Tại sao Việt kiều ( người việt tỵ
nạn ) dám nói thật?
2912 Tang Lễ Ca Nhạc Sĩ
Việt Dũng Thánh Lễ Và Lễ Hạ Huyệt
https://www.youtube.com/watch?v=zPbl-KLZbME
Posted by adminbasam on 08/08/2014
GS Nguyễn Văn Tuấn
Ở nước ngoài, không có
một Nhà nước nào dám nghĩ đến việc kiểm soát tư tưởng, theo dõi suy nghĩ của
người dân. Nhưng Việt Nam có cả một bộ máy từ trung ương đến địa phương chuyên
theo dõi tư tưởng và suy nghĩ của người dân. Bộ máy này thậm chí còn muốn có mặt
trong đầu của dân để kiểm soát tư tưởng trước khi người dân phát biểu. Do đó,
không ngạc nhiên khi người dân sống trong lo sợ.
08-08-2014
Hôm qua đọc được
bài phỏng vấn này (1) mà tôi nghĩ là hay, nên sáng nay có cảm hứng viết vài
dòng bình luận. Ông Nguyễn Như Mai (người được phỏng vấn) tỏ ra là người am
hiểu điều kiện làm việc ở nước ngoài, và cũng hiểu nguyện vọng của những du học
sinh muốn ở lại nước ngoài. Hiếm thấy ai ở trong nước có cái nhìn công tâm như
ông. Câu mà ông nói theo tôi là thành thật nhất và đúng nhất là câu này: “[…]
chỉ những người đã học ở nước ngoài mới dám nói: Ở nước ngoài họ được sống thực
với mình, dám nói điều mình nghĩ. Trong khi về nước, lại phải giấu giếm ý nghĩ
của mình, hoặc phải lựa chiều nói dối, không thực lòng. Đâm ra họ sợ.”
Tại sao người Việt
ở nước ngoài dám nói điều mình nghĩ, còn đồng hương trong nước thì không dám?
Tôi nghĩ đến sự khác biệt về những yếu tố liên quan đến tự do tư tưởng, tự do
học thuật, sự tiếp cận thông tin, và thói quen đặt câu hỏi. Những yếu tố này,
theo tôi, giải thích tại sao người Việt ở nước ngoài sống thật với mình hơn là
người Việt ở trong nước. (Khi tôi nói “nước ngoài” tôi đề cập đến các nước như
Tây Âu, Bắc Mĩ, Úc).
Thứ nhất là tự do tư tưởng được luật pháp bảo vệ. Ở nước ngoài,
công dân có quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, và các quyền này được luật
pháp bảo vệ. Luật pháp Úc viết rất rõ rằng công dân có quyền có ý kiến, cho dù
ý kiến đó khác với ý kiến của đa số, mà không bị ai can thiệp và ngăn cấm. Ý
kiến có thể là qua nói, viết sách và trên internet, hoạ, điêu khắc, v.v. Do đó,
công dân có quyền phát biểu về bất cứ vấn đề gì mà họ quan tâm. Dĩ nhiên, tự do
cũng có giới hạn, nhưng sự giới hạn đó được luật pháp minh định. Có những
chuyện xảy ra làm tôi ngạc nhiên. Ví dụ như có lần một giáo sĩ Hồi giáo trong
một bài giảng đạo ông một cách gián tiếp ủng hộ những người tham gia khủng bố ở
Trung Đông [theo tôi hiểu]; ấy thế mà khi ra toà, ông được tuyên bố vô tội, vì
toà phán ông có quyền bày tỏ quan điểm! Thật khó hiểu, nhưng sự việc rõ ràng
thể hiện một sự tự do ngôn luận và tự do tư tưởng. Mỗi ngày, mở bất cứ tờ báo
nào, bật tivi, mở radio, công chúng nghe những ý kiến phê bình Chính phủ, phê
phán thủ tướng và bộ trưởng, thậm chí có người làm show hài đễ diễu cợt các
chính khách. Đừng nghĩ các chính khách không theo dõi; họ cũng có xem và nghe,
nhưng không làm gì được người dân vì họ có quyền phát biểu.
Còn ở Việt Nam tuy
rằng hiến pháp có ghi tự do ngôn luận và vài thứ tự do khác, nhưng hình như
chưa đề cập đến tự do tư tưởng. Hiến pháp ghi rằng “Công dân có quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình.”
Nhưng hài hước một điều là ngay sau câu đó thì cũng Hiến pháp thòng theo một
câu “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Vả lại, quyền tự do
chỉ có giá trị trên giấy, vì trong thực tế những gì xảy ra không đẹp như ghi
trong Hiến pháp. Các cá nhân phê phán đường lối chính sách của Nhà nước đều bị
xách nhiễu hay thậm chí nặng hơn là bị bỏ tù. Cán bộ công nhân viên phê bình
Nhà nước thì bị trù dập hoặc kỉ luật. Hai chữ “phản động” được gán ghép một
cách tuỳ tiện cho những ai có suy nghĩ khác với Nhà nước và đảng. Tôi không
nghĩ ra được ở nơi nào trên thế giới mà bỏ tù người yêu nước chống quân xâm
lăng, nhưng VN lại làm chuyện đó!
Thứ hai là tự do
học thuật. Đối với sinh viên và nghiên cứu sinh hay những người làm việc trong
môi trường đại học thì tự do học thuật (academic freedom) là một “ngôi đền”
trang trọng. Theo lí tưởng của tự do học thuật, giảng viên và sinh viên trong
đại học có quyền tự do nghiên cứu, tự do giảng dạy và tự do học hỏi và tìm hiểu
mà không bị kiểm duyệt, đàn áp, hay chi phối bởi các thế lực chính trị và kinh
tế.
Nhưng ở VN, tự do học thuật là cái gì còn xa xỉ, nhất là trong khoa học xã
hội và nhân văn. Nhiều giáo sư VN than phiền rằng khoa học xã hội ở VN chỉ có
chức năng chính là minh hoạ cho đường lối của đảng và Nhà nước. Những nghiên
cứu với kết quả không phù hợp với một chủ trương nào đó không được công bố. Có
những chủ đề, ví dụ như Hồ Chí Minh, được xem là cấm kị, nên chẳng ai nghiên
cứu. Nhà văn Nhã Thuyên làm nghiên cứu về nhóm văn chương “Mở Miệng” là bị báo
chí chỉ trích y như thời Nhân văn Giai phẩm, và bằng cao học của chị bị thu
hồi. Đó là những minh hoạ sinh động về sự thiếu tự do học thuật ở VN.
Một môi trường
thiếu tự do học thuật rất khó thu hút nghiên cứu sinh hay các giáo sư, và khoa
học rất khó phát triển. Không ai muốn giam hãm mình trong môi trường bị ai đó
kiểm soát, ngăn cản không cho nghiên cứu cái này, không được công bố cái kia.
Nhà khoa học là người yêu tự do, họ không thích ai “xỏ mũi” họ, họ sẽ không bao
giờ đi giảng dạy hay làm việc cho những đại học thiếu tự do học thuật. Thiếu tự
do học thuật làm ảnh hưởng xấu đến khoa học nước nhà. Chúng ta thấy vấn đề
tranh chấp Biển Đông, VN chẳng có bao nhiêu nghiên cứu, nhưng ở nước ngoài thì
khá nhiều. Hoặc như đời tư và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu
nước ngoài có khi còn có nhiều thông tin hơn các đồng nghiệp trong nước vì họ
có nhiều nghiên cứu hơn và chẳng ai ngăn cấm không cho họ công bố. Trên báo
chí, VN kêu gọi các chuyên gia nước ngoài về làm việc ở VN, nhưng với những hạn
chế về tự do học thuật (chưa nói đến kiểm soát tư tưởng) thì làm sao lời kêu
gọi đó thành hiện thực được.
Thứ ba là người
dân nước ngoài được tiếp xúc nhiều nguồn thông tin. Ở những nước phương Tây,
người dân được tiếp xúc với rất nhiều nguồn thông tin, nhất là qua phương tiện
internet. Bất cứ một vấn đề nào cũng có nhiều cách nhìn, và qua đó, nó giúp cho
người tiếp cận thông tin không cảm thấy mình bị nhồi sọ. Chẳng hạn như tai nạn
máy bay MH17, người dân ở nước ngoài được tiếp cận thông tin từ các nước như
Nga và khối Ả Rập, chứ không chỉ các nước phương Tây. Do đó, người dân có thể
có cái nhìn toàn cảnh, và có thể phân tích ai đúng ai sai.
Ngay cả các vấn đề
VN, nhiều khi ở ngoài này, Việt kiều có nhiều thông tin hơn và nhanh hơn đồng
hương ở trong nước. Vụ bạo động ở Tây nguyên, Việt kiều có thông tin trước khi
báo chí VN đưa tin 2 ngày!
Đại đa số người dân trong nước không biết đến công
hàm Phạm Văn Đồng, nhưng Việt kiều đã biết từ 30 năm qua, thậm chí còn biết một
thứ trưởng VN là ông Ung Văn Khiêm (2) từng tuyên bố với Tàu cộng vào năm 1956
rằng “Theo dữ liệu của Việt Nam, quần đảo Tây sa và quần đảo Nam Sa về mặt lịch
sử là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.” Có điều khá buồn cười là khi các quan
chức cao cấp từ VN sang đây gặp bà con Việt kiều, trong các buổi tiếp kiến, họ
đọc một tràng dài về những số liệu kinh tế (nhưng không bao giờ dám nói [hoặc
từ chối nói] các vấn đề như biển đảo và quan hệ với Tàu), và lúc nào cũng kèm
theo câu “bà con thiếu thông tin”!
Ở VN thì thông tin
vẫn có nhưng là loại thông tin một chiều và hạn chế. Điều này dễ hiểu vì toàn
bộ hệ thống truyền thông là của đảng và do đảng điều khiển. Nếu nhìn vào con số
như VN có 838 tờ báo in, 95 báo điện tử, 67 đài phát thanh & truyền hình,
v.v. có vẻ rất tốt, nhưng thật ra tất cả chỉ có 1 tổng biên tập! Phần lớn chỉ
truyền đi một số thông tin giống nhau, và mang tính tuyên truyền.
Thông tin bị
kiểm duyệt nghiêm trọng. Cứ xem qua những bản tin liên quan đến tai nạn máy bay
MH17 thì rõ VN chỉ cung cấp thông tin một chiều. Bật truyền hình, chúng ta sẽ
thấy những bản tin về lãnh đạo đi thăm nơi này, tiếp chính khách kia, và những
bản tin về kinh tế với những con số chính xác đến 0.01%. Tôi có cảm giác đó là
những thông tin dành cho quan chức, chứ không phải dành cho người dân.
Người dân có điều
kiện thì dùng truyền hình cáp để tiếp cận với thông tin từ các đài truyền hình
nước ngoài. Nhưng ngay cả các đài truyền hình ở nước ngoài cũng bị kiểm duyệt
khi truyền đi ở VN! Còn internet tuy có gần 1/3 dân số nối mạng, nhưng có rất
nhiều trang web và blog bị chận. Đối với người nước ngoài quen với thông tin mở
đến VN là chấp nhận mù thông tin.
Thứ tư là người
nước ngoài có thói quen đặt câu hỏi và tìm vấn đề. Vì có tự do và thông tin,
nên người học ở nước ngoài dám suy nghĩ khác người, suy nghĩ mà người phương
Tây gọi là ngoài cái hộp (thinking outside the box).
Thật ra, ngay từ lúc còn
nhỏ ở bậc tiểu học, học trò đã khuyến khích tự mình tìm hiểu thế giới chung
quanh, đặt câu hỏi, và tranh luận trước lớp học. Họ được khuyến khích đặt câu
hỏi, phát hiện vấn đề. Do đó, khi lớn lên, họ nhìn đâu cũng thấy vấn đề và rất
hăng hái giải quyết vấn đề.
Tôi kể một chuyện
cá nhân nhưng có liên quan: có lần tôi chứng kiến cảnh tượng ở một khách sạn
trên đường 3/2 (Sài Gòn), hôm đó mưa ngập đường xá, khách từ khách sạn muốn ra
ngoài phải đi qua một cái cầu tạm bợ.
Trong khi chờ xe, tôi thấy một anh khách
người Mĩ độ 35 tuổi, đem máy quay phim và máy tính laptop xuống lobby. Anh ta
với quần short và áo mưa, xông xuống đường, dầm mưa, quay phim, và khi vào
lobby anh dùng đường truyền internet gửi phim về Mĩ. Qua Skype anh ta mô tả
tình trạng ngập nước ở đây cho một người bạn, rồi bàn với người bên Mĩ về cách
giải quyết vấn đề. Anh nói: “I want solve this problem for them” (tao muốn giải
quyết vấn đề này cho họ).
Tôi mon men đến hỏi anh ta đến đây lâu chưa, anh nói
mới 3 ngày thôi chưa đi du lịch đâu cả vì mưa quá, và anh ta là kĩ sự cầu
đường. Tôi nghĩ anh này đúng là Mĩ. Họ được huấn luyện phát hiện vấn đề, và
chinh phục vấn đề, dù vấn đề chẳng liên quan gì đến họ. Người Mĩ có cái nhìn
toàn cầu, làm cái gì cũng nghĩ sản phẩm này có bán cho khắp thế giới, vấn đề
này có thể giúp cho thế giới, v.v. Đó là suy nghĩ tích cực, chứ không phải yếm
thế như ở VN.
Nhiều người ở VN
ngạc nhiên không hiểu tại sao Việt kiều có quá nhiều ý kiến, nhận xét. Đụng đến
cái gì ở VN họ đều chê, chỉ trích, và phê phán. Có những vấn đề mà người trong
nước xem là bình thường, nhưng Việt kiều xem là bất bình thường. Trước thái độ
đó, người Việt ở trong nước thường nghĩ rằng “bọn Việt kiều phách lối, nhiều
chuyện”. Nhưng đó là hiểu lầm. Họ không biết rằng sống ở nước ngoài lâu năm hay
được trưởng thành từ hệ thống giáo dục nước ngoài, Việt kiều quen với cách đặt
vấn đề và phê phán (vì ở nước ngoài họ tiếp xúc hàng ngày như thế). Việt kiều
khi về VN nhìn đâu cũng thấy vấn đề (vì quả thật VN có quá nhiều vấn đề) và có
nhiều ý kiến là rất bình thường, và họ cũng chẳng có chống đối hay “phản động”
gì, vì đó là một nét văn hoá của họ.
Nhưng ở VN, phương
pháp giáo dục phổ thông đòi hỏi học sinh phải nhồi nhét một số kiến thức cơ
bản, và giải quyết những vấn đề theo một công thức đã định sẵn, nhưng không
khuyết khích cách đặt vấn đề, phát hiện vấn đề. Sự tôn ti trật tự trong học
thuật đó đòi hỏi người học sinh và sinh viên phải biết mình đang ở vị trí không
có quyền đặt vấn đề, không có quyền tranh luận.
Hệ quả là chưa lên tiếng thì đã
bị phê bình ngay “con nít mới học vài ba chữ biết gì mà nói”, hay “không biết
thì dựa cột mà nghe”, hay thậm chí “hỗn với thầy cô”. Thái độ trù dập như thế
làm thui chột khả năng phát hiện vấn đề và làm suy giảm sự tự tin của học sinh.
Khi lớn lên trong một thể chế bán phong kiến bán Mao-Stalin cùng với bóp nghẹt
thông tin làm cho người dân thiếu tự tin và không dám suy nghĩ đến những vấn đề
“quốc gia đại sự” (vì đã có Nhà nước lo!)
Tất cả 4 yếu tố
trên đều có chung một cái gốc: tự do. Người nước ngoài có quyền tự do ngôn luận
và quyền đó được pháp luật bảo vệ, còn VN thì không. Đó chính là lí do tại sao
“những người đã học ở nước ngoài […] sống thực với mình, dám nói điều mình
nghĩ. Trong khi về nước, lại phải giấu giếm ý nghĩ của mình, hoặc phải lựa
chiều nói dối, không thực lòng.” Đó là lí do tại sao người dân thích chọn tự do
hơn là môi trường thiếu tự do.
Một khác biệt rất
căn bản và rõ rệt giữa VN và các nước phương Tây (như Úc chẳng hạn) là mối liên
hệ giữa công dân và Nhà nước. VN có điều luật 88 trong Bộ luật hình sự phạt
những ai “tuyên truyền chống Nhà nước”. Nhưng ở Úc thì luật pháp cho phép người
dân có quyền phê phán mang tính chống Nhà nước và chống các chính khách của Nhà
nước. Phê phán có thể bằng tất cả các hình thức từ nói, viết đến hội hoạ (mà
hiểu theo VN là “tuyên truyền”).
Ở nước ngoài,
không có một Nhà nước nào dám nghĩ đến việc kiểm soát tư tưởng, theo dõi suy
nghĩ của người dân. Nhưng Việt Nam có cả một bộ máy từ trung ương đến địa
phương chuyên theo dõi tư tưởng và suy nghĩ của người dân. Bộ máy này đó thậm
chí còn muốn có mặt trong đầu của dân để kiểm soát tư tưởng trước khi người dân
phát biểu. Do đó, không ngạc nhiên khi người dân sống trong lo sợ. Họ không
biết những gì mình phát biểu có sai hay không.
Có người còn sợ đến nỗi không
dám bấm nút “like” hay viết nhận xét trong các trang mạng xã hội! Một môi
trường ngột ngạt như thế rất khác với môi trường tự do ở nước ngoài.
Do đó,
không khó giải thích tại sao phần lớn các em du học sinh thích ở lại nước ngoài
chứ không muốn về Việt Nam.
Thật ra, cũng
chẳng riêng gì các em du học sinh, đại đa số người dân VN đều trân quí tự do và
đi tìm tự do ở phương Tây. Người có điều kiện thì qua du học hay qua các hình
thức chính thức khác. Người không có điều kiện thì liều mình vượt biên (cho đến
nay vẫn còn hàng ngàn người Việt liều mình trên biển để đi tìm tự do). Cũng
chẳng có gì ngạc nhiên vì con người, như là một qui luật, thích chọn môi trường
tự do để sinh sống.
Khi luật sư chỉ
là cái bóng của công lý
Posted by adminbasam on 07/08/2014
Dân Trí
Lê Chân Nhân
07-08-2014
(Dân
trí) – Trong tất cả các tội ác mà con người có thể gây ra, thì bức cung nhục
hình để ép bị can nhận tội là tội ác ghê tởm nhiều khi còn hơn cả giết người.
Bởi vì, có những trường hợp giết
người vì không làm chủ được bản thân, vì tự vệ, vì bộc phát nhất thời. Còn dùng
nhục hình để ép án là hành vi có chủ đích, kéo dài ngày này qua tháng khác,
hành hạ người vô tội. Người dùng nhục hình và bức cung là cán bộ điều tra, hiểu
biết pháp luật, có quyền sinh sát đối với số phận người khác. Chính vì họ được
đào tạo, được nhà nước giao trách nhiệm điều tra tội phạm, nhưng họ dùng quyền
và sức mạnh được giao để nhục hình một công dân nên mới đáng ghê tởm.
Xâm phạm hoạt động tư pháp để đẩy
người khác vào tù tội, phải chịu án chung thân, tử hình thì những điều tra viên
đó không còn nhân tính. Thậm chí, có trường hợp dùng nhục hình đến nỗi can phạm
bị tử vong ngay trong trại tạm giam.
Vụ án Nguyễn Thanh Chấn với những lời
tố cáo nhục hình chưa làm rõ. Vụ án Hàn Đức Long cũng ở Bắc Giang cũng tương
tự. Hàn Đức Long bị ghép tội hiếp dâm, giết người nhưng một mực kêu oan. Cán bộ
điều tra bức cung bằng cách dùng bút bi kẹp vào các kẽ ngón tay, đốt bằng bật lửa
gas…
Vụ án ở Phú Yên còn tệ hơn, nghi can
bị 5 công an đánh chết tại trại tạm giam.
Không lên tiếng cảnh tỉnh thì sẽ còn
bức cung nhục hình nhiều và theo đó là án oan sai chồng chất. Chính vì vậy nên
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang – Trưởng ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương
đã yêu cầu khắc phục tình trạng này. Bộ Công an cũng ban hành Thông tư, trong
đó quy định nghiêm cấm điều tra viên, cán bộ điều tra bức cung, mớm cung hoặc
dùng nhục hình dưới bất kỳ hình thức nào.
Các quy định bằng văn bản quy phạm
pháp luật là cần thiết, nhưng chưa đủ để ngăn chặn hành vi bức cung, nhục hình,
mà phải thực hiện những cải cách cụ thể hơn. Ví dụ, đã có nhiều ý kiến đề xuất
lắp đặt camera trong phòng hỏi cung. Tuy nhiên, nếu cơ quan điều tra vừa điều
tra vừa giam giữ thì khó có thể minh bạch trong chuyện lấy thông tin từ camera.
Nếu như điều tra viên không dùng nhục hình trong phòng lấy cung mà ở nơi khác
thì sao?
Cho nên, đề xuất tách cơ quan quản lý
giam giữ độc lập với cơ quan điều tra là một biện pháp phù hợp.
Ngoài ra, một quy định vô cùng khoa
học và có khả năng ngăn chặn nhục hình rất thực tế, đó là sự có mặt của luật sư
trong các cuộc hỏi cung. Thiếu vai trò của luật sư, khó có thể nói đến sự minh
bạch của các bản cung. Nhìn vào thực tế, luật sư còn chưa được tạo điều kiện để
thực hiện công việc vô cùng quan trọng, đó là tiếp cận với thân chủ trong các
cuộc hỏi cung. Thiếu vai trò này, luật sư chỉ là cái bóng của công lý mà thôi.
Hãy như quốc gia văn minh, trước khi
thẩm vấn, cảnh sát sẽ nói với nghi phạm bằng “Lời cảnh báo Miranda”: “Anh có
quyền giữ im lặng và từ chối trả lời câu hỏi. Bất cứ điều gì anh nói cũng sẽ
được dùng để chống lại anh trước tòa. Anh có quyền có luật sư trước khi khai
báo với cảnh sát và luật sư sẽ hiện diện khi cảnh sát thẩm vấn anh. Nếu anh
không thể tìm luật sư, anh sẽ được cung cấp một luật sư trước khi trả lời các
câu hỏi. Anh có thể trả lời câu hỏi khi không có luật sư, nhưng anh vẫn có
quyền ngưng trả lời bất cứ lúc nào để chờ đợi sự có mặt của luật sư”.
Có lẽ “Lời cảnh báo Miranda” nên được
áp dụng khắp nơi trên địa cầu này, đặc biệt là những nơi còn bóng tối.
Kẻ cắp già mồm
Trần Văn Trộn (Danlambao) - Một rừng lá chắn báo chí lập tức cực lực phản đối
và bao bọc cho những kẻ cắp tình nghi có lùm xùm trong vụ hợp tác in tiền
Polimer với Úc, phản đối Tòa án tối cao bang Victoria của Australia nêu tên một
số quan chức cấp cao Việt Nam khi ban hành lệnh kiểm duyệt liên quan tới vụ in
tiền polymer. VTV1 trưa không đưa tin.
Quan chức cấp cao Việt Nam lớn cỡ nào
không ai dám nêu đích danh.
Hàng trăm bài báo có cỡ trong hệ
thống tuyên huấn đảng cầm quyền VN nhân bản một cách đáng kinh ngạc cả về tốc
độ và nội dung thông tin này.
Dù sao thì cũng phải hết sức bình
tĩnh, trước sau thì kẻ cắp cũng phải gặp bà già, hữu xạ tự nhiên hương, ở dơ tự
nhiên thối.
Một số báo đưa bài sớm nhất:
- Vovworld.vn/vi -Việt Nam cực lực phản đối
Lệnh kiểm duyệt liên quan đến vụ in tiền polyme tại Australia
- Báo Đất Việt - Việt Nam phản đối lệnh kiểm
duyệt vụ in tiền của Australia
- Tiền Phong Online - Việt Nam phản đối lệnh kiểm
duyệt liên quan in tiền polymer
- Vtc.vn - Việt Nam phản đối Lệnh kiểm duyệt liên quan vụ in
tiền polymer
- Vnexpress.net/ -Việt Nam phản đối lệnh kiểm
duyệt liên quan đến vụ tiền polymer
- www.thanhnien.com.vn -Việt Nam phản đối tòa án Úc ra
lệnh kiểm duyệt trong vụ in tiền polymer.
Kịch bản 16 tỷ đồng ăn hối lộ từ nhà
thầu JTC Nhật Bản còn đó, một bầy hạm đội ăn bẩn thề thốt chối nhem nhẻm trong
sạch, cuối cùng phải đối mặt với đất nước Nhật minh bạch về pháp luật, bài học
nhớ đời cho những loại cán bộ đảng viên chung lòng tàn phá đất nước và một hệ
thống bao che sống chung với trộm cướp.
Đọc thêm: https://wikileaks.org/aus-suppression-order/press.html
Trần Văn Trộn
danlambaovn.blogspot.com
Mẹ tự tử để lấy tiền
phúng viếng cho con đi học
Mẹ đã đi van xin được cấp sổ hộ nghèo
để mẹ vay tiền đóng học phí cho các con. Nhưng không ai cho gia đình mình nghèo
hết. Mẹ chết để giảm gánh nặng cho cha con, để phù hộ cho cha con các con được
trúng số độc đắc, để chính quyền thấy nhà mình thực sự khổ rồi cấp sổ hộ nghèo,
vay tiền đóng học phí cho các con...
Người Đưa Tin - Sau một tháng toan tính kỹ
lưỡng, chị Nguyễn Thị Mỹ Nhân, 38 tuổi, ngụ ấp 5, xã An Xuyên, TP Cà Mau, tỉnh
Cà Mau quyết định... chết. Chị chọn quyên sinh là giải pháp cuối cùng với hy
vọng kiếm được ít tiền phúng điếu và gia đình được cấp sổ hộ nghèo. Đau đớn đến
mức trong lá thư để lại, chị còn nhắn chồng đi xin hòm về liệm, dành tiền đóng
học cho con.
Di ảnh chị Nhân.
Nghẹn
uất xót thương
Chiều 24/4/2013, xứ An Xuyên bàng hoàng, thảng thốt bởi
cái tin chị Nhân treo cổ chết.
Trước khi thắt cổ chết một tháng, chị đã nói với chồng,
với con, với nhiều người hàng xóm về kế hoạch chết của mình. Chị khẳng định với
chồng là chỉ còn một con đường duy nhất duy trì việc học cho các con. Đó là chị
phải chết đi để mọi người đến phúng viếng mới có tiền trang trải cho các con
học, giảm gánh nặng cho chồng, lấy linh hồn phù hộ cho chồng con… trúng số độc
đắc.
Người chồng đau khổ nhưng bất lực trước ý chí sắt son của
người vợ.
Trong suốt hai ngày đám tang của chị Nhân, người ta không
nghe anh Bảo trách vợ một tiếng nào. Hơn ai hết, anh là người thấu hiểu tấm
lòng của vợ. Anh nói trong nước mắt: “Vợ tôi đã cố gắng đến hơi sức cuối cùng”.
Hơn 20 năm làm vợ chồng với nhau, anh Bảo chưa bao giờ
thấy vợ mình đáng trách. Ngược lại, anh luôn cảm phục tấm lòng và nghị lực của
vợ.
Chị làm lụng đến tối tăm mặt mũi, không từ công việc gì
miễn kiếm được tiền. Cả những công việc nặng nhọc tưởng chỉ đàn ông mới đảm
đương nổi, chị cũng không nề hà. Đến khi bị bệnh tật hành hạ, chị vẫn cố gắng
đi làm, không dám chữa trị vì tiền kiếm được còn phải để đóng học cho con.
Người
phụ nữ nghị lực "đã gõ mọi cánh cửa"
Chị còn được xóm làng ngợi khen về tính đảm đang tháo vát
hơn người. Chị chưa bao giờ bỏ qua một cơ hội kiếm tiền chính đáng. Nghe nói
Nhà nước có chính sách cho sinh viên, học sinh vay tiền đi học, chị đích thân
đi tìm hiểu và làm thủ tục xin vay. Người ta trả lời phải là hộ nghèo, hoặc hộ cận
nghèo mới được cho vay. Chị về hỏi chính quyền địa phương xin được xét cấp sổ
hộ nghèo, hộ cận nghèo.
Bà Nguyễn Thị Nhu, Chi hội trưởng Cựu chiến binh ấp 5, xã
An Xuyên kể: “Ngày 18/11/2012, khi họp dân ấp nhân ngày đại đoàn kết và xét
chọn hộ nghèo, cận nghèo, Mỹ Nhân có đến dự. Tôi nhớ rất rõ lời nói của nó hôm
đó. Nó nói “hoàn cảnh tôi quá khó khăn, xin được cấp sổ hộ nghèo để vay tiền
cho các con ăn học”. Khi đó, Trưởng ấp ghi nhận nhưng chỉ hứa là sẽ xem xét
sau, vì đã qua đợt xét hộ nghèo”.
Chị cũng đã tìm hiểu ra và làm thủ tục cho con trai nhận
hỗ trợ của Nhà nước đối với sinh viên học ngành hóa chất độc hại. Chị cũng đã
tranh thủ góp hụi, vay tiền từ Hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, thậm chí vay
"nóng" bên ngoài.
Anh Từ Văn Nguyễn, công an ấp 5, kể thêm: “Cách đây một
tháng, chị Nhân đi kêu một bà để bán nhà và đất đang ở. Bà này trả lời là để
bàn lại với người thân, chứ đất đai đâu phải nói mua là mua liền. Chị Nhân năn
nỉ bán trả chậm, 2 triệu một tháng cũng được để có tiền đóng học phí cho các
con. Bà này không chịu, chị Nhân nói nếu không chịu thì vài bữa nữa đi đám ma
của tôi”.
Trước khi thắt cổ chết 3 ngày, chị Nhân hay tin có ông
Trần Đại Đoàn, một người bà con mới về làm bí thư xã An Xuyên. Chị lập tức lên
xã gặp ông Đoàn để xin được xét cấp sổ hộ nghèo. Ông Đoàn ghi nhận và hứa sẽ
xem xét để cấp sổ hộ nghèo cho chị khi đến đợt xét tới đây. Đến lúc chị qua
đời, anh Bảo vẫn chưa hay biết việc chị đã lên xã xin anh Đoàn cái sổ hộ nghèo.
Tâm
thư tuyệt mệnh
Bên cạnh xác chết của chị, người ta đã tìm thấy những bức
tâm thư tuyệt mệnh.
“Anh Bình! Hoàn cảnh em quá khổ. Em chết, anh chôn em cặp
Hà (em trai chị - PV), trên đất của cha mẹ. Em chết, anh thỉnh bàn thờ mẹ về
nhà anh thờ. Mong anh đừng làm khó em, để em yên thân nằm cạnh Hà. Gia đình
mình sống quá khổ, từ đời của cha mẹ đến đời con, không có ý nghĩa gì hết”.
Cha con anh Bảo đau thương trước cái chết của chị Nhân.
Phần gửi cho chồng, chị Nhân viết: “Anh Bảo! Tiền em bỏ trong túi quần tây, trong tủ áo. Quần
tây màu đỏ”.
Bức thư thứ hai dài đến bốn trang giấy học trò, chữ viết
nguệch ngoạc, không chấm phết, ý tứ đứt quãng, lủng củng. Nhưng khi đọc lên, ai
cũng có cảm giác là chị Nhân đang nói với mình. Bởi những điều đó chị đã nói
rồi, nói với chồng, với con, với nhiều người hàng xóm, và nói từ cả tháng qua.
Chúng tôi tạm rút nội dung bức thư thứ hai của chị theo ý
chính như sau:
“Tạm biệt chồng con!
Anh! Trong hoàn cảnh gia đình mình quá khổ, em không sống
nổi với anh và các con. Từ một tháng qua, em bệnh, nằm xuống nhưng không ngủ
được. Em nhớ đến nợ nần, đến tiền học phí của các con, đến sự khổ cực cả đời
của anh. Em đã cố gắng lắm rồi, em chạy tiền bằng mọi cách để trị bệnh, để lo
đóng học phí cho các con, nhưng có ai cho mình mượn, mình vay đâu.
Em khổ lắm. Em không còn lối thoát. Em biết chết trong lúc
này, bỏ lại anh và 3 đứa con ngoan, hiền, học giỏi của chúng ta là em không
đúng. Anh Bảo! em thương anh nhiều lắm. Anh sống với em cả đời cực khổ, chưa có
bao giờ anh được sung sướng.
Các con, Bằng, Tâm, Ngân. Các con đừng trách mẹ, mẹ khổ
nhiều lắm. Mẹ chạy tiền cho các con ăn học, bây giờ nợ nhiều lắm. Tiền hụi chết
mỗi tháng phải đóng cho dì Ánh 1 triệu đồng. Mẹ đã đi van xin được cấp sổ hộ
nghèo để mẹ vay tiền đóng học phí cho các con. Nhưng không ai cho gia đình mình
nghèo hết. Mẹ chết để giảm gánh nặng cho cha con, để phù hộ cho cha con các con
được trúng số độc đắc, để chính quyền thấy nhà mình thực sự khổ rồi cấp sổ hộ
nghèo, vay tiền đóng học phí cho các con.
Xin các cấp chính quyền ấp 5 soi xét cho hoàn cảnh quá
khổ, không lối thoát của chúng tôi mà xét cấp sổ hộ nghèo cho chồng con tôi
được sống những ngày tháng còn lại trên đời.
Anh Bảo! Anh ra Hội chữ thập đỏ xin hòm liệm em, đừng mua
tốn kém lắm, dành tiền lo cho các con mình ăn học nghe anh.
Anh. Em thương anh nhiều lắm! Các con hãy gắng vươn lên,
học tập đổi đời, đừng để cha con phải khổ thêm. Vì mẹ con mình mà cha các con
phải khổ cả đời rồi...
Mỹ Nhân tạm biệt!".
Đám tang của chị được bà con An Xuyên phúng viếng trên 40
triệu đồng, một số tiền khá lớn so với những đám tang khác tại địa phương.'
nguoiduatin.vn/that-long-me-tu-tu-de-lay-tien-phung-vieng-cho-con-hoc-a143035.html
Coi Tây Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng
trong tay Tầu
Lửa trong Vùng đất của Tuyết:
Các vụ tự thiêu ở Tây Tạng
|
Lửa trong Vùng đất của Tuyết: Các vụ tự thiêu ở Tây
Tạng
|
||||
View on www.youtube.com
|
Preview by Yahoo
|
||||
Bà con
hãy tìm đường chạy ra nước ngoài cho sớm như hồi 1975 kẻo bọn Tàu
cộng đến cai trị thì chạy không kịp nữa!
Một vị ni
sư bị đối xử tàn nhẫn:
Coi Tây
Tạng trong tay Tầu để chuẩn bị cho VN rồi mai cũng trong tay Tầu ...
https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=kpc3wmwKit0
Chiến tranh biên giới Việt Trung
năm 1979
http://www.youtube.com/watch?v=eEBkpsCwsDY
Battlefield Vietnam -
Part 01: Dien Bien Phu The Legacy
http://www.youtube.com/watch?v=eQdFGr7NQ4o&list=PLCABD020D6B200061
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI
ÁC CỘNG SẢN (P1)
https://www.youtube.com/watch?v=NTZGFJyF2pQ
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI
ÁC CỘNG SẢN (P2)
https://www.youtube.com/watch?v=LSpiyHxlK5I
SBTN SPECIAL: Phim Tài Liệu TỘI
ÁC CỘNG SẢN (P3)
https://www.youtube.com/watch?v=P2Zbrz4iJbc
http://baomai.blogspot.com/2014/07/tham-dot-ngu-khong-loi-thoat-cua-cong.html
http://baomai.blogspot.com/2014/07/ve-van-hoc-mien-nam-1954-1975.html |
Văn học
và chính trị
|
http://baomai.blogspot.com/2014/07/van-hoc-va-chinh-tri.html
Israel: Một đất nước thần kỳ
|
http://baomai.blogspot.com/2014/07/israel-mot-at-nuoc-than-ky.html
Đừng sống bằng sự dối trá
|
http://baomai.blogspot.com/2014/07/ung-song-bang-su-doi-tra.html
|
HCM chính là thiếu tá Hồ Quang thuộc QĐND Trung Cộ...
|
http://baomai.blogspot.com/2014/07/hcm-chinh-la-thieu-ta-ho-quang-thuoc.html
Ha ha ha !
http://lh3.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
Hố hố hố !
http://lh6.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
Không biết làm thịt em nào trước đây?
http://lh4.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
http://lh4.googleusercontent.c...
Xem Ẩn
xem thêm
HTTP://DANLAMBAOVN.BLOGSPOT.COM/2014/05/HANG-VAN-CONG-NHAN-BINH-DUONG-INH-
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment