Nam đã lệ thuộc
vào Trung Cộng rồi.
b. Trung Cộng chiếm lĩnh thị trường
Việt Nam
Tại hầu hết các chợ lớn như Đồng Xuân, chợ Hôm, chợ Ngã Tư Sở, chợ Xanh, chợ Long Biên, chợ Ninh Hiệp… tràn lan các mặt hàng Trung Quốc
Hàng hóa độc hại Trung Quốc chiếm lĩnh thị trường Việt Nam
Thương lái Trung Cộng xâm nhập vào
các vùng sâu, dùng thủ thuật giá, mua những thứ như cây tràm cỗ ở Quảng Ngãi,
và những thứ không biết để làm gì, nhưng đã để lại những tác hại vô cùng to
lớn. Đó là đánh phá thị trường VN.
Nông sản, thực phẩm, hàng công nghiệp
giá rẻ, mà không được kiểm soát về chất lượng, vệ sinh, an toàn, thậm chí có
những mặt hàng Trung Cộng mà dán nhãn sản xuất ở VN. Nhiều trường hợp dán cờ
Trung Cộng trên các sản phẩm bày bán ở các siêu thị VN.
Hàng hóa rẻ tiền của Trung Cộng chiếm
lĩnh thị trường Việt Nam, giết chết các công ty trung bình và nhỏ trong nước,
đưa đến công nhân thất nghiệp.
1. Nhập siêu của Việt Nam chứng tỏ lệ
thuộc kinh tế
Năm 2013, Việt Nam nhập khẩu hàng hóa
Trung Cộng (TC) 36tỷ 960 triệu USD, trong khi đó xuất khẩu chỉ có 13tỷ
960 triệu USD. Đó là nhập siêu. Sự chênh lệch về cán cân mậu dịch nầy khiến cho
VN phụ thuộc vào TC.
TS Lê Đăng Doanh nêu nhận xét: “Mức
nhập siêu to lớn nầy gây sức ép rất nặng khiến cho VN phụ thuộc vào TC: mất
ngoại tệ, mất thị trường trong nước, công nhân mất việc. Khi người dân mua hàng
hóa TC đồng nghĩa với việc trả lương cho công nhân nước nầy”.
5. 2.3. Hợp tác toàn diện về văn hóa
giáo dục
1).
Việt Nam cam kết giáo dục nhân dân về 16 chữ vàng và 4 tốt
Ngày 21-2-2013, Nguyễn Thiện Nhân, ủy
viên BCT dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao sang Bắc Kinh. Hai bên đã ký một thỏa
thuận hợp tác toàn diện cho giai đoạn 5 năm từ 2014-2019.
Nguyễn Thiện Nhân, cựu Bộ trưởng Bộ
Giáo dục, cam kết, với tư cách Chủ tịch Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Tổ quốc VN
(MT/TQ/VN), ông sẽ vận động quần chúng nhân dân thực hiện tốt 16 chữ vàng và 4
tốt để hoàn thành tốt thoả thuận của hai bên từ khi bình thường hóa năm 1990.
Ông Nhân cho biết MT/TQ/VN sẽ triển khai chức năng và nhiệm vụ mới trong Hiến
pháp 2013 là “giám sát phản biện xã hội” để tăng cường hiểu biết của nhân dân
Việt Nam với nhân dân Trung Quốc.
Việt Nam sẽ thực hiện Cung Văn hoá
Việt-Trung tại Hà Nội. Trong 15 năm, kể từ 2005 Việt Nam đã cử hơn 100 đoàn đại
biểu văn hóa trên các lãnh vực: báo chí, âm nhạc, điện ảnh, kịch nghệ, truyền
hình sang tham quan học hỏi và trình diễn ở Bắc Kinh.
2). Giáo dục thanh niên
Chủ tịch Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam (Nguyễn Thiện Nhân) và Bí thư Thứ nhất TƯ Đoàn Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Nguyễn Đắc Vinh giao lưu với các đại biểu thanh niên hai nước
Hữu nghị giữa hai đoàn thanh niên khu tự trị VN & Trung Quốc
Theo một
hiệp định, mỗi năm Trung Cộng cấp 130 suất học bổng cho sinh viên VN, đồng thời
VN chỉ cấp 15 học bổng cho sinh viên Trung Cộng, có nghĩa là Bắc Kinh đào tạo
cán bộ tương lai cho họ.
Việt Nam đưa
những đoàn thanh niên sang thăm viếng, hợp tác hữu nghị với thanh niên sắc tộc
của các khu tự trị. Nổi bật nhất là Liên hoan thanh niên VN-TQ được tổ chức vào
ngày 26-11-2013, 3,000 thanh niên do Nguyễn Thiện Nhân hướng dẫn tham dự liên
hoan. Trong diễn văn, ông Nhân cho biết: “Đây là dịp để thế hệ trẻ hai nước kết
chặt quan hệ hai đảng, hai nước, không ngừng đơm hoa kết trái, vun đắp tình hữu
nghị của hai dân tộc”.
Định hướng
dư luận, Lập Viện Khổng Tử, nằm trong hợp tác văn hoá giáo dục cho thanh niên.
16 chữ vàng
và 4 tốt là chiêu bài ngụy trang cho chương trình 30 năm để VN hội nhập vào đại
gia đình các dân tộc Trung Quốc, nói thẳng ra là chương trình bán nước của đảng
CSVN.
5.
2.4. Trung Cộng di dân vào Việt Nam
Bọn Tàu khựa
vào Việt Nam không cần Visa nhập cảnh, nên tự do đi luông tuồng như đi vào Tây
Tạng, Tân Cương, Mãn Châu, Nội Mông. Bọn họ đã có mặt trên khắp hang cùng ngỏ
hẻm của đất nước Việt Nam. Trong 65 khu chế xuất, khu công nghiệp, không nơi
nào vắng bóng người Hoa cả.
Chúng chiếm
đóng các vị trí chiến lược, từ việc thuê đất 306,000 hecta trong 50 năm
với giá rẻ mạt ở biên giới phía Bắc, từ Bauxite Tây Nguyên đến Cà Mau, có thể
thành lập nhiều sư đoàn của đạo quân thứ năm với những công nhân, mà thực chất
là binh sĩ, tình báo, đặc công. Họ nắm trong tay những bản đồ vị trí các nhà
máy điện, nhà máy quốc phòng, cơ xưởng…
Những người
di dân tạo lập thành những khu riêng biệt của người Hoa mà công an Việt Nam
không được vào đó để kiểm soát.
1). Khu phố
Tàu Bình Dương
Trung tâm thương mại Đông Đô Đại Phố (Chữ Tàu trên cổng vào)
Tờ Việt Báo tại hải ngoại có bài viết tựa đề: “Cờ Trung Quốc treo rợp Bình Dương: Dân Việt có nguy cơ mất đất”
Theo bài báo
thì “Cờ Trung Cộng treo tưng bừng tại Bỉnh Dương để mừng Quốc Khánh lần thứ 90
của Trung Cộng bởi vì người Hoa đang cư ngụ đông đảo ở Phố Tàu nơi đây.
Một bài viết
có tựa đề “Phố người Hoa, Rừng người Hoa, sòng bạc người Hoa,…và người Hoa” còn
đưa ra quan ngại rằng “trong một tương lai không xa, con cháu người VN sẽ không
còn được sống trên quê hương mình”.
Bài báo viết
tiếp:
“Sau Casino
của người Hoa ở Đà Nẳng chỉ dành cho người nước ngoài, lại đến khu phố dành
riêng cho người Hoa ở Bình Dương, nơi mà người Việt cũng không được bén mảng
tới. Vậy trong tương lai, người Việt sẽ chỉ được sử dụng một phạm vi bao nhiêu
bởi vì, biển, rừng, đô thị đều có bóng dáng của người Hoa.
Phố Tàu là
khu vực riêng biệt của cộng đồng người Hoa, người Việt khó chen chân vào. Phố
Tàu ở Bình Dương mang tên Trung Tâm Thương Mại Đông Đô Đại Phố, trong đó có một
trường Đại học quốc tế Miền Đông, một bịnh viện 1,000 giường, một khu phức hợp:
thể thao, hội nghị, tiệc cưới, một sân golf, các cửa hiệu thương mại và một khu
giải trí.
Bọn Tàu khựa
sinh hoạt theo phong tục tập quán của họ và luật pháp Việt Nam bị bỏ ra ngoài.
Nhân viên công lực VN không được vào kiểm tra cần thiết để nắm quyền kiểm soát
khu vực.
Ngay cả
nghĩa địa người Hoa ở Việt Nam cũng là một khu vực riêng biệt bất khả xâm phạm.
Vậy hỏi quyền lực quốc gia còn đâu nữa?
6* Những bản
tuyên bố chung của lãnh đạo CSVN
6.
1. Thỏa thuận 4 điểm của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh
Ngày
22-8-2006, Nông Đức Mạnh sang Bắc Kinh thúc đẩy tăng cường quan hệ toàn diện và
nhất trí với Hồ Cẩm Đào 4 khía cạnh:
Thứ nhất.
Lãnh đạo cao cấp hai bên phải duy trì “quan hệ gần gũi” thông qua
những cuộc viếng thăm cấp cao.
Thứ hai.
Quan hệ kinh tế thương mại phải được nâng lên nấc thang cao mới, cụ thể hơn.
Thứ ba. Vấn
đề lãnh thổ phải luôn luôn đạt được “sự đồng thuận”, bảo đảm ổn
định lâu dài. (Nếu đồng thuận thì ổn định)
Thứ tư. Hai
bên thống nhất về chính sách ngoại giao, quốc phòng để có nền tảng phát triển
bền vững và hữu nghị.
Năm 2009,
tỉnh Hải Nam và Việt Nam nhất trí hợp tác toàn diện về chiến lược quân sự.
(Tại
sao một quốc gia lại phải hợp tác với một tỉnh của quốc gia khác?)
6.
2. Bản tuyên bố chung của Nguyễn Phú Trọng và Hồ Cẩm Đào
ngày 15-10-2011
7.
Hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng,
mỗi nước.
8.
Phía Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng 90 năm thành lập
Đảng Cộng sản Trung Quốc vui mừng trước những thành tựu mang tính lịch sử dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
9.
Hai bên đã nhìn lại và tổng kết 20 năm kể từ khi bình
thường hóa quan hệ (1990), khẳng định tình hữu nghị đời đời Việt-Trung
là tài sản quý báu chung của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, cần được
không ngừng củng cố, phát triển, truyền mãi cho các thế hệ mai sau.( Thôn
tính tương lai)
10.
3. Bản tuyên bố chung của Trương Tấn Sang
Trong bản
tuyên bố chung ngày 21-6-2013 được ký bởi Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình, có
đoạn ghi như sau:
– Dân
sự: Đào tạo nhân dân, văn hóa, giáo dục, y tế, sản xuất, chế biến. Khai
thác lãnh thổ, lãnh hải, đất liền, biên giới, cửa khẩu, biển Đông, rừng núi,
đầu tư, khoa học, công nghệ, kinh tế, thương mại, môi trường, nông nghiệp, ngư
nghiệp, dầu khí, giao thông, vận tải và du lịch.
– Chính
trị: Xây dựng nguồn máy đảng, và nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tham vấn chính phủ, ban tuyên giáo, ban đối ngoại trung ương, ban lý luận, đào
tạo hữu nghị quân, dân, cán chính cao cấp.
– Quân
sự: Quân đội, quốc phòng, khí tài, an ninh, ngoại giao.
Kế hoạch
toàn diện qui định mỗi bộ phận đặt đường dây nóng tự quản và
kết nối quản trị Bắc Kinh.
(Đường dây
nóng tự quản với Bắc Kinh là nhận lịnh trực tiếp từ chính quyền trung ương ở
Bắc Kinh)
Ngoài ra,
đảng CS và nhà nước Việt Nam, ưu tiên để 4 tỉnh phía Nam Trung Quốc, như Vân
Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam được hưởng đặc quyền khai thác toàn
diện trên 7 tỉnh biên giới của Việt Nam, như Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà
Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Người Trung Quốc được hưởng qui chế “bất
xâm phạm” từ khi có mặt tại Việt Nam để thi hành công tác khai thác
toàn diện trên lưng người Việt Nam.
“Hai bên
nhất trí tăng cường hơn nữa sự hợp tác giữa các tỉnh, khu vực của hai
nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà
Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, hợp tác toàn diện với 4 khu tự trị của
Trung Quốc gồm có: Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam”.
Trước hết
Trung Cộng muốn Việt Nam hội nhập với 4 khu tự trị để trở thành 5 khu tự trị
gồm có: Mãn, Tạng, Hồi, Mông và khu tự trị mới là Việt Nam. Và cờ Trung Cộng
trở thành 6 ngôi sao mà VN đã dùng để chào mừng Tập Cận Bình vừa qua.
Thực tế là
chỉ có 3 tỉnh của Trung Cộng mà đòi hợp tác toàn diện với 7 tỉnh Việt Nam, tạo
điều kiện dễ dàng và hợp pháp cho thương lái, nhân viên Trung Cộng được đi khắp
mọi nơi để nắm tình hình các mặt, biết rõ địa hình địa vật, đường đi lối về,
tài nguyên, khoáng sản, đặc sản để khi cần thì xử dụng.
Trên
Facebook, nhà bình luận Trần Trung Đạo nêu nhận xét như sau: “Đọc bản tuyên bố
chung mới thấy số phận chùm gởi của CSVN phụ thuộc sâu xa vào cây cổ thụ già
Cộng Sản Trung Quốc đến mức độ nào. Sự khiếp nhược và ươn hèn thể hiện rõ đến
mức chỉ trong một văn bản 8 điểm mà có tổng cộng 29 lần “nhất trí”.
7* Cộng Sản
Việt Nam bị cấy sinh tử phù
Trung Cộng
đang nắm trong tay những con bài tẩy bằng văn bản chính thức đã được các lãnh
đạo CSVN ký và cam kết thi hành. Công hàm bán nước Phạm Văn Đồng chỉ là con bài
thứ nhất mà thôi. Những lá bài khác như biên bản bí mật ở Thành Đô năm 1990 và
những bản tuyên bố chung đã được ký kết như đã nêu trên.
Thiên la địa
võng đã bày ra để khống chế và trừng trị Hán ngụy Việt Nam nếu phản chủ. Các vị
trí chiến lược chủ yếu như rừng đầu nguồn, Lào, Campuchia, Tây Nguyên, hệ thống
giao thông cao tốc xuyên Việt…và những sư đoàn của đạo quân thứ năm dưới lớp áo
công nhân, thương nhân…khiến cho số phận của lãnh đạo CSVN thê thảm như con cá
nằm trên tấm thớt của Trung Cộng.
Khi Tập Cận
Bình niệm thần chú thì bộ tứ “hùng dũng sang trọng” vừa ôm đầu vừa gật đầu lia
lịa.
8* Vì sao
Trung Cộng không muốn đưa nội vụ ra tòa án quốc tế?
Ngày
2-6-2014 báo South China Morning Post tường thuật rằng ngày 1-6-2014 Thứ trưởng
Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh cho biết Hà Nội vẫn chưa quyết định bao giờ sẽ yêu
cầu toà án trọng tài quốc tế phân xử tranh chấp, nhưng nói đó là tùy thuộc vào
hành động của Trung Quốc.
Trước đó,
Nguyễn Tấn Dũng cũng cho biết là VN đã chuẩn bị bằng chứng cho hồ sơ pháp lý
nầy, nhưng mọi việc sẽ do Bộ Chính Trị quyết định.
Ông Trần
Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ lại lên tiếng là kiện chẳng ăn
thua gì.
Có thể dùng
câu “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm” để
biết bản chất của CSVN trong vấn đề nầy.
Vì sao Trung
Cộng không muốn nội vụ được đưa ra toà án quốc tế?
Không phải
TC sợ bị thua kiện, vì họ đã có khả năng vô hiệu hóa vụ kiện 100% bởi quyền phủ
quyết ở HĐ/BA/LHQ, mà cũng không phải vì Trung Cộng sợ dư luận quốc tế, vì nếu
sợ thì đã không làm ngang tàng như thế..
Điều mà
Trung Cộng mong muốn là “những mâu thuẩn trong gia đình” phải để gia đình giải
quyết. Tập quán Á Đông là nếu đưa chuyện nội bộ gia đình ra ngoài thì chẳng
khác gì “vạch áo cho người xem lưng”. Điều Trung Cộng muốn là Việt Nam phải là
một trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc mà Nguyễn Văn Linh đã lặn lội từ
Hà Nội đến Thành Đô để thỉnh cầu hồi năm 1990.
Đây là phép
thử, xem CSVN có đủ can đảm để thoát ra đại gia đình các dân tộc TQ đó không?
Nếu quan sát
kỹ những tuyên bố của Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Chí Vịnh và Trần Công Trục nêu
trên, thì có thể đoán được lãnh đạo CSVN vẫn còn hèn nhát, vì không dám phản
chủ, nên chỉ dám nói mà không dám làm. Hơn nữa Việt Cộng đã bị cấy sinh tử phù
và niền chiếc vòng kim cô lên đầu rồi thì chẳng còn hành động can đảm nào nữa
cả.
Hãy chờ xem!
9* Kết
luận
Giả sử như
Wikileaks không tiết lộ biên bản bí mật ở hội nghi Thành Đô năm 1990, hoặc xem
như không có nó, thì những hành động của đảng CSVN cũng đã bị lên án là bán
nước, hèn nhát vì đã đặt đất nước, dân tộc Việt Nam dưới tay bọn Trung Cộng. Sự
thật hiển nhiên đó không thể chối cãi được.
Việt Nam đã
lệ thuộc vào Trung Cộng từ lâu rồi. Ông Vương Gia Thụy, Trưởng ban Đối ngoại
Trung Cộng, đã nêu những bằng chứng cho thấy Việt Nam đã được sát nhập vào
Trung Cộng, như sau: “Việt Nam và Trung Quốc đã hợp tác chiến lược toàn diện.
Cơ chế xã hội giống hệt nhau. Con đường phát triển tương tự như một. Quan hệ
hai nhà nước ổn định và cùng một mục đích phát triển chấn hưng sự nghiệp Xã Hội
Chủ Nghĩa”.
Đảng CSVN là
tội đồ của dân tộc. Hãy đối chiếu với di chúc của vua Trần Nhân Tông thì thấy
rõ ngay. Nhà vua di chúc: “Cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Một tấc đất
của tiền nhân để lại cũng không để lọt vào tay kẻ khác. Ta để lời nhắn nhũ nầy
như là một lời di chúc cho muôn đời con cháu về sau” (Vua Trần Nhân Tông)
“Các vua
Hùng có công dựng nước. Đức Trần Hưng Đạo có công giữ nước để bác cháu ta tha
hồ bán nước!”.
Trúc Giang
"Cam kết Thành Đô" quá thơ
& ngây
Hạ Đình Nguyên
|
"...Gặp
nhau cười một cái quên hết oán thù"
|
Từ Hội nghị Thành Đô 1990, mối quan hệ hữu nghị
giữa đảng CS Việt Nam và đảng CS Trung Quốc trở nên đặc biệt một cách bất
thường, đến nỗi cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch gọi đây là khởi đầu của một
thời kỳ Bắc thuộc lần nữa:“Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm bắt đầu”
Đến nay, sau 24 năm nó vẫn còn là một bí mật –
toàn dân chưa ai biết, kể cả Quốc Hội, cả ủy viên Trung Ương đảng chưa chắc đã
biết. Chỉ có một vài tiết lộ của Thứ trưởng Trần Quang Cơ về cuộc đấu tranh
nội bộ gay gắt vào thời tiền hội nghị, qua hồi ký để lại của ông, nay thì ông
đã qua đời.
Hiện cái “kỷ yếu hội đàm Thành Đô, mang nhiều
ý nghĩa lịch sử” vẫn còn là một bí mật, nhưng không còn nguyên vẹn vì bị
sứt mẻ dần qua thời gian, nên chưa thể “biệt tăm” như cái hộp đen của chiếc
máy bay MH370 của Malaysia mất tích đâu đó ở đáy đại dương.
Ngoài vài điểm đã tiết lộ trong hồi ký của Trần
Quang Cơ, hồi ký của đại sứ Trung Quốc, sự tiết lộ của báo Hoàn Cầu TQ,
và một ít từ Wikileaks, nhưng đều không thể xem là chính thức hay
chính xác, dù có rõ mười mươi đi nữa, trừ phi Đảng CSVN công bố chính thức
để minh bạch công và tội. Nhưng lãnh đạo đảng CSVN vẫn để mặc cho dư luận đồn
đoán.
Vậy, trong khi chờ đợi sự bạch hóa đó, chúng ta
có thể góp phần giải mã bí mật Thành Đô qua phương diện “thơ” xuất phát từ hội
nghị. Những dòng thơ nầy thì không có gì để phải hoài nghi.
Theo hồi ký được đăng tải của vị Đại sứ TQ (1),
người đã có mặt với vai trò xuyên suốt hội nghị, đã mô tả: ban đầu trên chiếc
chuyên cơ bí mật của đoàn cao cấp Việt nam sang Thành Đô là nặng trĩu không
khí lo âu căng thẳng, nhưng khi kết thúc hội nghị là sự hoan hĩ tràn ngập của
hai bên. Sau khi 2 bên ký kết vào văn kiện, Giang Trạch Dân đã đọc tặng hai
câu thơ (của Giang Vĩnh-đời nhà Thanh):
“Độ tận kiếp ba huynh đệ tại,
Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu”
(Trải qua cơn sóng gió, tình anh em vẫn còn.
Gặp nhau cười một cái quên hết oán thù)
Thủ tướng Đỗ Mười rất đắc ý, trên đường về cùng
chuyến bay, đã yêu cầu ông Đại sứ nầy dịch và viết lại âm Hán-Việt và chữ Việt
2 câu nầy, ông càng đắc ý hơn. Sau khi về Việt Nam, ông TBT Nguyễn Văn Linh
ngẫm nghĩ càng sảng khoái, bèn sáng tác :
“ Huynh đệ chi giao sổ đại
truyền
Oán hận khuynh khắc hóa vân yên
Tái tương phùng thời tiếu nhan triển,
Thiên niên tình nghị hựu trùng kiến”
(Anh em chơi với nhau đã mấy thế hệ.
Oán hận trong khoảnh khắc đã biến thành mây
khói.
Khi gặp lại nhau cười rạng rỡ.
Tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại )
Niềm vui thơ phú trong chốc lát của 2 vị đứng
đầu Đảng và Nhà nước ngang giá hàng triệu sinh linh Việt Nam đã ngã xuống vì
cuộc chiến đấu 74-79- 84-88. Bao nhiêu thanh niên 18-20, đã hy sinh trong rừng
sâu, trong làng mạc, ngoài biển cả… và nổi đau của cha mẹ , bao nhiêu gia đình
mất cửa nhà, tài sản, tất cả hóa thành không, bởi vì “anh em ‘chơi’ với
nhau, gặp nhau cười rạng rỡ”. “Oán hận ‘trong khoảnh khắc’ đã thành mây
khói”…Với ảo tưởng điên rồ, bốc đồng “tình nghĩa ngàn năm xây
dựng lại”
Giờ đây chúng ta không còn gì để thắc mắc, vì
sao bia kỷ niệm chiến sĩ bị đục bỏ, không được nhắc tới, không làm kỷ niệm
những ngày lễ, và đàn áp thẳng tay, đánh dã man, bỏ tù những người biểu tình
yêu nước, thanh trừng, triệt hạ, loại trừ những “đồng chí” khác ý kiến…!
Ông Nguyễn Trung đã nhận định rằng (2):
“Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của
Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên
trường quốc tế, nhất là về các nước XHCN Đông Âu, tình hình Liên
Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc
đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa
ra những quyết định rất sai lầm”.
Nhưng cho dù sự hạn chế tầm nhìn thế nào đi nữa,
cũng không thể đắm đuối với niềm tin quá dễ dàng về cái nhìn lịch sử của hằng
ngàn năm từng va chạm cho cuộc sống còn. Vậy nó xuất phát từ đâu ? Về cá nhân,
người ta thường gọi đó là tính “kiêu ngạo cộng sản”. Về xã hội, là thể
chế độc tài mà quyền lực nằm gọn trong tay một nhóm người, --lãnh
đạo chủ chốt-, bộ máy đảng-nhà nước chỉ còn là hệ thống kèn trống tồn
tại để ăn theo, không hơn không kém.
Niềm sảng khoái văn thơ nầy, có thể gọi là thơ
ngây, ngây ngất, và ngây ngô mà đầy tai họa. Nhưng chưa hết. Loại thơ độc hại
nầy còn phát tiết, chảy dài theo 2 thập niên sau, kéo theo “anh em chơi với
nhau nhiều thế hệ”
Đó là 2 bài thơ, mang tính chất phương châm, có
nghĩa là cương lĩnh, mỗi bài 4 câu, 16 chữ dùng cho mỗi thập niên. (theo tiết
lộ của Wikileaks là thời gian thực hiện trọn vẹn “Kỷ yếu hội đàm Thành Đô” mà
Ông Đại sứ TQ gọi là mang nhiều ý nghĩa lịch sử, được quy định là
3 thập niên).
Theo âm Hán-Việt, đó là “Thập lục tự phương
châm” (phương châm 16 chữ), được đảng CSVN công khai, đón nhận như
một món quà vô giá từ sản phẩm Thành Đô.
- Phương châm 1 định hình tư tưởng, có giá
trị như một slogan, một tuyên ngôn của văn kiện, do Giang Trạch Dân sang Hà
nội triển khai, vào tháng 11-1991:
“Sơn
thủy tương liên.
Lý
tưởng tương thông
Văn
hóa tương đồng
Sinh
mệnh tương quan”
- Phương châm 2 chỉ đạo hành động cụ
thể, sau 10 năm thành tựu bước 1 căn bản , để tiến hành 10 năm bước 2, do
Giang Trạch Dân chính thức công bố cùng Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu, vào tháng
2-1999 :
Mục
lân hữu hảo (láng
giềng tốt)
Toàn
diện hợp tác (hợp
tác tốt )
Trường
kỳ ổn định (ổn đinh tốt)
Diện
hướng tương lai (tương lai tốt)
Phía Việt Nam đã đồng thuận triệt để, tích cực
thực hiện và Việt-hóa một cách tài tình với sự trân trọng, phương
châm tư tưởng thành “16 chữ vàng”, phương châm hành động,
thành “4 tốt”. Và đã triển khai giáo dục cho toàn quân tòan dân.
Chỉ cần suy ngẫm từ hai phương châm nầy, so với
thực tế diễn ra trong 24 năm qua, thì mọi sự khớp nhau, sáng tỏ như trăng rằm.
Quả thực, hai phương châm cực kỳ thâm hiểm do
Trung Quốc đặt ra, trong chiến lược xâm lăng văn hóa bằng “sức mạnh
mềm” của họ, tầm quan trọng hơn cả tuyên bố “hải phận Trung Quốc” của Trung
Nam Hải trong chiến lược xâm lăng pháp lý và ngoại giao.
Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã “tán
thành” và “chỉ thị cho các cấp thi hành”, đã gây nên nổi nhức nhối ngày nay về
chủ quyền biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa, dẫn đến giàn khoan HD 981. Đó là mặt
cụ thể.
Về sức mạnh mềm,“mười sáu chữ vàng” và “bốn
tốt” thì được tiếp nhận hồ hởi và triển khai triệt để tận tình, đã đập
thẳng vào mặt nhân dân, đâm thẳng vào trái tim của lịch sử, có sức
công phá tận nền tảng tư tưởng - văn hóa của dân tộc, mà trên cơ sở đó, Việt
Nam đã tồn tại mấy ngàn năm như một quốc gia riêng biệt. Điều đáng kinh ngạc
cho toàn bộ dân tộc Việt Nam, hai phương châm nầy đã thong dong xuyên thủng và
băng qua từng tập thể lãnh đạo của các thời kỳ Bộ Chính Trị và Trung ương
đảng, xuyên thấu các cấp đảng đến tận cơ sở, và ngự trị trên diễn đàn tư tưởng
cả nước trong suốt thời gian hơn 2 thập kỷ qua. Không có một phản ứng nào đáng
kể, từ những nhà văn hóa, sử gia, giáo sư và hằng đống tiến sĩ, (kể cả nhân sĩ
trí thức ?), và báo chí. Là tại sao ? (...)
Mười sáu chữ VÀNG và bốn TỐT đã đi ngược lại,
đến mức phủ định một cách đau xót “nền tảng tinh thần” của Quốc gia mà Nguyễn
Trãi đã khắc họa qua 4 câu, cả dân tộc kiêu hãnh và không ai dám
quên, khi khẳng định mình là người Việt Nam.
“Như Nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Nước non bờ cõi đã chia.
Phong tục Bắc Nam cũng khác”.
Khẳng định tính độc lập của một quốc gia mới là
ngàn năm, chứ không phải hữu nghị là “ngàn năm” (tình nghĩa ngàn năm xây
dựng lại) như thơ của TBT Nguyễn Văn Linh.
Càng nghĩ, càng đau về phương châm nầy, nó ngang
nhiên hơn cả chiếc giàn khoan HD 981 . Nó đối chọi trực diện với 4 câu cô
đọng, nén chứa toàn bộ tinh thần và sức mạnh của một dân tộc. Cái đau nằm ở
tính thâm độc của đối phương đã đành, càng làm nhói tim mọi người, khi mà nó
được sự đồng tình đến mức triệt để, nâng lên thành vàng của chính đảng CSVN !
Một đảng vốn ra đời và tồn tại với sứ mạng là để cứu nước, giữ độc
lập chứ không phải để làm điều gì khác.
Bình tâm mà so sánh, xem xét lại kỷ,
4 câu xuất phát từ gan ruột, trí tuệ của Tiền nhân ta, và 4 câu mà Đảng mang
về.
Ai là kẻ đã Việt- hóa thành phương châm “16
chữ vàng” và “4 tốt” ? Rất dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ lan truyền
trong nhân dân- (như lời “chỉ đạo” viết văn kiện của TBT Nguyễn Phú Trọng
mới đây, cho hội nghị Trung ương sắp tới ).
Mỗi câu trong 4 câu của phương châm vừa bóng bẫy
nhẹ nhàng, lại hàm súc, phủ định một cách trọn vẹn tính độc lập của quốc gia,
cả về phương diện vật thể cũng như phi vật thể, tạo nên một tiến trình đồng
hóa ngọt ngào, êm ả. Ý thơ của nó thâm và êm như lưởi dao phẫu
thuật, cắt thẳng vào mạch nguồn tồn tại của dân tộc, mà nạn nhân không một
chút phản ứng.
- Sơn thủy tương liên. Núi sông
trùng điệp nối liền nhau, là cái vui và thuận lợi của kẻ mạnh, sao kẻ yếu
không lo, lại mừng như được vàng, lại vô tâm cứ như xem một bức tranh đẹp ?
Chẳng phải đời Tần của Trung Quốc đã từng không tiếc máu xương sinh mạng của
dân mà xây Vạn Lý Trường Thành, ngăn sông chắn núi để ngăn quân ngoại xâm từ
phương bắc tràn vào ? Bởi cái tương liên nông nổi đó mà ngày nay,
sau 24 năm đường xe, đường tàu thông thống chạy qua, hàng độc hại, xe tăng có
thể lao qua như nước từ trên cao ào ào đổ xuống. Đóng cửa, mở cửa là do họ chứ
không phải ta.
Ai có mưu đồ sâu độc muốn xóa tan bờ
cõi của ta ? Ai là kẻ mơ màng mịt mù hữu hảo? Vì cái gì che
mắt, để không nhìn thấy cạm bẫy của "tương liên" vốn có một
chiều và thảm hại.? Còn đâu sự tự tin và khẳng định đầy cương quyết : “Như
nước Đại Việt ta từ trước !” “Nước non bờ cõi đã chia”- Và “Sách
Trời đã định” (Tuyệt nhiên định phận tại Thiên thư- Lý
Thường Kiệt).
- Lý tưởng tương thông. Đó là
gì ? Là cùng nhau một ý thức hệ chủ nghĩa Mác-Lê, Mao, Đặng, Giang, Hồ,Tập..?
Là xóa bỏ Tổ Quốc, Lịch sử, Dân tộc, như bài ca: “Chờ ngày xóa tan biên cương,
loài người sống thân yêu..”, “Vô sản thế giới hãy đoàn kết lại”…Nhân loại
có ai còn tin vào những lời nầy có thể là hiện thực, bằng con đường bạo lực
mông muội của ý thức hệ Cộng sản, vừa thô thiển vừa viễn mơ ? Và còn ai trong
đảng Cộng sản Việt Nam hôm nay thật sự tin điều nầy ? Và kể cả đảng Cộng sản
Trung Quốc ? Chắc chắn là không một ai !
“Lý tưởng” nầy đã trở thành một sự “dối trá hoàn
hảo” của cả hai bên :dối mình, dối người, dối cả nhân dân hai nước, trong
khi nhân loại thấy rõ đó là một vở kịch bi hài dai dẳng, đáng tiếc cho một kẻ
khờ. Một bên thì dối mà được cả, còn một bên dối kia, chỉ để tự nguyện đánh
mất mình ! Sao lại tự xóa bỏ “Một nền văn hiến đã lâu” để thay vào
một thứ hư ảo không có thật ?
- Văn hóa tương đồng. Văn hóa “cùng
giống như nhau”, thì từ lâu đã bị đồng hóa, làm gì còn đất nước này, mà
đảng Công Sản Việt Nam “nhân danh” để đi cứu nước? Phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, nhân sinh quan, giống loài đều khác. Nguyễn Trãi đã khẳng định cái
riêng biệt để tồn tại : “phong tục Bắc, Nam cũng khác”. Chính đảng CSVN
cũng đã nêu “hòa nhập chứ không hòa tan” khi mở đầu cuộc đổi mới kinh tế theo
hướng thị trường trước đây. Thì ra, chỉ lo đối phó với phương Tây mà ôm phương
Bắc theo phương châm đã được chỉ đạo, cùng với định hướng đi kèm “thế lực thù
địch”, nhằm vào những ai không ôm chân phương Bắc.
- Sinh mệnh tương quan, là một kết
thúc ngọt ngào, cùng “sống chết có nhau”. Thế mà nó lại tương khắc, lại
chẳng bao giờ do ta gây ra!
Sự cố kết nầy được triển khai, thực hiện theo
bốn tốt, qua từng thông cáo chung của mỗi triều Bộ Chính Trị, cái mới nhất là
do TBT Nguyễn Phú Trọng ký với Hồ Cẩm Đào “hợp tác toàn diện và chiến
lược”.
Quả chín chỉ còn chờ ngày rơi rụng, Tập Cận Bình
lại muốn nhanh hơn, cố đóng vai người hùng trong “Giấc mơ Trung Hoa” để kết
thúc thập niên thứ 3 trong kế hoạch 30 năm Thành Đô. Thế là giàn khoan HD 981
rất oai hùng xuất hiện ngang nhiên, hoành tráng ở thềm lục địa Việt Nam.
Ngọn gió xoay chiều
Sự hiện diện của HD 981 từ ngày 1-5, là bất ngờ
đầy kinh ngạc làm BCT Việt Nam á khẩu, nín thở suốt 10 ngày. Nhân dân sục sôi
và nổ ra cuộc biểu tình ngày 11-12/5 như chưa từng có trong 40 năm qua. Ngày
18 lại hứa hẹn một cuộc biểu tình tự phát trên khắp nước, thì bị ngăn chận và
trấn áp trong trứng nước. Thông tin đã bùng phát khắp trong nước và thế giới.
Bộ mặt bành trướng không thể nào che đậy được nữa. Vì liên quan đến biển đảo
nên xuất hiện Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, làm vấn đề càng trở thành
gai góc, bộc lộ mối quan hệ không lành mạnh giữa Việt Nam- Trung Quốc, kéo
theo “bí mật Thành đô” được “hoài nghi” ngày càng lớn, về mối quan hệ bất
chính tập thể của đảng cộng sản Việt Nam đối với đảng Cộng sản Trung Quốc. Nó
ngày càng trở nên trầm trọng hơn, hầu như “khó nói” của đảng Cộng Sản Việt
Nam.
Nếu đem những thông tin đã được tiết lộ, cùng
với “16 chữ vàng” và “4 tốt”, so sánh với thực tế diễn ra trên khắp
đất nước của 24 năm qua, từ khi ký kết Thành Đô, thì lại vô cùng ăn khớp. Nó
là một tiến trình logique từ lý thuyết sang hành động, thể hiện thật sự là
“hợp tác chiến lược và toàn diện” theo cách “hòa tan”, đang rất cần sự “biện
hộ” chân thành của Đảng.
Đang có yêu cầu bức bối trong nhân dân,
tiêu biểu qua tiếng nói của 61 cựu đảng viên, của Thiếu tướng Lê Duy Mật, của
Đại tá Nguyễn Đăng Quang bằng thư chính thức đòi Trung Ương phải “bạch hóa” hồ
sơ Thành Đô ngay trong kỳ hội nghị TƯ lần nầy.
Gió xoay chiều chính là sự thức tỉnh của toàn
dân, và cả thế giới đều thấy, một liên minh quốc tế chống bành trướng là vấn
đề của thời đại, không thể đảo ngược.
Nói đúng hơn, nay chỉ là chờ đợi sự công bố
chính thức, bạch hóa nó trước nhân dân, trước lịch sử, cũng đồng thời là đòi
hỏi thái độ công khai chính thức về sự thật và cách ứng xử của đảng Cộng sản
Việt Nam đối với sự kiện nầy.
Trong hội nghị Trung Ương lần thứ 10 tới đây, nếu
tổng kết 30 năm được và mất, mà không đề cập đến vấn đề nầy, thì giá trị
của tổng kết ấy khá vô nghĩa.
Để kết luận, xin mượn lời của Đại tá Nguyễn Đăng
Quang (3):
“Nhân dân rất kỳ vọng một trong các quyết sách
này là Đảng sẽ báo cáo cho toàn dân biết sự thực về mối quan hệ với TQ trong
1/4 thế kỷ qua, trong đó có vấn để Thành Đô năm 1990, kèm theo một lời
(nên là mộthành động- người viết) tạ lỗi chân thành ! Nếu đúng
thì đây sẽ là một trong các quyết định dũng cảm, hợp lòng dân và quan trọng
nhất trong lịch sử tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Nên là một hành động xin lỗi theo cách mà người
Nhật đã làm, xin lỗi thay cho tiền nhân đã có hành động sai trái với dân
tộc khác, từ đó đứng thẳng lên để nâng cao phẩm chất của mình và
xây dựng lại sức mạnh nội lực của dân tộc./.
HĐN 10-8-2014
DienDanCTM
Coi
Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu
Lửa trong Vùng đất của
Tuyết: Các vụ tự thiêu ở Tây Tạng
|
Lửa trong Vùng đất của Tuyết: Các vụ tự thiêu ở Tây
Tạng
|
||||
View on www.youtube.com
|
Preview by Yahoo
|
||||
Bà con hãy tìm
đường chạy ra nước ngoài cho sớm như hồi 1975 kẻo bọn Tàu cộng đến
cai trị thì chạy không kịp nữa!
Một vị ni sư bị đối
xử tàn nhẫn:
Coi Tây Tạng trong
tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu ...
https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=kpc3wmwKit0
Chiến tranh biên giới Việt Trung
năm 1979
http://www.youtube.com/watch?v=eEBkpsCwsDY
Battlefield Vietnam
- Part 01: Dien Bien Phu The Legacy
http://www.youtube.com/watch?v=eQdFGr7NQ4o&list=PLCABD020D6B200061
SBTN
SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P1)
https://www.youtube.com/watch?v=NTZGFJyF2pQ
SBTN
SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P2)
https://www.youtube.com/watch?v=LSpiyHxlK5I
SBTN
SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI ÁC CỘNG SẢN (P3)
https://www.youtube.com/watch?v=P2Zbrz4iJbc
http://baomai.blogspot.com/2014/07/tham-dot-ngu-khong-loi-thoat-cua-cong.html
http://baomai.blogspot.com/2014/07/ve-van-hoc-mien-nam-1954-1975.html |
Văn
học và chính trị
|
http://baomai.blogspot.com/2014/07/van-hoc-va-chinh-tri.html
Israel: Một đất nước thần kỳ
|
http://baomai.blogspot.com/2014/07/israel-mot-at-nuoc-than-ky.html
Đừng sống bằng sự dối trá
|
http://baomai.blogspot.com/2014/07/ung-song-bang-su-doi-tra.html
|
HCM chính là thiếu tá Hồ Quang thuộc QĐND Trung Cộ...
|
http://baomai.blogspot.com/2014/07/hcm-chinh-la-thieu-ta-ho-quang-thuoc.html
Ha ha ha !
http://lh3.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
Hố hố hố !
http://lh6.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
Không biết làm thịt em nào trước
đây?
http://lh4.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
http://lh4.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
xem thêm
HTTP://DANLAMBAOVN.BLOGSPOT.COM/2014/05/HANG-VAN-CONG-NHAN-BINH-DUONG-INH-
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment