Việt cộng cái - Việt cộng đực
cũng đều như nhau
Phan
Nhân
Đảng Việt cộng
cũng như những con cọp dữ, cho nên dù là cọp cái, cọp đực, hay Việt cộng cái,
Việt cộng đực, thì bọn chúng cũng đều giống y chang như nhau, không hề khác. Mà
tại sao phải gọi bọn chúng là cái, đực. Xin thưa, tại vì bọn chúng không có
nhân tính, mà chỉ có thú ác tính. Chúng nó đã từng được “giáo dục” bằng chủ
thuyết Cộng sản vô thần: “vô gia đình - vô tổ quốc - vô tôn giáo”; và sau đó,
chúng đã được sinh sôi trong một môi trường tràn đầy sát khí, chỉ biết giết người,
lừa dối, lưu manh, lọc lừa... Bọn chúng lừa gạt hết mọi người, kể cả những người
thân đã đem lòng tin cậy vào chúng, cho đến khi người ta biết tỏng về chúng rồi,
chúng không lừa gạt họ được nữa, thì chúng liền giở những trò bạc ác, tiểu nhân
nhất…
Ngoài ra, chúng ta
cần phải nhớ rằng: chính Hồ Chí Minh đã “dạy” phải gọi là “chiến sĩ gái” chứ
không được gọi là “nữ chiến sĩ”. Nghĩa là, trong xã hội của chế độ Việt cộng,
thì chỉ có “trai gái”, tương tự như “đực cái”, chứ không có nam nữ.
Do đó, phải gọi
Nguyễn Thị Kim Chi là một văn công cái, hay là một con Việt cộng cái, mà chính
y thị đã tự hào là “người Cộng sản”; một trong những tên Việt cộng cái, Việt cộng
đực đầu tiên vượt Trường sơn vào miền Nam, để xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa,
và để đặt những quả mìn, và chất nổ ở những nơi chốn đông người như nhà thương,
trường tiểu học... giết hại trẻ thơ và những người dân lành vô tội !
Thật tội nghiệp
cho những kẻ đã đội cái “mâm” của một tên Việt cộng cái lên đầu bằng những lời
ca tụng, đã hít lấy, hít để những thứ vô cùng thúi, thúi hơn tất cả mọi thứ
thúi bằng câu “kinh nhật tụng”: “Trên cả tuyệt
vời”. Bởi vậy, cho nên Phan Nhân tui, phải sửa lại cho nó đúng: Thúi trên cả mọi thứ thúi nhất ở trên đời.
Nhưng mà Phan Nhân
tui, muốn “mời” các “ngài” hãy đội, hãy hít luôn cái “mâm” của Nguyễn Thị Định,
một tên Việt cộng cái trong một tấm hình chụp chung với Việt cộng cái Nguyễn Thị
Kim Chi, mà theo cái “tiểu sử” do đảng Cộng sản Việt Nam đưa vào đền thờ, và đã ghi chép như sau :
“TIỂU
SỬ BÀ NGUYỄN THỊ ĐỊNH:
(1920
– 1992)
Phó
tổng tư lệnh quân Giải phóng miền Nam
Chủ
tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Phó
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.
“Bà Nguyễn Thị Định sinh ngày 15-3-1920 tại xã Lương Hòa,
huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà là út của 10 anh em trong gia đình nông dân
giàu lòng yêu nước và cách mạng. Thuở nhỏ, bà phải sống trong xã hội thực dân
và phong kiến, gia đình đông con nên khó có điều kiện cắp sách đến trường như
bao người khác. Bổn phận là anh, hơn nữa thương em nhiều nên anh Ba (Ba Chẩn)
đã dạy bà học cho biết cái chữ tại nhà. Tuy không học được nhiều nhưng bà rất
thông minh, nhạy cảm và hiểu biết đủ điều, thích đọc nhiều truyện, đặc biệt là
truyện Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu. Những nhân vật, những hình ảnh,
những cuộc đời trong truyện gợi cho bà có một ước mơ vươn đến cuộc sống cao đẹp,
gieo trong lòng bà tình thương sâu sắc đối với tầng lớp nghèo trong xã hội và
căm ghét những cảnh bất công. Cứ mỗi ngày đem cơm, nước cho anh Ba trong tù, tận
mắt chứng kiến cảnh lính Pháp tra tấn, đánh đập dã man, thân hình bầm tím, máu
chảy loang trên nền xi măng thì lòng bà lại quặn đau như thắt. Lúc này bà mới
hiểu các anh bị bắt, bị đánh đập là vì làm việc cứu nước, cứu dân, chống lại
Pháp, chống lại chủ điền. Từ đó bà hiểu nhiều về nỗi nhục mất nước, người giàu ức
hiếp người nghèo và cần phải chống lại chúng.
Năm
1936, vừa tròn 16 tuổi, bà bắt đầu tham gia cách mạng. Hai năm sau (1938) bà được
đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng Sản Đông Dương. Cũng trong thời gian này, bà xây dựng
gia đình với ông Nguyễn Văn Bích – Tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre, được không bao
lâu thì chồng bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh tại đó. Nhận được tin chồng
hy sinh, lòng căm thù của bà lại nhân gấp bội. Bất chấp con còn nhỏ, gởi lại mẹ
chăm sóc, bà thoát ly tham gia họat động cách mạng tại tỉnh nhà.
Năm
1940, bà lại bị Pháp bắt và biệt giam tại nhà tù Bà Rá, tỉnh Sông Bé (nay thuộc
tỉnh Bình Phước). Ba năm tù cũng là ba năm họat động kiên cường, bất khuất của
bà trong nhà tù. Năm 1943, ra tù trở về Bến Tre, bà liên lạc với tổ chức Đảng,
chính quyền cách mạng của tỉnh và tham gia giành chính quyền vào tháng 8-1945.
Tuy còn ít tuổi nhưng nhờ có ý chí kiên cường, lòng yêu nước mãnh liệt, lại nhiều
mưu trí nên bà được Tỉnh ủy chọn làm thuyền trưởng chuyến đầu tiên vượt biển ra
Bắc báo cáo với Đảng và Bác Hồ về tình hình chiến trường Nam bộ và xin vũ khí
chi viện. Từ đó tên tuổi của bà đỏ thắm “đường Hồ Chí Minh trên biển”.
Trong
thời kỳ chiến tranh chống Mỹ-Diệm ác liệt, với luật 10/59 của Ngô Đình Diệm, địch
cứ truy tìm quyết liệt, chúng còn treo giải thưởng cho ai bắt được bà. Nhưng
chúng đã không làm gì được bà vì bà luôn thay hình đổi dạng, có lúc giả làm thầy
tu, thương buôn, lúc làm nông dân… và luôn được sự đùm bọc của những gia đình
cơ sở cách mạng, của những người mẹ, người chị để qua mắt kẻ địch. Sự thắng lợi
của phong trào Đồng Khởi Bến Tre (17-1-1960) đã trở thành biểu tượng kháng chiến
kiên cường bất khuất, tiêu biểu cho phong trào cách mạng miền Nam, chuyển từ thế
phòng ngự, bảo toàn lực lượng, sang thế tấn công, dẫn đến thắng lợi hoàn toàn.
Đồng Khởi Bến Tre còn thể hiện rõ phương châm đánh địch bằng ba mũi giáp công,
đặc biệt là phong trào đấu tranh chính trị, binh vận của đội quân tóc dài. Năm
1961, bà được bầu làm Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam, đã
có công rất lớn trong việc xây dựng và phát huy tác dụng “Đội quân tóc dài”,
làm cho quân thù vô cùng run sợ. Thượng tướng Trần Văn Trà nói bà là người “Có
tài thao lược, ý chí cao, nghệ thuật điều hành của đội quân tóc dài, vừa hình
thành tổ chức, vừa tác chiến ngay tại chiến trường vô cùng phức tạp và đã đem lại
chiến thắng vẻ vang”.
Sinh
thời, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã từng nói: “Một người phụ nữ đã chỉ huy thắng
lợi cuộc Đồng Khởi ở Bến Tre thì người đó rất xứng đáng được làm tướng và ở
trong Bộ Tư lệnh đánh Mỹ”. Năm 1965, bà được phong quân hàm Thiếu tướng quân đội
nhân dân Việt Nam, và được giao giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải phóng miền
Nam đến năm 1975.
Mặc
dù là tướng, nhưng bà rất nhân ái, rộng lượng, bao dung, sống chan hòa với mọi
người, luôn thể hiện đậm nét là một người đồng đội, người chị, người mẹ hiền, tận
tụy chăm sóc từ cơm ăn, áo mặc cho các chiến sĩ nhất là nam giới; những nỗi
đau, mất mát và sự hy sinh cao cả của nhân dân được bà cảm nhận và chia sẻ một
cách tinh tế và kịp thời. Có thể nói, cái tên chị Ba, cô Ba đã quen thuộc, thân
thương, không chỉ với các tầng lớp phụ nữ và nhân dân trong nước, mà còn với bạn
bè năm châu. Bà đã từng tự xác minh, làm rõ sự thực để xử lý những vụ tiêu cực,
vi phạm quyền lợi của người dân. Từng thăm hỏi, chia sẻ buồn vui với nhiều địa
phương, nhiều tầng lớp nhân dân, phụ nữ từ già tới trẻ, từ nơi ăn, nơi làm tới
nơi hoạn nạn khó khăn, cả những trại tù, trường cải tạo lao động bà cũng không
nề hà. Mỗi chuyến đi để lại cho bà những bức xúc, những việc phải làm.
Từ
sau ngày miền Nam được giải phóng, thống nhất đất nước, Bà Nguyễn Thị Định đã
giữ nhiều chức vụ trọng trách mới cùng Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo thành công
việc thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Bà luôn quan tâm tới việc
đào tạo, sử dụng cán bộ, đáp ứng nhu cầu đổi mới của nền kinh tế. Bà ủng hộ
phương thức làm ăn mới, tạo điều kiện giúp đỡ cho các cán bộ trẻ có năng lực quản
lý phát huy được tính năng động, mang lại hiệu quả kinh tế. Nhờ vậy, ở thời điểm
đó, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã có những thay đổi tích cực, khẳng
định được vai trò của cán bộ phụ nữ, không chỉ trong công tác xã hội, mà cả
trong quản lý kinh tế, mà công ty du lịch Hoà Bình là một ví dụ cụ thể.
Về
sống ở thủ đô trong không khí hoà bình với những tiện nghi đầy đủ hơn, bà vẫn
giữ được tác phong quần chúng sâu sát như ngày ở chiến trường. Bà luôn luôn quan
tâm đến cấp dưới, đến mọi người xung quanh, thương yêu những người bất hạnh,
bênh vực và bênh vực tới cùng những người bị ức hiếp, bị oan ức. Công việc của
nhà nước, của Hội đã choán hết thời giờ, thế nhưng mỗi khi bước chân về nhà, thấy
bà con từ các tỉnh xa về, các chú, các bác nông dân, các bà, các chị bế cả con
nhỏ ngồi chờ nơi cổng, bà lại tiếp họ. Không chỉ nhận đơn rồi bảo người ta về,
chờ đợi kết quả mà bà trực tiếp lắng nghe họ trình bày những nổi oan khúc, những
điều phi lý bất công, mất dân chủ mà họ phải chịu đựng.
Bà
luôn giữ mối thâm tình với những đồng chí cũ từng vào tù, ra tội nay đã về nghỉ
hưu, già yếu, bệnh tật, nhất là những người quá nghèo cực và nhớ ơn những cơ sở,
những người đã từng cưu mang, bảo bọc, nuôi giấu mình trong những ngày cách mạng
bị dìm trong đêm đen khủng bố của kẻ thù. Khi thì chiếc áo ấm, xấp vải, chiếc
khăn quàng, lọ thuốc, gói bột ngọt…bà gởi đến tận tay từng người, từng nhà. Của
có khi chẳng đáng là bao, nhưng cái quý giá là tấm lòng, là cái tình, sự thủy
chung gói ghém bên trong.
Mặc
dù công tác bận rộn, nhưng bà vẫn không xao lãng trách nhiệm đối với gia đình.
Bà đích thân lặn lội về tận Đại Điền (huyện Thạnh Phú, Bến Tre), đón bà mẹ chồng
lúc ấy đã hơn 70 tuổi đang sống với hai đứa cháu còn nhỏ dại trong túp lều bằng
lá, bữa đói, bữa no về nhà chung sống. Tuy bà không trực tiếp chăm sóc hàng
ngày, nhưng mỗi khi đi công tác xa về, bà vẫn nhớ quà cho mẹ, khi thì chiếc
khăn, khi thì gói trầu cau. Ngồi ăn cơm chung, bà thường gắp từng miếng ngon mời
mẹ dùng, vì thế mẹ chồng quý bà không khác gì con đẻ. Đối với các cháu nội ngoại,
bà đều thương yêu như nhau, bà rất tế nhị, không gây tâm lý cậy dựa, nhờ vả, nhắc
nhở mọi người tự cố gắng học hành, lao động, không xao lãng việc chung, làm ăn
chân chính, ngay thẳng.
Bên
cạnh đó, trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhất là sự nghiệp đổi mới đất nước
bà quan hệ và làm việc với nhiều nước trên thế giới. Những hoạt động đối ngoại
năng động, giàu nhiệt tình và sáng tạo của bà có sức chinh phục mạnh mẽ trái
tim của nhiều bè bạn quốc tế. Bà nhận được nhiều phần thưởng cao quý mà Đảng và
Nhà nước ta cũng như thế giới đã trao tặng.
Bác
Hồ nói: “Phó Tổng tư lệnh quân giải phóng miềm Nam là cô Nguyễn Thị Định, cả thế
giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật vẻ vang cho cả miền Nam,
cho cả dân tộc ta”.
Trung
với Đảng, hiếu với dân suốt đời hy sinh cho sự nghiệp cách mạng cao cả, trước
lúc mất (2 ngày), bà còn đến thăm và làm việc với lãnh đạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
nhưng do tuổi cao, sức yếu, lại thêm căn bệnh đau tim nên lúc 22 giờ 50 phút
ngày 26 tháng 8 (tức 28/7 âm lịch) năm 1992, bà đã vĩnh biệt chúng ta và yên
nghỉ tại Nghĩa trang Thành phố HCM.
Với
72 tuổi đời, 56 năm họat động cách mạng trung kiên, mẫu mực, suốt đời phấn đấu
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ, với đức tính khiêm tốn, vị
tha, nhân hậu, giản dị, dịu hiền và luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, bà Ba Định
là người phụ nữ tiêu biểu nhất, xứng đáng với tám chữ vàng mà Bác Hồ kính yêu
đã tặng cho phụ nữ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Để
tri ân công lao đóng góp của nữ tướng Nguyễn Thị Định. Ngày 30-8-1995, bà được
Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân. GS Trần Văn Giàu nói “Những người như chị sống làm tướng, chết
thành thần”. Đúng vậy, đền thờ bà đã được xây dựng và
khánh thành vào ngày 20-12-2003 để nhân dân đến viếng và thắp hương tưởng niệm.
Tiếp đến, ngày 8-4-2007, Bộ Quốc phòng đã tặng tượng đồng chân dung nữ tướng
(cao 1m75, nặng 1.025 kg) trong trang phục áo bà ba, khăn rằn quấn cổ đặt tại đền
thờ”.
Nguồn:
“từ Nhà xuất bản Phụ nữ và Bảo tàng tỉnh Bến Tre”
Nguyễn Thị Kim Chi với Nguyễn Thị Định
Đấy, các “ngài” có
thấy cái bản mặt của Việt cộng cái Nguyễn Thị Kim Chi và Việt cộng cái Nguyễn Thị
Định trong tấm hình chụp chung, và các “ngài” có ngửi thấy được mùi gì từ cái
“mâm” của Nguyễn Thị Định và cái “mâm” của Nguyễn Thị Kim chi hay không ? Thơm,
hay: Thúi Trên cả mọi thứ thúi ? . Dzậy thì, đừng chần chờ chi nữa, mà các “ngài” hãy vào trong cái gọi là “đền thờ”, để quỳ xuống,
và hãy dập đầu sát đất mà lạy trước tượng của “nữ tướng” Việt cộng cái Nguyễn
Thị Định đi, vì “Trên cả tuyệt vời”!
Mà kể ra, thì cũng
thiệt hết sức tội nghiệp cho những “ngài” chỉ biết đánh hơi mà tâng bốc, mà đội
những cái “bàn thờ” của những tên Việt cộng cái, Việt cộng đực lên trên đầu, và
“Trên cả bàn thờ” của mình. Những kẻ
này, không hề có lý tưởng gì cả, mà chỉ biết chờ có một tên Việt cộng dù là cái
hay đực mà chỉ cần chúng “thở xì” ra một hơi “ít… ít…xịt…”, là liền ôm lấy mà
hít hà khen “thơm... thơm quá”. Những “hiện tượng” này, chúng ta cần phải biết
rằng : trước khi đưa những tên Việt cộng ra sân khấu chính trị để tô điểm cho một
chế độ tàn bạo, thì đảng Việt cộng đều phải đưa những tên đảng viên Cộng sản
tuyệt đối trung thành với “đảng ta” phải có những lời tuyên bố với tuyên
con…thiệt kêu, thiệt nổ như trung tiện, ấy, ấy, hổng phải, là trung liên… ; để
rồi sau đó, sẽ xuất đầu lộ diện, sẽ được ra hải ngoại để đứng cùng với những tổ
chức lừa bịp, để trở thành những “nhà tranh đấu nhân quyền” theo cái kiểu như
Việt Tân (VT) dzậy.
Nguyễn Thị Kim Chi (Trái) cùng “đội văn công giải phóng”.
Còn đây là tên văn
công Việt cộng cái Nguyễn Thị Kim Chi đang hướng chung lòng với khẩu AK và “đội
văn công giải phóng”. “Thơm” quá, phải không, vì “Trên
cả tuyệt vời” ? Hãy ôm lấy, bợ lấy, mà ngửi đi, hít đi, ngửi và hít
cả khứu giác và vị giác, vì như thế, nó mới thấm, thấm sâu vào tận từng tế bào
của mũi, của lưỡi. Ôi ! cái mùi quá ư là “Trên cả
tuyệt vời” !
Mà “tuyệt vời” thiệt,
đối với những kẻ suốt đời chỉ biết chuyên môn bưng bô, đội đĩa, liếm trên, liếm
dưới cho những tên Việt cộng cái, Việt cộng đực, Việt cộng già, Việt cộng trẻ…
Tất cả đều là một lũ : Thúi trên tất cả mọi
thứ thúi nhất ở trên đời.
Colorado,
14/01/2013
Phan
Nhân
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment