TẠP CHÍ VIỆT NAM
Ngày 30/04 qua cái nhìn của thế hệ sau 75
Vài ngày nữa là đúng kỷ niệm 40 năm ngày 30/04/1975, mà đối với
chính quyền Hà Nội vẫn là ngày "chiến thắng đế quốc Mỹ",
"giải phóng miền Nam", nhưng đối với cộng đồng người Việt
di tản và một bộ phận người dân ở miền Nam, đó là ngày "quốc hận",
hay ngày "mất nước".
Riêng đối với thế hệ sinh sau năm 1975 ở trong nước, tức là thế hệ
hoàn toàn không biết mùi chiến tranh, tất cả, từ Nam đến Bắc, đều học dưới mái trường
" xã hội chủ
nghĩa", nên đều được dạy về cái gọi gọi là " đại thắng mùa xuân".
Trên báo chí, trên hệ thống phát thanh truyền hình, những ngày kỷ niệm 30/04,
họ chỉ được đọc, nghe và xem về những chiến công lẫy lừng của "đỉnh cao trí tuệ loài
ngườỉ".
Hoặc là họ được nghe kể lại từ những người thân trong gia đình. Ở
miền Bắc, thì được nghe kể những ngày tháng Hà Nội sống dưới những trận mưa bom
của Mỹ, hoặc những ngày chạy sơ tán về các vùng quê, về những người đã vùi thây
trên dãy Trường Sơn.... Ở miền Nam, thì được nghe kể về những trận chiến ác
liệt để giành lại thành phố Huế từ tay quân Cộng sản, hay cuộc tấn công bất ngờ
của Việt Cộng vào dịp Tết Mậu Thân... Chắc là không ít gia đình của họ đã từng
có người trở về trong chiếc quan tài phủ lá quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa.
Đối với những không quan tâm gì đến chiến tranh Việt Nam, ngày
30/04 và tiếp ngay sau đó là ngày Quốc tế lao động 01/05 đơn giản là những ngày
nghỉ lễ, ngày của những hoạt động vui chơi giải trí. Chắc là chẳng còn mấy ai
để ý đến những tuyên truyền rầm rộ trong những ngày này.
Nhưng thật sự thì cảm nhận của cá nhân họ về cuộc chiến này là như
thế nào ? Có lẽ không có gì là đáng ngạc nhiên là ở hai miền Bắc và miền Nam,
tức là bên "thắng
cuộc" và bên "thua
cuộc", cái nhìn về chiến tranh Việt Nam khác nhau. Hôm nay
chúng tôi xin mời quý vị nghe ý kiến của ba người sinh sau năm 1975.
Anh Nguyễn Thiện Nhân, sinh năm 1977, hiện sống ở Sài Gòn, thuộc
gia đình quân nhân Việt Nam Cộng Hòa thì đưa ra một quan điểm rất rõ ràng là
cuộc chiến này, đó là cuộc chiến của hai phe Cộng sản và phe Cộng hòa:
«
Qua tìm hiểu từ những người lớn tuổi trong gia đình thì tôi thấy rằng cuộc
chiến tranh 1954-1975 là cuộc chiến giữa hai phe, một phe là chính quyền Cộng
sản miền Bắc và phe Việt Nam Cộng Hòa miền Nam. Phe CS miền Bắc thì được Cộng
sản Liên Xô và Cộng sản Trung Hoa hỗ trợ và tài trợ. Phe VNCH thì được Mỹ viện
trợ và sau đó thì đổ quân tham chiến cùng với lực lượng VNCH.
Những
người CS miền Bắc thì cho rằng Mỹ tham chiến là nhằm mục đích xâm lược và họ
chọn con đường Cộng sản để chống Mỹ. Còn những người theo Việt Nam Cộng hòa
trong đó có gia đình tôi, thì tin rằng Mỹ không xâm lược Việt Nam, chỉ tham
chiến để ngăn chặn chủ nghĩa Cộng sản từ Trung Quốc tràn sang. Họ tin rằng chủ
nghĩa Cộng sản là viển vông và sẽ không bao giờ thực hiện được, theo Cộng sản thì
là nghèo đói và lạc hậu.
Bản
thân tôi thấy rằng trước khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam, Mỹ đã công nhận chính thể
Việt Nam Cộng hòa của chính quyền Ngô Đình Diệm và về mặt địa lý, Mỹ cách xa
Việt Nam nửa vòng Trái Đất, thì không thể nói là Mỹ xâm lược Việt Nam. Lịch sử
đã chứng minh là rất nhiều nước nhỏ là đồng minh của Mỹ đều phát triển thịnh
vượng và đều giữ được chủ quyền, cũng như văn hóa của họ. Cái mất khi là đồng
minh của Mỹ thì rất nhỏ so với cái được.
Việt
Nam lại giáp ranh với nước Trung Quốc khổng lồ, cho nên khi đi theo và lệ thuộc
vào Trung Quốc thì sẽ rất là nguy hiểm. Trung Quốc rất dễ xâm lược Việt Nam.
Lịch sử đã cho chúng ta thấy điều đó quá Tân Cương và Tây Tạng.
Một
số người cho rằng 30/04 là ngày quốc hận. Tôi không đồng ý với quan điểm này.
Tôi cũng bác bỏ quan điểm cho rằng đây là ngày giải phóng miền Nam. Tôi nghĩ
nên xem đó là ngày kết thúc chiến tranh và thống nhất đất nước. Cuộc nội chiến
này chỉ là hệ quả của hai luồng tư tưởng Cộng sản và chống Cộng sản.
Tôi
nghĩ rằng khi mà nhận thức của người dân được nâng cao lên, thì người dân sẽ
nhận thức đúng đắn hơn về nguyên nhân của cuộc chiến cũng như những sự thực trong
cuộc chiến đó. »
Anh Khúc Thừa Sơn ở Đà Nẵng thì nêu câu hỏi là có nên gọi ngày
30/04 là ngày « giải phóng
» miền Nam, khi mà thực chất quân đội Cộng sản miền Bắc đã xé bỏ
hiệp định Paris 1973, xua quân đánh bại miền Nam ? Anh cũng lập lại câu nói của
cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, đó là vào dịp kỷ niệm 30/04, có hàng triệu người vui,
thì cũng có hàng triệu người buồn :
«
Cuộc chiến này không phải như báo đài của Nhà nước nói là giải phóng miền Nam
và thống nhất đất nước, mà thực tế là ngày chế độ này đánh thắng chế độ kia.
Chế độ thắng thì vui mừng, còn chế độ thất bại thì buồn bã. Mà chế độ dù thắng
hay bại thì đều có kẻ chết, người bị thương, mà tất cả đều là thân nhân người
dân Việt Nam cả.
Theo
dòng lịch sử mà em biết, tháng 01/1973, sau hiệp định Paris thì miền Nam lúc đó
không còn bóng quân đội Mỹ nữa, mà giao lại cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản
lý. Nhân dân Việt Nam lúc đó phải quyết định vận mệnh của mình. Nếu chỉ căn cứ
vào đây thôi, sau năm 73 cho đến tháng 04/75, thì quân đội chế độ miền Bắc Xã
hội chủ nghĩa tiến quân vào miền Nam để đánh bại chế độ Việt Nam Cộng hòa. Đó
là hành động giải phóng hay xâm lược ? Chỉ vấn đề này thôi đủ làm tính chất
cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc khác rõ, chứ không giống như những gì chúng ta
nghe, đọc trên báo đài chính thức. Nếu chỉ căn cứ vào đó, thì đủ hiểu là có
triệu người vui, nhưng cũng có triệu người buồn. »
Trong khi đó, ở miền Bắc, đa số những người sinh sau năm 1975 vẫn
tin theo những gì được dạy trong trường và những lời tuyên truyền của báo đài,
rằng ngày 30/04 là ngày «
giải phóng » miền Nam. Nhưng cũng có không ít người, qua tìm hiểu,
qua tiếp xúc, đã hiểu ra được thực chất của cuộc chiến này, như cô Nguyệt Hà,
một luật sư trẻ ở Hà Nội, sinh năm 1990 :
«
Trước kia, học lịch sử ở trường, em chỉ có một cái nhìn một chiều rằng đây là
một cuộc chiến chống Mỹ cứu nước và dân tộc ta đã chiến thắng Mỹ ngụy. Lúc ấy
chúng em cũng không có điều kiện để tiếp cận những thông tin khác.
Sau
này khi học đại học và sử dụng các phương tiện như Internet, Facebook, em có
được những thông tin trái chiều để mình có thể tìm hiểu kỷ hơn. Em cũng được
những người bạn ở miền Nam kể rằng cuộc chiến ấy thực ra là cuộc chiến giữa
miền Nam với miền Bắc, cuộc chiến ý thức hệ giữa hai miền. Lúc đó, em cũng khá
bất ngờ, nên cố gằng tìm hiểu xem là niềm tin và những gì mình đọc trước đó có
đúng hay không. Qua lời kể của các bạn có gia đình « ngụy quyền», em biết được
thêm sự thật và biết được thêm những gì mà người dân miền Nam đã trải qua khi
miền Bắc chiến thắng.
Em
nghĩ cuộc chiến trước đây là cuộc chiến nội bộ giữa hai miền Nam Bắc, và được
sự hậu thuẫn, ở miền Bắc là của Trung Quốc và ở miền Nam là của Mỹ, vì những
lợi ích của các cường quốc đó, nhưng về cơ bản thì đúng là một cuộc nội chiến.
Nhiều
năm trước kia, khi mà truyền hình là phương tiện giải trí chủ yếu, thì thường
vào những ngày 30/04 và 01/05, chúng em được xem rất nhiều chương trình kỷ niệm
hai ngày đó, với rất nhiều bộ phim ca ngợi chiến tranh, chiến thắng. Trước đây
em xem những chương trình đó thì rất háo hức, rất tự hào là mình đã chiến thắng
cả đế quốc Mỹ.
Nhưng
bây giờ em không xem những chương trình ấy nữa và vào những dịp này thì có cảm
giác không được tốt lắm, do đã biết được rằng có rất nhiều người coi thời điểm
này là thời điểm đau buồn của họ, mất nước của họ. Em không còn coi đó là chiến
thắng nữa, mà có cảm giác đây là nổi đau của rất nhiều người. Cái dịp kỷ niệm
đó và những bộ phim đó có thể làm đau lòng nhiều người bên phía còn lại.
Ở miền Bắc, hầu hết những người thân chung quanh em đều không có
những thông tin. Những người lớn tuổi, ông bà, bố mẹ, chú bác đều nghĩ đó là
chiến thắng và họ không có ý định tìm hiểu thêm. Còn những người bạn cùng trang
lứa với em, thì hầu hết đều không tiếp cận các thông tin và vẫn coi đó là ngày
kỷ niệm chiến thắng bình thường. Họ cũng không quan tâm nhiều lắm đến các vấn
đề lịch sử."
Nếu để qua một bên tranh cãi về chuyện "giải phóng" hay "xâm lăng", thì
có thể nói rằng, với ngày 30/04/1975, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, đất
nước được thống nhất và sống trong hòa bình ( ngoại trừ cuộc chiến tranh ngắn
với Trung Quốc ở biên giới phía Bắc và cuộc can thiệp quân sự vào Cam Bốt để
lật đổ chế độ Khơme Đỏ ). Đây là cơ hội hiếm có để xây dựng Việt Nam thành một
nước hùng cường.
Sau năm 1975, cố tổng bí thư Lê Duẩn đã từng tuyên bố :" Chúng ta sẽ đuổi kịp Nhật trong 15,
20 năm và nhân dân ta sẽ đi trên thảm vàng”. Nhưng 40 năm sau, vì
sao Việt Nam vẫn còn là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới ? Chúng
tôi đã đặt câu hỏi này với ba bạn nói trên. Đối với Nguyễn Thiện Nhân, nền kinh
tế Việt Nam vẫn mang tính lai tạp và phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc :
«
Bốn mươi năm qua là giai đoạn tồi tệ của đất nước Việt Nam. 15 năm đầu, từ 75
đến 90, Cộng sản Việt Nam đã chủ trương xây dựng nền kinh tế bao cấp, làm cho
đất nước đói ăn và tụt hậu. 25 năm sau lại là một nền kinh tế lai tạp, thiếu
tiêu chuẩn, không bền vững và phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc.
Đảng
Cộng sản vẫn ôm mộng chủ nghĩa Cộng sản, nên luôn đề cao thành phần kinh tế Nhà
nước, xem kinh tế NN là chủ đạo, trong khi đây là thành phần làm trì trệ phát
triển và nảy sinh tham nhũng. Mặc khác, do không cho đa đảng nên không có đảng
đối lập để cạnh tranh, giám sát đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế quan chức bao
cho cho nhau và quanh co chối tội khi xảy ra tiêu cực. Hậu quả là Việt Nam kém
phát triển về khoa học kỹ thuật, tiêu chuẩn sản phẩm thì thấp, kém chất lượng,
thực phẩm thì độc hại, còn môi trường sống thì bị phá hoại, bị Trung Quốc lũng
đoạn kinh tế, phá rối, chảy máu chất xám và nhân tài bị thui chột, xã hội bây
giờ thì đạo đức bị băng hoại.
Đó
chính là những lý do vì sao Việt Nam không thể cất cánh được thành một quốc gia
giàu mạnh sau 40 năm. Việt Nam đã bỏ lở cơ hội xây dựng thành một nền kinh tế
thị trường hoàn chỉnh và để lệ thuộc nhiều vào Trung Quốc. Lẻ ra Việt Nam phải
theo mô hình của phương Tây để xây dựng một nền kinh giàu mạnh từ năm 1990.
Nhưng Việt Nam lại không làm như thế, mà lại chọn con đường đi theo chủ nghĩa Cộng
sản mang màu sắc Trung Quốc."
Còn qua cái nhìn Khúc Thừa Sơn, Việt Nam vẫn còn nghèo vì thiếu
dân chủ, vì người dân không có quyền tự do chọn lựa lãnh đạo :
«
Hiện tại Việt Nam có một hệ thống quan liêu khá cồng kềnh, tuy có cải cách
nhưng cũng còn quá nặng nề. Việt Nam cũng có những chính sách hạn chế những
quyền cơ bản của con người. Dân Việt Nam cũng không thể chọn người lãnh đạo
theo ý của mình được.
Quốc
hội Việt Nam là cơ quan quyền lực của nhân dân Việt Nam, nhưng đa số lại là
những người trong đảng Cộng sản, những người lãnh đạo Nhà nước. Đảng chỉ định ai
thì bầu cử người đó, dẫn đến hệ lụy là con ông cháu cha, dù giỏi, dù dốt nều
được xếp vào hàng ngũ lãnh đạo đất nước.
Lãnh
đạo Việt Nam cũng không chịu nhìn nhận những sai lầm và khắc phục những sai
lầm. Khi mà khắc phục những sai lầm, họ chỉ nói lời xin lỗi chứ không nghiêm
khắc đưa ra những hình phạt thích đáng dành cho mình. Trong khi đó, người dân
phải chịu những hậu quả mà họ không lường trước được.
Người
lãnh đạo ở Việt Nam xem nặng quyền lợi của bản thân, mà xem nhẹ quyền lợi của
người dân, của đất nước. Hơn nữa, người lãnh đạo Việt Nam không có tầm trí
thức, dẫn đến việc lãng phí về chất xám, lãng phí về tài nguyên, cũng như lãng
phí về thời gian và thời cơ.
Thời
gian gần đây, khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) hay
hội nhập với các nền kinh tế thế giới khác, Việt Nam đã bỏ lỡ quá nhiều cơ hội
thoát khỏi chính sách cỗ hữu từ xưa đến giờ là phụ thuộc vào kinh tế Trung
Quốc.
Một
yếu tố nữa đó là những người lãnh đạo hiện nay là những nhà tư bản đỏ, chứ
không phải là những người Cộng sản như ngày xưa. Họ lãnh đạo là để bảo vệ các
ngai vàng, bảo vệ quyền lực, chứ không phải là vì có tài năng xứng đáng.
Có
thể nói là họ đã biết tận dụng xương máu chiến tranh để nắm quyền, và từ đó
sinh ra lộng quyền, lạm quyền, dẫn đến biến chứng là giàu có trên sự bóc lột
người dân. Chính sách họ đưa ra là phải có thêm con số cộng bỏ vào túi tham của
họ. Chuyện này là bình thường và người dân ai cũng biết.
Nói
tóm lại là đất nước Việt Nam có giàu mạnh hay không là phụ thuộc vào thành phần
lãnh đạo của Việt Nam. Họ chỉ có hai con đường : một là kiên quyết giữ quyền
lãnh đạo của cá nhân họ, phó mặc những hạn chế mà họ đã thấy được mà không khắc
phục, hay là khắc phục những hạn chế đó, hy sinh quyền lợi cá nhân họ, đưa
quyền lợi dân tộc lên trên hết. Còn người dân Việt Nam, sống trong chế độ này,
sướng hay khổ, họ không thể định đoạt được. »
Về phần Nguyệt Hà thì phân tích thất bại kinh tế của Việt Nam duới
cái nhìn của một luật sư :
«
Ngoài những nguyên nhân về chính sách vĩ mô, về giáo dục, không có thị trường
tự do, em còn thấy vấn đề nền pháp luật yếu kém và tinh thần tôn trọng pháp
luật của Nhà nước lẫn người dân. Vì thế không tạo được sự tin tưởng trong quá
trình làm kinh tế, hoặc trong các mối giao dịch dân sự hay kinh tế. Em thấy
điều đó làm tốn kém thời gian và tiền bạc, làm cho các quan hệ kinh tế không
phát triển được.
Mặc
dù đã có những cải cách, nhưng kinh tế Việt Nam vẫn theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vì vẫn ưu tiên phát triển kinh tế Nhà nước. Nếu mất cái đuôi « định hướng xã
hội chủ nghĩa » đi, thì họ không còn tính chính danh cho việc duy trì vẫn còn
nhiều tập đoàn Nhà nước, hay tập trung cho tiền bạc và các chính sách cho những
tập đoàn kinh tế này. Quá trình cổ phần hóa mặc dù đang diễn ra nhưng diễn ra
khá là chậm, thậm chí có khá nhiều hình thức tham ô trong đấy, bởi vì có quá
nhiều lợi ích trong đó của một tập đoàn giới lãnh đạo.
Chính
vì vậy họ không làm một cuộc cải cách triệt để được và cái đuôi Xã hội chủ
nghĩa cùng với các thành phần kinh tế Nhà nước vẫn đang góp phần gây ra tham
nhũng và kềm hãm sự phát triển của kinh tế Việt Nam.
Một
phần đó là do cơ chế, và một phần cũng là do giáo dục lạc hậu đã tạo ra một tập
quán văn hóa, làm cho mọi thứ trì trệ. Cái làm cho Việt Nam không thua Hàn Quốc
rất nhiều lần, chính là do thể chế và cái lãnh đạo tập trung của Nhà nước. Ở
Hàn Quốc người ta tạo điều kiện hơn cho kinh tế tư nhân. Giữa các nước có thể
chế một đảng và những nước có thể chế đa đảng, thì các thể chế dân chủ có vẻ
tạo điều kiện hơn cho cá nhân, cũng như cho các tổ chức kinh tế phát triển. »
Ký ức về ngày Sài gòn sụp đổ
Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-04-13
2015-04-13
- In
trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Nhà văn Đặng Thơ Thơ
trả lời phỏng vấn Kính Hòa tại RFA tháng 4/2015
Nhà văn Đặng Thơ Thơ sinh ra và lớn lên tại Sài gòn. Sang Mỹ Đặng
Thơ Thơ là một trong những người sáng lập trang văn học Da Màu, và Đặng Thơ Thơ
cũng được biết đến như một trong những cây bút người Việt viết về giới tính.
Trong tác phẩm mới xuất bản Khả Thể, nhà văn có đề cập đến những
ký ức về ngày 30 tháng Tư năm 1975. Trong một dịp sang vùng Washington DC, nhà
văn dành cho Kính Hòa một buổi phỏng vấn về những ký ức này, và những nhận xét
liên quan đến văn học của người Việt hiện nay. Trước hết nàh văn cho biết:
Trong cuốn Khả Thể, Thơ có hai truyện nói những ký ức về 30/4.
Truyện đầu tiên là Mở Tương Lai, là kinh nghiệm của riêng gia đình Thơ,
vào lúc miền Nam bị sụp đổ, mình tìm cách thoát khỏi nhưng bị kẹt lại. Trong đó
có một đoạn bà ngoại của Thơ Thơ, lúc đó gần chết, phát ho mỗi người một ve
thuốc độc. Cái cảm giác của mọi người trước và sau khi nhận ve thuốc độc. Khi
mình nhận ve thuốc độc thì mình bình tĩnh lại trước tất cả mọi biến cố, vì mình
biết là từ đây mình làm chủ đời sống của mình, mình không sợ bất cứ một áp chế
nào của quyền lực đè nặng lên đời sống của mình hay phẩm giá của mình nữa.
Truyện thứ hai là Lịch sử nhìn từ âm bản, trong đó Thơ viết
về những người lính, những vị tướng đã tuẫn tiết trong thời điểm 30/4. Thơ rất
kính phục họ và đây cũng như là một sự vinh danh giành cho họ. Khi viết truyện
này thì Thơ tìm hiểu rất nhiều, và khi viết cũng có rất nhiều nước mắt. Mình
cảm thấy mình nợ rất nhiều những cái chết đó, và khi Thơ viết là Thơ muốn những
cái chết đó không trở thành uổng phí. Đối với Thơ thì cái hành động tự tử đó
rất là đẹp, vì mình làm chủ cái đời sống của mình, chống lại cái áp chế của
những chế độ toàn trị.
Kính Hòa: Trong Khả Thể có
một truyện đầu tiên là Con yêu tinh thứ 108, thì dường như nó mang những suy
nghiệm hiện đại, không có âm hưởng của quá khứ, gần với những suy nghĩ của thế
hệ trẻ hiện nay trong và ngoài nước, có phải như vậy không?
Đặng Thơ Thơ:
Đó là một cuộc đối thoại nhiều chiều, những thế hệ khác nhau. Nhân vật chính
trong này là con hoang của Hồ Chí Minh. Và cũng có đối thoại với những thế lực
ở trong nước họ đòi hỏi dân chủ cho Việt nam. Còn một nhân vật khác nữa là
Thích Hiển Đạo thì Thơ lấy cảm hứng từ việc Thiền sư Thích Nhất Hạnh về nước
lập đàn tràng giải oan. Cái hành động đó làm cho Thơ đặt câu hỏi là tại sao
phải giải oan, trong khi họ cần một lời xin lỗi chính thức thì đúng hơn.
Kính Hòa: Trong lĩnh vực văn
chương giới tính thì nhà văn Đặng Thơ Thơ được xem là người đi tiên phong trong
lĩnh vực này. Khi bắt đầu có những ý tưởng dấn thân vào con đường này thì nhà
văn có cảm thấy khó khăn, trở ngại gì không trong một văn hóa khá khắt khe của
Việt Nam?
Đặng Thơ Thơ:
Thơ không cảm thấy khó khăn, mà thật ra nó còn là thuận lợi vì mình viết về
những cái người ta ít viết thì mình còn đất để mà khai phá. Nhưng cũng có những
thử thách là mình viết thế nào để tiếp cận độc giả.
Trong giới tính lại có cả khá cạnh chính trị lồng vào đấy, rồi tôn
giáo và những cái khác nữa. Nhiều khi Thơ viết xong thì đưa cho bạn bè chứ
không đưa cho người trong gia đình như bố hay mẹ đọc. Có những chuyện trong này
thì khi xuất bản rồi bố mẹ mới được đọc.
Nói về giới tính thì không cùng, trong này chỉ là một phần thôi.
Câu chuyện rõ nhất là Ký ức của người loạn tính. Thơ muốn cho thấy rằng giữa
họ và mình, cái sự chúng ta tưởng là khác biệt thực sự không khác biệt.
Những thứ mà chúng ta cảm thấy khác biệt là bởi tại vì chúng ta chưa có từ ngữ
để dành cho nó thôi. Chúng ta không biết rất nhiều điều, và chúng tưởng những
điều chúng ta biết là một chân lý duy nhất. Có những điều chúng ta chưa đặt tên
cho nó cho nên tưởng rằng nó không tồn tại, thực sự thì nó có tồn tại hết.
Giữa trắng và đen, giữa nam và nữ là một khoảng rất là dài những
màu xám khác nhau.
Kính Hòa: Liên quan đến cộng đồng người Việt ở hải
ngoại thì dường như có một dòng văn học đã nảy sinh và trưởng thành, Thơ Thơ đánh
giá thế nào về sức sống của nền văn học đó? Tại vì cũng có những ý kiến cho
rằng đối với một đồng hải ngoại, bị đứt khỏi mảnh đất quê hương của họ thì khó
có thể duy trì nền văn học bằng tiếng bản ngữ của họ?
Đặng Thơ Thơ:
Thơ cho rằng thời điểm 75-85 là thời điểm rộ nhất của văn học hải ngoại với
những cây bút của miền Nam định cư bên này. Họ có điều kiện mới để viết, họ
viết về kinh nghiệm của họ, cũng như là dòng văn chương hoài hương, và dòng văn
học chống cộng rất là mạnh.
Sau chiến tranh lạnh, lúc Việt nam và Hoa kỳ đã có giao thương với
nhau, điều đó ảnh hưởng tới văn học, nó bắt đầu đi theo một hướng khác, nhất là
khi những nhà văn trong nước được cởi trói. Có một sự giao lưu không chính thức
giữa những nhà văn phản kháng trong nước và những nhà văn ngoài này. Và với sự
bùng nổ của Internet thì có vẻ ranh giới bị xóa mờ đi. Thành thử chúng ta rất
là khó định nghĩa thế nào là văn chương hải ngoại. Vì có thể là một người ở
trong nước nhưng tác phẩm của họ không thể công bố trong nước mà là ở hai ngoại
thì mình đặt tên họ là nhà văn nào? Hay trường hợp chị Dương Thu Hương bên Pháp
chẳng hạn, mà sách của chị ấy xuất bản ở Bolsa. Mình gọi chị Dương Thu Hương
như thế nào, chị ấy lại không phải là một nhà văn miền Nam, như mình hay nghĩ văn
học hải ngoại là sự kéo dài của văn học miền Nam, mà chị Dương Thu Hương là một
nhà văn miền Bắc. Thành ra tất cả mọi sự đánh giá hay dán nhãn hiệu rất là khó.
Kính Hòa: Có những nhà văn
người Việt nhưng viết bằng tiếng Anh, trong giòng chính của nước Mỹ, thì Thơ
Thơ có nhận định gì về họ không?
Đặng
Thơ Thơ: Thơ đã đọc những
truyện của chị Lan Cao, nhất là cuốn mới nhất Hoa Sen Trong Bão Tố, rồi Thơ
cũng thích đọc Đinh Linh. Rồi Monique Trương, Lê Thị Diễm Thúy, rồi nhất là gần
đây là Lại Thanh Hà đoạt giải thưởng về tiểu thuyết viết cho tuổi thanh thiếu
niên. Thơ rất tin tưởng là họ sẽ có tiến nói trong văn chương giòng chính. Và
khi người ta nhìn những gì họ viết thì người ta nhìn họ là những nhà văn thôi,
xin đừng đặt tên cho họ là nhà văn Mỹ gốc Việt (cười.)
Kính Hòa: Xin hỏi câu cuối là có lúc nào Thơ Thơ
nghĩ là tác phẩm của mình sẽ được đọc ở Việt Nam một cách chính thức không?
Đặng
Thơ Thơ: Tất nhiên đó là điều
mình ao ước. Sau khi ra mắt sách xong Thơ sẽ post cuốn Khả Thể lên mục Trên kệ
sách của trang Da Màu thì bạn đọc trong nước có thể đọc dduwwojc, nhưng đầu
tiên phải tìm cách vượt tường lửa trước (cười.)
Kính
Hòa: Xin cám ơn nhà văn Đặng Thơ Thơ đã dành
thời gian cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn trong chuyên mục Ký ức 40 năm.
Đặng Thơ Thơ:
Xin cám ơn tất cả các thính giả của Đài Á Châu Tự Do.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment