Thursday, January 17, 2013

BÀI 4.- BÊN THẮNG CUỘC DƯỚI MẮT NGƯỜI THUA CUỘC: SỰ THẬT MỘT CHIỀU CỦA C.S.V.N. ĐIỂN HÌNH QUA HUY ĐỨC.


BÀI 4.- BÊN THẮNG CUỘC DƯỚI MẮT NGƯỜI THUA CUỘC: SỰ THẬT MỘT CHIỀU CỦA C.S.V.N. ĐIỂN HÌNH QUA HUY ĐỨC.

ĐẶNG VĂN NHÂM

ĐIÊU NGOA, GIAN SẢO LÀ BẢN CHẤT CỦA C.S.V.N.!

Đến bây giờ, chẳng cứ gì người VN, mà cả thế giới ngày nay ai cũng đều nhận ra bản chất của tập đòan CSVN là điêu ngoa, gian sảo vô lường. Ví chẳng khác nào loại heo, bò đã bị đóng dấu.

Đó là một điều sỉ nhục,đáng xấu hổ vô cùng.

Nhưng, lạ lùng thay, bọn CSVN từ tên lãnh đạo đến bọn tép riu, lúc nào mặt cũng vẫn vênh lên và cứ vô tư tha hồ ba hoa, khoác lác những chuyện đầu Ngô mình Sở, bất chấp tiếng chửi rủa inh ỏi bên tai.

Hình như bọn này bẩm sinh đã ù lì, mất lương tri, thiếu khả năng phân biệt hay/ dở , phải / trái, đúng /sai (perception du bien et du mal).

Như thế chẳng khác nào loài súc vật!

Vì thế nên bây giờ chẳng có ai trong chúng ta không nhận ra sự kiện hiển nhiên này: toàn thể bọn lên tiếng cho rằng tác phẩm Bên Thắng Cuộc của Huy Đức đã nói lên ”sự thật” (sic!) đều gốc CS và tay sai CS đang ở trong nước và hải ngoại, như: Bùi Văn Phú, Nguyễn Mạnh Hùng, Đinh Quang Anh Thái và bộ biên tập báo Người Việt, Trần Hữu Dũng, Nguyên Ngọc,Chu Hảo v.v…

Mục đích của bọn Cộng Con này là gì?

Ngoài nguồn gốc cùng một ”lò” CSVN đúc khuôn (conformisme),chúng còn có thói về hùa bốc thơm lẫn nhau (dù thối như cứt!) theo kiểu vây cánh, đồng đảng.

Bọn này còn nhắm mục đích đánh tráo sự thật chính cống trọn vẹn bằng thứ sự thật manh mún, một chiều, giả mạo để đánh lừa quần chúng thiếu thông tin, nhẹ dạ cả tin và nhất là chưa biết rõ tính chất vô luân (immoral) của chủ nghĩa giáo điều CS.

Chúng ta nên nhớ :Mặc dù là cha đẻ của chủ nghĩa CS, nhưng ngay lúc còn sống chính Karl Mark đã tự thú:” Tôi không phải là người CS!”. Lời này của Mark nghĩ chẳng khác nào lời hối hận của một người mẹ vừa sinh ra đứa con chẳng ngờ nó là quái vật!

Cùng một cách thống hận như thế, cựu Tổng Bí Thư đảng C.S. Liên Xô Mr. Gorbachev than thở : " Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng C.S. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng:” Đảng C.S. chỉ biết tuyên truyền và dối trá.

" Riêng nhà văn Nga, đã đoạt giải Nobel văn chương là Alexandre Soljenitsyn còn cẩn thận khuyên nhủ chúng ta: " Khi thấy thằng CS nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo. Nếu ta không có can
đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi, không ở lại nghe nó nói
láo. Nếu ta không can đảm bỏ đi, mà phải ngồi lại nghe, ta sẽ hông
nói lại những lời nó đã nói láo với người khác!"

Bởi những nguyên nhân nêu trên, nên tôi đã không ngại mất thì giờ để tiếp tục lột mặt nạ gian manh, dối trá của lũ Cộng Con này. Đặc biệt nhất là bọn này còn manh tâm cố dùng mảnh bằng của Mỹ để lòe đời bịp người.

Chúng ta cũng như cả thế giới đều biết VNCS là một chế độ lạm phát bằng tiến sĩ, thạc sĩ. Nhiều hơn giấy chùi đít. Từ những tên hầu nhân ( primat) trong rừng mới chui ra ánh sáng, cả đời chưa từng biết cái tủ lạnh (frigidaire), cái máy truyền hình (Télévision) tròn méo thế nào, khi được hỏi cừ nói phét bừa :” Ối , ngoài Hà Nội nó chạy đầy đường!”.

Còn hỏi về cây cà rem (ice creme), cả đời chúng chưa từng nếm , cũng vẫn trơ trẽn phòng phét :” Ối, ở Hà Nội, ăn không hết, phải đem phơi khô để dành!”…nhưng chỉ vài năm sau tên nào cũng có bằng tiến sĩ, phó tiến sĩ hay thạc sĩ.

Nhưng khi cần viết con số một triệu, chúng không biết là có bao nhiêu số (Zéro) .

Cũng như không biết nổi khi nước sôi là nóng bao nhiêu độ v.v…Vì tất cả bọn hầu nhân này đều chỉ có trình độ biết đọc biết viết với giấy chứng nhận gọi là ”văn hóa bổ túc”.

Riêng kẻ viết bài này, trong thời gian ở hải ngoại đã có lần
gặp lại một người bạn cũ, đồng niên tuế, hồi trước năm 75 ở Sài Gòn đã từng làm giáo sư đại học, giữ chức thống đốc ngân hàng , phó thủ tướng v.v…Sau ngày 30.4.75, vì không biết chân tướng lưu manh của bọn CSVN, nên anh đã lầm lỡ ở lại Sài Gòn, tưởng rằng có thể đem sở học và sự hiểu biết của mình để giáo dục bọn hầu nhân thành người thực sự.

Nhưng chỉ vài năm sau, anh đã phải rời bỏ quê hương ra đi. Một hôm gặp nhau ở phương trời xa lạ , tôi hỏi anh:” Sao anh không ở lại trong nước để tiếp tục dạy dỗ cho chúng nên người?”.

Anh nhìn tôi ái ngại, thở dài thật sâu, rồi thong thả đáp:” Ngày xưa
trước 75 , mình dạy học trò để chúng ra làm quan. Nhưng sau 75, đời người VN đã thay đổi, mình phải dạy tụi quan làm học trò, nên khó quá!”. Lời tâm tình của anh nghe sao áo não, thấm thía vô cùng.

Vì thế, đối với bọn Cộng Con: Bùi Văn Phú, Ng. Mạnh Hùng, Hữu Dũng, Nguyên Ngọc,Chu Hảo…tôi không hiểu chúng thuộc loại trí thức kiểu nào, khi chúng lên tiếng rập khuôn mà không biện chứng chỗ nào là sự thật trong tác phẩm Bên Thắng Cuộc?

PHẢI CHĂNG ĐÂY LÀ…SỰ THẬT?

Dưới đây, tôi tạm trích một đoạn trong Bên Thắng Cuộc, chương II , Cải Tạo, của Huy Đức. Nguyên văn như sau:

- Mười ngày, một tháng qua nhanh. Không ai nhận được bất cứ tin tức gì liên quan đến những người thân bị đưa đi họctập. Rồi đột nhiên, một sỹ quan được tha về, người đó là Cựu Tổng trưởng Quốc phòng, tướng Nguyễn Văn Vỹ. Vừa ra khỏi trại, Tướng Vỹ phát biểu: “Chúng tôi ăn còn ngon hơn bộ đội. Tôi mong những người có thân nhân đi học tập cải tạo hãy yên lòng và tin tưởng Cách mạng, đừng tin ở những lời đồn vô căn cứ” Tướng Nguyễn Văn Vỹ là người mà ngay hôm đầu ra trình diện đã phát biểu: “Tôi hiểu rõ quân đội trong này lắm, tệ lắm, xấu lắm; và mấy ngày hôm nay thấy rõ bộ đội Cách mạng rất kỷ luật, chững chạc, đàng hoàng. Anh em vào nhà tôi ở cầu Thị Nghè không hề bị mất mát gì hết.
Cách mạng vào yên ổn, thanh bình ngay, ai cũng yên tâm và sung sướng”.

Ở thời điểm Tướng Vỹ phát ngôn trên báo, dân chúng không cần phải nghe tin đồn, chồng con họ bặt vô âm tín đã hơn ba tháng cho dù “Cách mạng nói” sĩ quan cấp úy chỉ đi học tập “mười ngày”, cấp tá chỉ đi “một tháng”. Tuy nhiên, đấy cũng chưa phải là thời điểm mà những người ở nhà hay ở bên trong hàng rào dây kẽm gai tuyệt vọng.

Chính quyền biết điều đó và Tướng Vỹ được tha để nói những lời có giá trị trấn an. Đồng thời, “các sỹ quan và nhân viên ngụy quyền” bắt đầu được phép và được động viên viết thư về nhà.
Đầu tháng Bảy, báo Giải Phóng, tờ báo trong R của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, cho đăng lá thư của ông Trần Văn Tức “nguyên là đại úy cảnh sát ở Côn Sơn”, gửi vợ là bà “Nguyễn Bích Thủy, ở số 52-54 Nguyễn Khắc, Sài Gòn 2”.

Khi cho đăng lá thư, tờ Giải Phóng nói rõ là “để bạn đọc hiểu thêm cuộc sống hiện nay của các sĩ quan (trong quân đội ngụy trước đây) đang học tập cải tạo”.

Thông điệp mà Chính quyền muốn gửi qua bức thư này được lồng vào một cách vụng về: “À, ở thư trước anh quên dặn em là đừng tin lời đồn nhảm của bọn phản động của bọn ngụy tuyên truyền làm cho em và ba má ở nhà hoang mang lo sợ.

Nếu người nào nói xuyên tạc đó là bọn lưu manh thừa dịp để làm tiền hoặc bọn ngụy phản cách mạng, em nên đến chánh quyền cách mạng tố cáo họ. Anh cố gắng học tập cải tạo tốt để chánh phủ cách mạng khoan hồng cho những đứa con lạc lối được thành người công dân chân chính và sớm về đoàn tụ với gia đình tăng gia sản xuất”.

Hơn một tháng sau, tờ Tin Sáng có bài phỏng vấn bà “LQL”, người vừa trở lại Sài Gòn sau chuyến thăm chồng là “Thiếu tá Tiểu Đoàn phó Tiểu Đoàn 7, Thủy Quân Lục Chiến Ngụy”.

Tờ Tin Sáng không nói rõ chị L thăm chồng ở trại nào và chồng chị là ai, chỉ giới thiệu: “Thiếu tá và cả Tiểu đoàn 7 của ông đã bị tên tướng ngụy Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An và đã cùng toàn bộ binh lính trong Tiểu đoàn 7 đầu hàng quân đội giải phóng ngày 27-3 vừa qua”.

Câu chuyện ở trại cải tạo được tờ Tin Sáng dẫn dắt cho thấy không khí trong các trại cải tạo từa tựa như một trại hè 59.

Bài phỏng vấn kết thúc bằng lời dặn dò của người chồng: “Em yên trí về lo làm ăn, ở đây em khỏi lo hai thứ rượu và gái, đã làm hai đứa thường mất hạnh phúc như trước kia. Cuộc sống ở đây rất
điều hòa và lành mạnh như em đã thấy, chắc chắn bọn anh sẽ khá hơn trước”.

Trước hết , khi vừa đọc đoạn văn này của Huy Đức , kẻ nào dù vô tư đến đâu vẫn phải nhận thấy mùi tuyên truyền láo khoét đặc sệt giọng lưỡi Việt Minh CS từ thời Hồ Chí Minh còn chui rúc trong hang Pắc Pó.

 Kế đến, nếu là người miền Nam tị nạn ở hải ngoại hay ngày nay vẫn còn mắc kẹt trong nước dưới gông cùm kềm kẹp sắt máu man rợ của lực lượng công an, đều nhận ra ngay đặc tính gian trá, hoàn toàn sai sự thật.

HỌC TẬP CẢI TẠO” MỘT THỦ ĐOẠN GIẾT NGƯỜI THÂM ĐỘC KHIẾN CHẾT DẦN MÒN CẢ THỂ XÁC LẪN TINH THẦN!

Mặc dù sự kiện lịch sử năm 1954 với sự kiện lịch sử ngày 30.4.1975 có đôi điều khác biệt. Nhưng , sau 30 năm, giữa một sớm một chiều, toàn thể dân chúng miền Nam vừa bừng mắt dậy bỗng thấy mình đã trở nên ” NGỤY” ráo trọi. Nào là: Ngụy quân, ngụy quyền, ngụy dân v.v.…rất linh tinh.

Kể từ khi khởi đầu cuộc chiến này , người dân miền Nam đã thấy chẳng ai thèm hỏi ý kiến mình và mãi cho đến năm 1975 sau khi chẳng đánh đấm gì ra hồn, bỗng dưng một số tướng tá ươn hèn và chánh khách sôi thịt đã tự tiện kéo lên đài phát thanh tuyên bố chịu thua, xin đầu hàng.

Thế là ” bất chiến tự nhiên…thua!”.

Đã bị ép thua rồi thì nhân dân miền Nam chỉ còn biết căm phẫn, tủi nhục âm thầm mà thôi!

Kể từ sau đây tôi mới bắt đầu dẫn chứng cụ thể những thủ đọan trấn lột tiền bạc, cướp đoạt tài sản, đất đai , nhà cửa, và các chính sách học tập cải tạo mút mùa, thủ đoạn đày tập thể dân chúng miền Nam vào vùng kinh tế mới để cướp nhà của từng người.

 Đây là một vết thương đẫm máu và nước mắt trong lịch sử cận đại của 25 triệu dân miền Nam.

Bây giờ dù cho nhà cầm quyền CSVN có thể vận dụng toàn bộ guồng máy giáo dục , tuyên truyền của đảng CS để bóp méo hay xóa bỏ hết mọi dấu vết lịch sử dã man ghê tởm ấy, nhưng sự thật của lịch sử dân tộc vẫn luôn luôn tồn tại vĩnh cửu với thời gian.

Nên nhớ: Từ thuở con người biết lập dân kiến quốc , lịch sử mỗi quốc gia đều gồm 2 loại song hành:

§ 1.-lịch sử biên chép (histoire vécue) do bọn sử quan hay sử gia của chế độ ghi chép theo lệnh của nhà vua hay lãnh tụ. Phần nhiều thiếu trung thực , nếu không nói là xuyên tạc hay bóp méo lịch sử và có tính cách xu nịnh, phục vụ kẻ cầm quyền đương thời, nhất là dưới chế độ độc tài toàn trị CS kiểu VN.

§ 2.- Lịch sử khẩu truyền (histoire raconté) trong dân gian, tuy không đầy đủ và thiếu mạch lạc, nhưng không có mùi xu nịnh, đổi trắng thay đen cho vừa lòng lãnh tụ đảng và nhà nước. Các chế độ CS trên thế giới ngày nay, nhất là CSVN, đều tỏ ra rất sợ loại lịch sử truyền khẩu này.

Vì không uốn nắn được lại cũng không tiêu diệt được!

Bởi thế, tục ngữ ta đã có câu: ”Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ!”

Đó là cả một kho tội ác ngập trời do CSBV đã thực hành ở miền Nam VN. Những tội ác khủng khiếp ấy còn kéo dài mãi cho đến tận bây giờ chưa dứt, nên đã tạo ra muôn vàn truyện bi ai, thống khổ đẫm máu và nước mắt trong dân chúng miền nam sau ngày 30.4.75.

Trong kho tàng những truyện thương tâm ấy, tôi sẽ trích ra một số truyện điển hình có thực, rất khó quên,dễ kiểm chứng, để biện minh hùng hồn cho mọi người VN trong và ngòai nước, kể cảthế hệ sinh sau đẻ muộn ờ hải ngoại ngày nay, nhận thấy rõ dã tâm gian trá, bóp mép sự thật lịch sử dân tộc tromg tác phẩm Bên Thắng Cuộc của tên Cộng Con Huy Đức và nhóm chủ trương báo Người Việt ở Bolsa.

Sau một thời gian ngắn Ủy Ban Quân Quản ( phần đông thuộc MTGPDT miền Nam) lên cầm quyền, trong dân gian ở miền Nam đã lưu hành một câu ca dao phản ánh rõ nét tâm trạng đau buồn , ai oán thê lương của cả thế hệ trẻ miền Nam như sau: - ” Dép râu dẵm nát đời son trẻ, nón tai bèo che khuất mộng tương lai”!

Dù vậy, có lẽ bọn CSBV nhận thấy Ủy Ban Quân Quản đã có mòi hòa hoãn, như có vẻ muốn thực thi đường lối hòa giải dân tộc mà họ đã từng tuyên bố trước ngày 30.4.75, nên một hôm bỗng có thông cáo:

Quân nhân từ thượng sĩ trở xuống phải trình diện để đi học tập 3 ngày.

Những người này bất đắc dĩ phải tuân lệnh , trong lo sợ phập phồng, vì chưa biết chính sách mới lành dữ, ôn hòa hay tàn ác dã man đến cỡ nào.

Nhưng sau 3 ngày học tập vớ vẩn, qua loa, ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm , khi được cho về yên ổn.

Xong đợt này đến lượt các sĩ quan, công chức , dân biệu, nghị sĩ, đảng phái chính trị… được lệnh phải đi học tập 10 ngày.

Mọi người chuẩn bị quần áo,lương thực, vui vẻ đi ghi tên, yên trí đằng nào cũng phải sống với kẻ xâm lăng.

Thôi thì cứ chiều lòng bọn chúng một chút. Mười ngày chẳng là bao.Cho xong đi, rồi còn về nhà yên phận làm ăn. Vì vậy cho nên phòng trình diện rất đông đảo, tấp nập.

Nhiều quân nhân đã giải ngũ 5, mười năm, những đảng viên các nhóm quốc gia đã trùm mền ngủ kỹ từ năm 1954 cũng rủ nhau đi đăng ký. Trong số hàng mấy trăm ngàn cựu sĩ quan, từ cấp tướng xuống đến chuẩn úy chẳng một ai ngờ rằng họ đang ngoan ngoãn, ngây thơ chui đầu vào rọ của bọn CSBV lưu manh, gian ác.

Thế là 10 ngày qua, chưa có ai trở về. Rồi đến 20 ngày, 1 tháng, 3
tháng, 6 tháng đằng đẵng đã trôi qua.Chẳng gia đình nào nhận được một tin tức gì của chồng , con, cha, hay anh, em v.v… Đến lúc bấy giờ đầu óc hàng triệu triệu con người miền Nam ngây thơ, lạc quan tếu mới vỡ toang ra:

Nhà nước CSBV không hề bao giờ chịu bỏ xóa hận thù cho bọn ngụy quân, ngụy quyền và cả ngụy dân, như mọi người miền Nam mộng tưởng.

Bấy giờ , sau khi ngót một triệu sĩ quan, dân, cán, chính… đã bị sa
lưới rồi, sự thật mới bộc lộ và tâm địa gian ác, dã man của loài quỉ
đỏ mới hiện nguyên hình! Trong thảm cảnh này, có người tù cám cảnh đã để lại cho đời mấy vần thơ buồn thảm sau đây:
” Và cứ thế đợi chiều, mong chóng tối,
Tối mong đêm, chưa sáng lại mong ngày,
Ôi chán nghẹn những mùa mưa cũ mới,
Cứ bảo trời không khóc mướn thương vay!”

Ấy là chưa kể đến những hành động đối xử và tra tấn cực kỳ dã man, vô nhân đạo của bọn công an quản giáo.

Sau đây là bằng chứng diển hình về hành vi tra tấn dã man tù nhân. Hoàn toàn vi phạm công ước quốc tế về tù binh.

Người tù nạn nhân điển hình cho hàng trăm ngàn , hàng triệu đồng tù khác , tôi xin kể dẫn chứng như sau:
-“ Sĩ quan Nguyễn Văn Tửng, trung úy pháo binh, trình diện ngày
27.6.75 hiện ở trại T4/HT, L19-HT7590 thuộc F 500 trung đoàn 307 ( chuyển giữ tù binh).

Đia danh : Thành Ông Năm hay là Liên đoàn Công Binh, Hóc Môn ( cách SG 28 km) Sơ lược: khoảng 25 tuổi, thư sinh trói gà không chặt nhưng lanh lẹ, vui tính, sinh trưởng trong một gia đình khá giả miền Trung.

Sau 6 tháng học tập tẩy não và lao động quá cực nhọc, Tửng viết bản kháng thư trao cho đội trưởng nhờ đưa cho quản giáo, nội dung như sau:
1. Hãy trả tự do cho chúng tôi, học như vậy đã đủ.Hơn nữa chúng tôi không có ý phá cách mạng.

Chúng tôi buông súng đầu hàng không có nghĩa là thua cách mạng, nhưng là theo lệnh cấp trên. Chúng tôi muốn trở về xây dựng gia đình, giúp ích xã hội( như cách mạng muốn xây dựng XHCN).

2. Nếu không trả tự do, phát lương cho chúng tôi.Chúng tôi không
thể không có ăn , mặc, thuốc men, mà học tập lao động như một con vật.Như vậy, XHCN tốt đẹp, khoan dung đại lượng ở chỗ nào?

3. Cho chúng tôi được quyền tự do về tư tưởng, nói sự thật những
điều mắt thấy tai nghe. Và cách mạng cũng phải nói sự thật: “Đây là trại tù hay trại học tập”?

Lao động tốt, học tập tốt là như thế nào mới được thả về?

Tự do đi lại.Trại học tập gì mà bắt học viên nhốt như thú vật, không chỗ ở ( mỗi người 6 tấc bề ngang), không quần áo, rách rưới như ăn mày.

Kết quả:Tửng đuôc ban quản giáo mời lên nói là để giải quyết những vấn đề trễ.

Nhưng anh em đợi mãi không thấy về.Hơm sau anh em đem cơm lên thấy Tửng đang nằm, hai chân đã gẫy ngang vế, mặt sưng bầm tím, máu rỉ ra 2 bên tai và khóe miệng.

Dĩ nhiên Tửng không ăn được cơm.

Theo lời người đem cơm, bác sĩ chẩn bịnh nói Tửng sẽ chết trong thời gian rất ngắn.

Thế nhưng sau đó 7 ngày Tửng vẫn còn sống. Cơm đem lên cho anh, vệ binh kiểm soát rất ngặt: chỉ được đưa một nắm cơm, chút muối và 1 ca nước. Không cách nào đưa được thuốc và bông băng, chỉ trộn được ít thuốc vào cơm.

Lần hồi Tửng tỉnh lại, ban quản giáo gọi lên nhưng không hỏi han gì cả, chỉ chửi và đánh túi bụi, nào mày là phản động, tay sai của đế
quốc Mỹ, muốn xúi giục bọn tù làm loạn.

Nào chúng ta không phải không giết chúng mày được, nhưng tiếc viên đạn v.v…Vừa chửi vừa dùng AK dộng vào mặt, vào ngực, vào chân tay. Rồi chúng nhốt anh vào hầm. Lạ thay, 2 tháng sau, Tửng đứng dậy được, dù rất yếu. Chân đã gẫy mà bây giờ men theo tường đi được.

Tháng 7. 1977, tửng bị chuyển qua T4. Ở đây anh lại chống đối và chửi rủa.Chúng đánh cho gẫy cánh tay.

Anh em lại xin thuốc, giã nhỏ trộn vào côm và nước để nuôi anh. Về sau anh đã cử động được một cách rất khó khăn.

Một chánh trị viên được cử tới bảo anh em khuyên Tửng đừng chửi bới CS sẽ được về chung sống với nhau.

Nhưng Tửng nói :
Các anh hãy yên tâm.Chúng nó không dám giết tôi đâu.Thể xác tôi không đau bằng lý trí.Tôi đủ sức chịu đựng. Tôi không chết, không bao giờ chết. Đó là nguyên văn lời anh Tửng.

Nhưng anh Tửng đã không bị chúng giết ngay, mà giết bằng mọi cách hành hạ, tra tấn cực hình làm cho anh phải chết từ từ trong đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần!

Đây là một chuyện thật trăm phần trăm có tính cách tiêu biểu cho cho cảnh đau khổ nhục nhã của ngót triệu cựu quân nhân của quân lực VNCH, đồng thời nói lên bản chất gian trá lưu manh và vô cùng tàn ác, dã man của loài quỉ đỏ đội lốt người.

Trong khi đó, ở nhà, thân nhân những người tù học tập cải tạo, mẹ
trông con, vợ mong chồng thật ai oán ,não lòng, bút nào, giấy mực
nào kể cho hết.

Kể từ khi các giới quân cán, chính… miền Nam đi trình diện học tập cải tạo, tất cả mọi tin tức về họ đều bị bưng bít rất kín. Mãi cho đến khi CSBV ban lệnh cho phép thân nhân, gia đình của tù cải tạo được thăm nuôi, tiếp tế thì mọi người mới biết đích xác ai còn , ai mất.

Bấy giờ tình cảnh đói khổ , phải ăn bo bo và cơm trộn lẫn ngô, khoai của người dân miền Nam lại rẽ sang một khúc quanh khó khăn khác nữa.

Đó là vấn đề đào đâu ra tiền để mua thức ăn , thuốc men tiếp tế cho tù nhân? Đào đâu ra tiền để dùng làm lộ phí trên quãng đường dài trên 1200 cây số từ Nam ra Bắc?

Tiền đâu để đút lót cho bọn công an, quản giáo để được thăm nuôi xuông xẻ?

Đáp lại những câu hỏi này là cả một thiên trường hận khôn nguôi của người miền Nam đối với bọn CS miền Bắc.

 Trước hết là toàn thể miền Nam, từ cầu Hiền Lương cho đến tận mũi Cà Mau, cả một phong tráo bán chợ trời mở ra rầm rộ.

Lúc bấy giờ một ấn tượng thê thảm và ray rứt nhất cho lòng những người mẹ, người vợ, hay chị , em gái của những tù nhân cải tạo miền Bắc là tiếng rao của chú Ba Tàu :” Ai có cà rá, răng vàng bán không?”

Tất cả những gì có thể bán được mọi người dân miền Nam đều đã bán, hay đã bị bọn công an phường trấn lột hết sạch rồi.

Nhưng một số người vẫn còn cố giữ lại chiếc nhẫn bé nhỏ kỷ niệm ngày cưới hay chiếc răng vàng trong khoé miệng

. Bây giờ là lúc họ phải cậy ra bán nốt để lấy tiền đi thăm nuôi thân nhân đang ở tù cải tạo.

Giữa thời điểm đau thương, đói khổ đến cùng cực ấy trong dân gian đã có một nhà thơ vô danh nào đó cám cảnh với cả dân tộc miền Nam, mà đem bài thơ “ Mùa Xuân Trên Quê Ta” ca ngợi chiến thắng mùa Xuân năm 75 của bọn văn công CSBV ra nhái lại với ý tưởng đối chọi chua chát , sót sa .

Bài thơ này đã phát tán rộng rãi khắp hang cùng ngõ hẹp cho
bọn trẻ con tha hồ rêu rao.

Nguyên văn như sau:
-“ Mùa Xuân này mẹ đi thăm con
Thấy cái gì cũng mua cho con
Mua cho con 2 gói Sì Lây (*)
Mua cho con 2 gói Phượng Hồng (thuốc lá)
Tò te, xe vừa đến, mẹ bước lên thăm con
Sao con ốm ghê
Xanh mặt xanh mày
Bịnh gì con nói xem nào
Gà quay trong lo Ghi Gô ( hộp sữa bột Guigoz)
Mắm ruốc sào hay ăn tôm khô
Sa bô chia(*) 2 ký còn đây ( trái cây)
Ăn đi cho bổ dạ dầy!...”

Nguyên tác bài “ Mùa Xuân Trên Quê Ta” do văn công CSBV viết ra để diễn tả tâm trạng khoái trá, “vui mừng và tự hào” ( giống hệt luận điệu và ngôn ngữ của Huy Đức trong quyển Bên Thắng Cuộc) sau ngày đánh cướp miền Nam 30.4.75 như sau:

Mùa xuân này về trên quê ta
Khắp đất trời mở rộng bao la
Cây Xanh tươi ra lá trổ hoa
Chào mùa xuân về với mái nhà
Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh quang vinh
Ôi, đẹp biết bao, biết mấy tự hào
Sài Gòn tay vẫy tay chào
Cờ sao đang tung bay cao
Thôi hết rồi những năm thương đau
Sau bao nhiêu năm nay mới gặp nhau
Vui sao nước mắt lại trào?”

( còn tiếp nhiều kỳ)

ĐẶNG VĂN NHÂM

Mời vào xem : dangvannham.net

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin buổi sáng-20/11/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link