HOÀNG SA, TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM !
CHO DÙ NAY ĐÃ BỊ TRUNG CỘNG CƯỠNG ĐOẠT BẰNG VŨ LỰC
MƯỜNG GIANG
Theo bản tin của UPI-AFB ngày 23-9-1958, thì vào ngày 14-9-1958, thủ tướng Bắc
Việt là Phạm Văn Ðồng đã ký văn kiện có phê chuẩn của chủ tịch nước Hồ Chí Minh
xác quyết rằng : ‘ Chính phủ VNDCCH tôn trọng quyết định, lãnh hải 12 hải
lý cũng như hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, chính là hai đảo Tây Sa-Nam Sa của
Trung Hoa ’. Tiếp theo ngày 22-9-1958 đại sứ VC tại Bắc Kinh là Nguyễn
Khang dâng văn kiện xác nhận điều trên, do Phạm Văn Ðồng ký lên thiên triều.
Tháng 5-1976, trên tờ Sài Gòn Giải Phóng của Ngô Công Ðức, Lý Quý Chung..
vẫn còn đăng lời xác nhận của CSVN rằng ‘ Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung
Cộng’. Khôi hài hơn, báo trên còn viết tiếp ‘ vì ta
và Tàu sông liền sông núi dính núi, nên Hoàng Sa-Trường Sa của ai cũng thế thôi,
nên nếu VN muốn lấy lại đảo lúc nào, Bắc Kinh cũng sẵn sàng giao trả ‘
Nhưng có lẽ bi thảm nhất vào ngày 14-3-1988, Hải quân VN đã giao tranh đẳm máu
với Tàu đỏ tại Trường Sa để bảo vệ số đảo còn lại của ta, từ sau ngày 30-4-1975.
Ngay sau đó, trên tờ Nhân Dân số ra ngày 26-4-1988, Hà Nội đã không dám tố cáo
sự kiện lịch sử này trước công luận quốc tế, ngược lại vẫn ngoan cố bao che cho
tội bán nước của Hồ Chí Minh năm 1958 là đúng. Bởi có vậy, Trung Cộng lúc đó mới
viện trợ súng đạn, gạo tiền và cả triệu quân, để CS Bắc Việt có phương tiện và
hậu thuẩn đánh chiếm VNCH từ 1955-1975.
Gần một thế kỷ bị Pháp đô hộ (1884-1954), đã độc quyền ký kết nhiều hiệp ước
song phương cũng như các công ước quốc tế, về luật biển, hải đảo và biên giới
giữa các nước. Năm 1885, Pháp ký với Mãn Thanh hiệp ước Thiên Tân, hủy bỏ sự
liên quan giữa Nhà Nguyễn VN và Trung Hoa, hủy bỏ ấn phong vương, phân định lại
đường ranh giới bằng cọc cắm và bản đồ. Năm 1887, Pháp và Trung Hoa lại ký
Hiệp Ước Brévié, phân ranh vùng Vình Bắc Phần, từ Trà Cổ (Móng Cáy), dọc kinh
tuyến Ðông 108. Theo đó, phía tây đảo Bạch Long Vĩ là lãnh hải của VN, phía
đông là của Trung Hoa. Về sự tranh chấp hai quần đảo Hoàng SaTrường Sa, cũng được
quốc tế giải quyết năm 1982 dựa theo công ước luật biển. Tháng 11-1993, công ước
trên được LHQ phê chuẩn và thi hành vào năm 1994, với 170 quốc gia công nhận, trong
đó có Trung Cộng và VN.
Từ sau ngày 30-4-1975, CSVN lúc nào cũng rêu rao về độc lập tự do, vẹn
toàn lãnh thổ. Thế nhưng mọi sự đã lộ nguyên hình khi thành tích bán nước cho
Tàu, phản bội quê hương bị toàn dân trong và ngoài nước phanh phui. Nhờ đó, mọi
người mới biết trong năm 1999 và 2000, Ðổ Mười, Lê Khả Phiêu, Võ Văn Kiệt, Nông
Ðức Mạnh, Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Tấn Dũng và hầu
hết Chính trị Bộ, đã lén lút ký kết 2 Hiệp Ước bất bình thường, vô lý, phản
bội dân tộc, trong sự Bán Ðất Biên giới và Bán Vịnh Bắc Phần cho giặc Tàu.
Tóm lại, tất cả những ký kết điều hoàn toàn sai trái về công pháp quốc tế
và đạo lý dân tộc, đi ngược lại truyền thống hòa bình, tự chủ, không lấy thịt
đè người của bản tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Tất cả đều là những
âm mưu xâm lăng, hay nói đúng hơn chính Hồ Chí Minh và CSVN đã rước voi Tàu về
dầy mã Việt, ngay từ khi bắt đầu nhận viện trợ của Trung Cộng năm 1950 cho tới
cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 (1960-1975) chấm dứt. Trung Cộng lợi dụng quân
viện và nhất là trong cuộc chiến biên giới năm 1979 giữa Việt-Trung, đã xua
hàng triệu dân Tàu gốc thiểu số tại các tỉnh biên giới, lấn đất dành dân,sâu
trong nội địa VN. Theo báo chí ngoại quốc, VC đã bán cho Trung Cộng tại biên giới
Việt Hoa hơn 15.600 km2 và 20.000 km2 lãnh hải trong vịnh Bắc Phần.. Do đó tại
Miền Bắc ngày nay, VN đã mất hẳn những địa danh hồn thiêng sông núi như Ải Nam
Quan, Thác Bản Giốc, và Ðồng Ðăng với Phố Kỳ Lừa
Thời Pháp thuộc, Nam Quan được gọi là Porte de Chine. Sau năm 1954, Mao
Trạch Ðông đổi thành Mục Nam Quan, riêng VC gọi là Cửa Hữu Nghị. Trong dòng
sông lịch sử, suốt mấy ngàn năm qua, Nam Quan là nơi chứng kiến bao cuộc tang
dâu máu lệ. Ngày xưa, tại nơi này, Mạc Ðăng Dung quì gối dâng đất cho nhà Minh
để được làm vua nước Nam. Bây giờ lịch sử lại tái diễn qua sự kiện CSVN liên tục
lén lút bán biên giới và lãnh hải, hải đảo cho giặc Tàu để vinh thân, phì gia,
bảo vệ đảng cọng sản.
Từ năm 1930 tới nay chỉ vì lợi lộc cá nhân và đảng hệ, mà đảng CS đã cõng voi về
đầy xéo đất nước, làm cho voi quen đường, chẳng những lấn đất dành biển, mà còn
ngổ ngáo sử dụng một mình một chợ thượng nguồn các con sông thiêng của VN, từ
sông Hồng, sông Ðà, Lô, Thái Bình ở Bắc Phần cho tới sông Cửu Long tại miền
Nam. Thảm kịch trên làm cho nước ta, bao chục năm qua chịu không biết bao nhiêu
thiên tai bảo lụt, gây thiệt hại mùa màng tật bệnh, vì những chất độc hại của Tàu
đổ xuống các dòng sông, theo nước xuống tận đồng bằng sông Hồng, sông Cửu trước
khi ra biển.
Dân chúng VN bao đời sống nhờ biển cá, CS ngày nay đem biển bán cho giặc Tàu,
khiến cho nguồn lợi thủy sản bị hao hụt trầm trọng, tài nguyên dưới đáy biển
bao đời, nay thuộc về ngoại bang. Tháng 1-2005, ngư dân tỉnh Thanh Hóa hành nghề
trong Vịnh Bắc Việt , đã bị lực lượng quân sự của Trung Cộng bắn giết một cách
tàn nhẫn tận tuyệt, bất chấp lòng nhân đạo và luật lệ của quốc tế. Thảm kịch
đau lòng tủi nhục trên làm cho cả nước, ai cũng rớt nước mắt vì thường đồng bào
mình. Tiếp theo là việc Trung Cộng khai thac dầu hỏa trong vùng lảnh hải và thềm
lục địa của VN, cố tình gây nạn tràn dầu, ô nhiễm chất phế thải, khiến cho đồng
bào dọc miền duyên hải, từ bắc vào nam gánh chịu. Ðó là chưa nói tới, ngư dân
VN hàng ngày bị Tàu cấm hành nghề , vì biển củ đả bị đảng bán cho giặc, vịnh Bắc
Việt trở thành Vịnh Hải Nam của người Tàu.
Bổng thấy không cầm nổi nước mắt khi tình cờ đọc lại một bài thơ cũ của một tác
giả nào đó ngợi ca cuộc đấu tranh trường kỳ của Dân Tộc Việt :
‘ Nhớ những thuở cầm Hồ đoạt
sáo
Nhạc Bình Ngô, ca Quỳnh Uyển
rập rình
Thuở Hồng Bàng rẽ nước rạch
hoang
Vận nhiễu nhương nằm gai nếm
mật
Nay ta hát một thiên ái quốc
Yêu gì hơn yêu nước nhà ta
Trang nghiêm bốn mặt sơn hà
Ông cha ta để cho ta chạm
vàng
Trải bao lớp tiền nhân dựng
mở
Bốn ngàn năm dãi gió dầm mưa
Làm trai đứng ở trên đời
Sao cho xứng đáng giống nòi
nhà ta
Ghé vai gánh đỡ sơn hà
Sao cho tỏ mặt mới là trượng
phu..”
1-TÌNH HỮU NGHỊ VIỆT
TRUNG “ 4 TỐT, 16 CHỮ VÀNG “ :
Ngày nay sau 37 năm chiến tranh chấm dứt nhưng nhìn lại thực trang VN, một nước
không nhỏ ở Ðông Nam Á, với dân số gần 90 triệu người, có nhiều tiềm năng kinh
tế như hải sản, lúa gạo, dầu khí và khối nhân lực trẻ trung, thông minh.. không
thua một nước nào trong vùng. Thế nhưng tới giờ đất nước vẫn nghèo đói, xã hội
suy đồi , thân phận người phụ nữ VN bị hạ thấp đọa đầy giữa vũng bùn ô nhục nhất
thế giới.
Tất cả thảm trạng trên từ đầu tới cuối đều có tương quan nhân quả vơi đảng CSVN
qua vai trò lảnh đạo đất nước bằng thể chế độc tài thối nát, quan chức tham
nhũng, già nua cuồng tín, đạo đức suy đồi nhưng đam mê quyền năng, tham vọng bè
phái, trình độ thoái hoá.. càng lúc càng đi ngược dòng, qua các kỳ đại hội
trung ướng đảng từ 1976-2013. Ðối với nhân loại, chủ nghĩa cộng sản được coi
như cội nguồn mọi tội ác trên đời nhưng Việt Cộng vẫn tiếp tục tôn sùng Lê-Mác,
trong khi đó chính người Nga đã vứt tượng lẫn chế độ Sô Viết vào thùng rác.
Tìm đường vào lịch sử VN cận đại sau bức màn đỏ tại bắc bộ phủ, thực tế sẽ làm
cho mọi nguời khựng điếng khi đối diện với một tâp đoàn tự xưng là lãnh đạo đất
nước từ trước tới nay, mặt thật chỉ là một lũ âm tướng hung thần, kết phe tụ đảng,
võng lọng lạy bái lẫn nhau. Chúng kiên định quyết tâm tiến lên xã hội chủ nghĩa,
kiên quyết đâu tranh với các tư tưởng đa nguyên chính trị, không để hình thành
tổ chức chính trị đối lập nào. Cuối cùng là ‘ Trung Quốc vĩ đại đối với
chúng ta, không chỉ là người đồng chí mà còn là người thầy tín cẩn đã cưu mang
chúng ta nhiệt tình, để chúng ta có được ngày hôm nay thì ‘ CHỦ
QUYỀN HOÀNG SA THUỘC TRUNG QUỐC HAY THUỘC TA CŨNG VẬY THÔI (???).
Bao chục năm qua, mặc cho hàng trăm ngàn sinh mạng của đồng bào trôi vào miệng
cá trên đường tìm tự do, mặc cho hàng trăm ngàn sinh mệnh của quân công cán cảnh
VNCH bị đầy đọa chết thảm trong tù ngục, mặc cho triệu triệu người dân cả nước sống
lầm than đói lạnh vì chính sách bạo tàn, mặc cho hàng trăm ngàn thiếu nữ khắp
nước bị xô đẩy vào xó đời nhục hận vì vũng bùn XHCN. Ðảng vẫn cứ coi ‘ quê
hương là chùm khế ngọt ‘ để tận lực sử dụng như một công cu riêng, phụng sự
cho quyền năng của chúng được mãi mãi trường tồn. Tóm lại ‘ Tổ quốc quê
hương, tình đồng bào ruột thịt.’ mà đảng có trách nhiệm duy nhât và lớn lao
tự nguyện gánh vác THỰC CHẤT chỉ lợi dụng ÐỂ TRIỄN DƯƠNG Ý THỨC HỆ
XHCN, chứ không bao giờ tạo sự ỔN ÐỊNH HẠNH PHÚC VÀ THĂNG TIẾN cho dất
nước và dân tộc VN.
Cho tới cuối thế kỷ XX quyền cai tri VN vẫn nằm trong một vài tên lãnh đạo CS
già nua trong Bộ chính trị có từ thời chiến cuộc Ðông Dương lần thứ 2 như HCM,
Lê Duẩn, Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Ðức Thọ, Trường Chinh.. và chia làm
2 phe theo Nga hay Tàu Ðỏ. Năm 1967 Khruschev bị hạ bệ tại Liên Xô, phe Lê Duẩn-Lê
Ðức Thọ lúc đó đang theo Mao, đã lợi dụng thời cơ, tạo ra vụ án xét lại để triệt
hạ gần như toàn bộ vây cánh của Võ Nguyên Giáp (theo Nga). Chính cá nhân HCM
cũng bị Lê Duẩn lấn quyền nên chỉ còn biết an phận để được làm ‘ bác ‘
trên giấy tờ, còn Giáp thì gần như mất hết chức vụ khi HCM chết năm 1969.
Sau ngày 30-4-1975 cưởng chiếm được VNCH và làm chủ cả nước, thế lực của Duẩn-Thọ
càng mạnh với nhiều vây cánh bao trùm Bộ Chính trị và quân đội, trong kỳ đại hội
đảng lần thứ 4 (1976) . Nghị quyết của đảng lần này là ‘ nắm vững chuyên
chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể nhân dân lao động.. ’ ’ để đảng kiểm
soát cả nước bằng bộ máy công an, từ trung ương đến tận tổ dân phố, qua các biện
pháp như sổ hộ khấu, phiếu mua lương thực, giấy thông hành.. nhưng biện pháp hữu
hiệu nhất của chế độ là ‘ tố cáo lẫn nhau ‘ để được lập công cho đảng,
cho phẩm chất đạo đức cách mạng. Giai đoạn này Lê Duẩn theo Nga nên thẳng tay
thanh trừng phe theo Trung Cộng như Hoàng Văn Hoan, Chu Văn Tấn, Lê Quảng Ba.. Hậu
quả gây nên cuộc chiến biên giới giữa Việt-Miên và Tàu đỏ (1977-1985).
Tháng 3-1982 đảng lại nhóm họp đại hội trung ương lần thứ V, cũng chỉ với mục
đích tăng thêm quyền lực của nhóm Duẩn-Thọ và kiên quyết theo Nga Sô để tiến
nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên XHCN. Kỳ này ngoài số cán bộ già nua cũ,
trong bộ chính trị còn có thêm Võ văn Kiệt, Ðổ Mười, Lê Ðức Anh.. còn Võ Nguyên
Giáp bị loại khỏi chính quyền và mất luôn chức bộ trưởng quốc phòng, Nguyễn Văn
Linh cũng bị ra rìa hạ tầng công tác.
Ðể làm vừa lòng chủ mới, CSVN vào năm 1985 cho dựng tương Lê Nin cao 5m tại Hà Nội,
còn việc nuớc thì hoàn toàn rập theo khuôn mẫu Liên Xô. Về hiến pháp, bỏ câu
mở đầu trước đây mượn từ miệng Mao Trạch Ðông, đồng thời thêm vào cuốn
Ðiều Lệ Ðảng ‘ Trung Quốc là kẻ thù lâu đời và nguy hiểm nhất ‘.Trong
bản tu chính Hiến pháp cũng ghi ‘ Vừa trải qua 30 năm chiến tranh giải
phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hòa bình để xây dựng tổ quốc nhưng lại
phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng
tại Kampuchia ‘. Ngoài ra còn gọi sự kiện theo Nga là ‘ Hòn đá tảng ‘.Trong
khi đó chính ông chủ Nga là Brezhnev đã từ lâu đi đêm với Trung Cộng, Hoa Kỳ lẫn
khối ASEAN để giao dịch kinh tế, chính trị, hậu thuẩn.
Những năm đó VN đói khổ triền miên vì chính sách kinh tế quốc doanh định hướng
theo XHCN. Tại Nga năm 1982 Brezhnev chết, Andropov và Chermenko kế vị cũng
không giải quyết được sự suy sụp của đế quốc Liên Xô sắp tói. Tháng 3-1985
Gorbachev lên nắm quyền, phải cứu đảng cứu nước bằng chính sách Cởi Trói
(Glasnov) và Tái Cấu Trúc (Perestroika). Quan trọng nhất là Nga chịu hòa hoản cả
Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ để sinh tồn.
Trước sự kiện sắp bị Nga ruồng bỏ, đảng CSVN lại Nghị Quyết vào ngày 13-8-1986
rằng ‘ đảng ta ngợi ca sự hợp tác toàn diện Việt-Xô nhưng cả hai nước sẳn
sàng bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc’. Mặc cho VC nói gì
thì nói, TC cứ tiếp tục cuộc chiến biên giới giữa hai nước, kéo dài từ 1979 tới
nay, chiếm nhiều đất đai của ta trong đó có núi Faka và Núi Ðất thuộc tỉnh Hà
Giang.
Cuộc cờ đang thế bí thì Lê Duẩn chết năm 1986, đã giúp CSVN có cơ hội trở cờ bằng
cách đưa Trường Chinh thuộc phe theo Tàu đỏ lên thế chức tổng bí thư đảng cùng với
Nguyễn Văn Linh vừa bị loại cũng được vào lại bộ chính trị. Lê Ðức Thọ cùng phe
nhóm Duẩn vẫn còn mạnh nhưng vì nhu cầu PHẢI THEO TÀU nên chịu đứng bên
trong hậu trường làm Thái Thượng Hoàng quyết định tất cả quyền lực cả nước như
HCM thuở trước. Thâm độc hơn, Thọ đề nghị với Ðồng và Chinh vì tuổi già nên từ
bỏ quyền lực nhường lại cho lóp trẻ, mà phần lớn thuộc vây cánh của Thọ đã cài
sẳn như Lê Ðức Anh, Ðổ Mười, Nguyễn Văn Linh.. Tóm lại năm 1986 qua sự suy sụp
của đế quốc Nga, làm cho ý thức hệ đảng CSVN gần như lung lay tới tận gốc. Vì vậy
một mặt phải ‘ Ðổi mới hay là chết’ và trước hết phải quay lưng lại để
Ôm Tàu Ðỏ. Có như vậy đảng mới mong sống còn.
Nên đại hội đảng lần thứ VI (1986-1991), qua bài diễn văn của Gorbachev tại Vladivostok
(Hải Sâm Uy) ngày 28-7-1986, công bố chính sách mới của Nga tại Châu Á Thái
Bình Dương, trong đó mục đích chính là ‘ lập lại quan hệ ngoại giao bình thường
với Trung Cộng’. Ðó là lý do CSVN cũng ‘ Ðổi Mới Tư Duy, Bỏ Nga
Quay Lại Thần Phục Tàu Ðỏ ‘.Kỳ này Nguyễn Van Linh làm tổng bí thư, Phạm
Hùng làm thủ tướng với các phụ tá Ðổ Mười, Võ Văn Kiệt, còn Lê Ðức Anh làm bộ
trưởng quốc phòng. Bộ ba Chinh, Dồng, Thọ đôn lên làm cố vấn tối cao. Năm 1988
Phạm Hùng chết, Kiệt và Mười lần lượt thay thế chức. Giai đoạn này VN tuy đang
đổi mới kinh tế nhưng vì viện trợ từ Nga và Ðông Âu bị cắt nên vẫn gặp nhiều
khó khăn. Mặt khác Trung Cộng ở phía bắc vẫn tiếp tục đánh phá biên giới để
gián tiếp cảnh cáo VC không được liên hệ bình thường hóa với Mỹ trước Tàu đỏ.
Năm 1989 liên tiếp từ Ba Lan, Tiệp Khắc tới Hung Gia Lợi đều từ bỏ thiên đàng
xã nghĩa. Ngày 9-11-1989 bưc tường ô nhục Bá Linh bị giựt xập, nước Ðức thống nhất,
đồng lúc vợ chồng bạo chúa Ceauscescu của Lổ Mã Ni bị dân chúng và
quân đội treo cổ. Tin tức xấu về thế giới cộng sản dồn dập từng giờ, khiến cho
bọn chóp bu lãnh đạo đảng hoảng hốt lo sợ tới số phận của mình, trước biển tội
ác đã gây ra cho đất nước và dân tộc Việt suốt bao chục năm qua. Ngày 10-4-1990
CSVN họp để công bố sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới là do ‘
âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ, qua thủ đoạn diễn biến hòa bình ‘.Do
đó để cứu đảng, cứu nước, cứu dân .. thì NHU CẦU CẤP BÁCH BẰNG MỌI GIÁ PHẢI
LIÊN KẾT VỚi TRUNG CỘNG ÐỂ BẢO VỆ XHCN. Trong khi đó cả nước ai cũng
biết Trung Cộng từ trước tới nay chỉ biết có lợi ích của chúng chứ không phải
vì XHCN. Tất cả đều nằm trong những tính toán chiến lược chỉ có lợi cho Tàu mà
thôi.
Nhưng nói gì thì nói, theo Linh, Mười, Anh, Dồng Sĩ Nguyên, Ðoàn Khuê, Nguyễn Ðức
Bình, Phạm Hùng.. thì ‘ Trung Cộng dù có bá quyền cướp đoạt đất đai lãnh hải
đảo biển của VN, thì cũng là một nước XHCN, nên VN nay phải cần tìm đủ mọi
cách để hàn gắn lại tình đồng chí thắm thiết giữa hai nước đã bị sứt mẽ vừa
qua. Có vậy đảng ta và đảng Tàu mới hy vọng sát cánh bên nhau gây dựng lại
phong trào chủ nghĩa cộng sản đệ tam trên thế giới ‘.
Ngày 29-8-1990 đánh dấu sự kiện đảng CSVN qui phục đảng CS Tàu, qua việc
Nguyễn Văn Linh, Ðổ Mười, kể cả Phạm Văn Ðồng được Giang Trạch Dân, Lý Bằng gọi
tới chầu thiên triều tại Thành Ðô (Tứ Xuyên) để giải quyết vấn đề Kampuchia
mà không nói gì tới vụ bình thường hóa ngoại giao cũng như vấn đề đang tranh
chấp giữa hai nước tại biên giới và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
VN tại Ðông Hải. Năm 1991 lại đại hội đảng lần thứ VII (1991-1996). Kỳ này
hầu hết phe cánh theo Tàu đều nắm giữ các chức vụ quan trọng trong bộ chính trị
gồm Mười (tổng bí thư), Lê Ðức Anh (chủ tịch nước) , Kiệt (thủ tướng) , Doàn
Khuê (bộ trưởng quốc phòng) và Phan Văn Khải, Nông Ðức Mạnh.. Thế lực cả nước hầu
như nằm trong tay Bộ đội và Công an thuộc phe bảo thủ. Nguyễn Cơ Thạch thuộc
phe thân Mỹ bị loại và mất chức bộ trưởng ngoại giao theo lệnh của Tàu đỏ. Ngày
5-11-1991 Ðổ Mười và Võ Văn Kiệt sang chầu Bắc Kinh để ký thông cáo chung về
bình thường hóa ngoại giao giữa hai nước nhưng không phải để ‘ môi hở răng lạnh
và đồng chí chứ không phải đồng minh ‘ như trước.
Võ Văn Kiệt tiếp tục chính sách đổi mới kinh tế nhưng đồng thời vẫn tuân
thủ theo đường lối chuyên chính của đảng CSVN qua Hiến Pháp 1992, điều 4 tái
xác nhận chính sách ‘ kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và đảng CSVN
luôn trung thành với chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng HCM ‘.Quân đội VN trong
giai đoạn này trở thành một thế lực mạnh trong bộ chính trị nhưng tất cả tiềm
năng chiến đấu chỉ được sử dụng để làm kinh tế, cho nên lảnh thổ của tổ tiên
đâucòn ai bảo vệ. Vì vậy dần mòn lọt vào tay giặc Tàu là vậy đó.
Trong lúc đảng mê sảng vì được gần gũi trở lại với đông phương hồng để học tập
và làm chỗ dựa lưng vững chắc thì giặc Tàu qua thế mạnh kinh tế và quân sự,
ngày càng công khai lấn chiếm lảnh thổ và tài nguyên của VN trên Ðông Hải, để
giành giựt khai thác dầu-khí, sử dụng thủy lộ quốc tế ngang qua lảnh hải của nước
ta dọc theo miền duyên hải từ nam lên bắc. Người Mỹ cũng đã trở lại VN để làm
giàu, từ nhiệm kỳ đầu của TT Bill Clinton (1991) . Ngày 3-2-1994 Hoa Kỳ bãi bỏ
lệnh cấm vận VN sau đó bình thường hóa ngoại giao tới thương mại song phương.
Lúc này quyền hành cả nước nằm trong tay tam đầu chế Mười, Anh và Kiệt. Mỗi người
lại có phe nhóm riêng để được theo Tàu hay Mỹ, nên giành giựt thanh toán nhau một
cách khốc liệt.
Ngoài HCM và Phạm Văn Đồng,còn có Lê Khả Phiêu cũng công khai bán nước cho
Trung Cộng, trong thòi gian y làm tổng bí thư từ tháng 2-1999. Chính Phiêu
đã nhượng bộ Tàu qua các hiệp ước ký kết về biên giới trên bộ tới biển đảo lảnh
hải vùng đánh cá.. Ngày 19-11-2000 trước khi mản nhiệm kỳ tổng thống, vợ chồng
Bill Clinton đến thăm VN qua lời mời của chủ tịch nước Trần Ðức Lương. Tại Hà Nội,
Clinton được Phiêu lên tiếng thuyết giảng một bài học dài lịch sử VN và khoe
chiến tranh với Mỹ đã gây được thành tích cho XHCN. Còn báo chí thì viết ‘ chúng
ta phải luôn nhớ rằng bản chất của Mỹ là chống lại chủ nghĩa cộng sản nên chúng
vẫn chưa hề từ bỏ diễn biến hòa bình ‘.
Thái độ ngoại giao khiếm nhã của Phiêu thực chất chỉ để lấy lòng nịnh bợ Tàu đỏ
, đồng thời trấn an phe nhóm thân Trung Cộng. Sau cùng Phiêu bị mất chức trong
kỳ đại hội đảng lần thứ IX (2001-2006) nhường quyền bán nước lại cho Nông Ðức Mạnh
(tổng bí thư) , Nguyễn Văn An, Trần Ðức Lương, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Phú Trọng,
Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng.. tiếp tục tới nay vẫn không thay đổi.
2 - QUẦN ÐẢO HOÀNG SA VÀ
TRƯỜNG SA CỦA VN TỪ LÂU ÐỜI :
Hoàng Sa và Trường Sa, theo chính sử cũng như những tài liệu của ngoại quốc
như Ðại Nam thực lục, Ðại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn,
Hoàng Việt địa dư chí thời vua Minh Mạng, Quảng Ngãi tỉnh trí của các Tuần Vũ
Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Ðình Chi, Quảng Ngãi nhất thống chí của Lê Ngại.đều đề
cập tới và xác nhận đó là lãnh thổ lâu đời của Ðại Việt. Với các tác phẩm ngoại
quốc gồm nhiều thiên ký sự của các giáo sĩ Thiên Chúa trên tàu Amphitrite viết
năm 1701, của Ðô Ðốc Pháp tên là D’Estaing viết năm 1768 rằng :’ Sự giao
thông giữa đất liền và các đảo Paracel (Hoàng Sa) rất nguy hiểm, khó khăn
nhưng Người Ðại Việt chỉ dùng các thuyền nhỏ, lại có thể đi lại dễ dàng.’
Nhưng quan trọng nhất, là tác phẩm viết về Hoàng Sa của Ðổ Bá tự Công Ðạo, viết
năm Chính Hòa thứ 7 (1686), trong đó có bản đồ Bãi Cát Vàng :’ Ðảo phỏng chừng
600 dặm chiều dài và 20 dặm bề ngang. Vị trí nằm giữa cửa Ðại Chiêm và Quyết
Mông. Hằng năm vào cuối mùa đông, các chúa Nguyễn Ðàng Trong, cho Hải Ðội Hoàng
Sa gồm 18 chiến thuyền đến nơi tuần trú.’ Năm 1776, trong tác phẩm ‘ Phủ
Biên tạp lục’, Lê Quý Ðôn đã viết một cách rõ ràng :’ Trước đây, các
Chúa Nguyễn đã đặt Ðội Hoàng Sa 70 suất, tuyển lính tại Xã An Vĩnh, cắt phiên mỗi
năm vào tháng 2 ra đi, mang theo lương thực 6 tháng. Dùng loại thuyền
câu nhỏ, gồm 5 chiếc, mất 3 ngày 3 đêm, từ đất liền tới đảo.’ Tóm lại
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ của VN ngay khi người Việt từ đàng ngoài tới
định cư tại Phủ Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi vào khoảng thế kỷ thứ XV sau tây lịch.
Hai quần đảo trên nằm ngoài khơi Ðông Hải : Hoàng Sa ở phía bắc và Trường Sa nằm
về cực nam gần Côn Ðảo.
+ ÐỘI HOÀNG SA :
Theo sử liệu cũng như nhân chứng thì buổi trước, Ðội Hoàng Sa tập trung tại
Vươn Ðồn, để luyện tập cũng như sửa chữa thuyền bè và nhận lệnh thượng cấp. Trước
khi xuất quân, Ðội đến Miếu Hoàng Sa tế lễ. Ðây là một ngôi nhà gồm 3 gian, làm
bằng gỗ tốt, lợp tranh dầy, mặt Miếu quay ra cửa Sa Kỳ, trước có 2 cây gạo cổ thụ.
Trong Miếu thờ Một Bộ Xương Cá Ông rất lớn. Theo người địa phương, hơn 300 năm
về trước, Ông lụy tại Hoàng Sa nhưng đã được Hải Ðội dìu về đất liền. Sau ba
năm chôn cất, những người lính thỉnh cốt vào thờ trong Miếu . Từ đó về sau, hằng
năm vào tháng 6, khi những người lính ,mãn phiên từ Hoàng Sa trở về, dân làng tổ
chức cúng lễ tại Miếu, gọi là ‘ Ðánh Trống Tựu Xôi’.
Từ thị xã Quảng Ngãi, qua cầu Trà Khúc, bỏ quốc lộ 1 rẻ vào quốc lộ 24B, ngang
qua Làng Sơn Mỹ dưới chân Núi Thiên Ấn chừng 5 km, thì rẽ vào một con đường đất
đỏ, chạy giữa sông Kinh và rừng dương sát biển. Ðó là xã Tịnh Kỳ, thuộc Huyện
Sơn Tịnh, nơi khai sinh Hải Ðội Hoàng Sa khoảng mấy trăm về trước, thời các
Chúa Nguyễn Nam Hà, thuộc Ðại Việt. Theo Quảng Ngãi địa dư chí, vùng đất này
trước năm 1898 thuộc trấn Bình Sơn. Năm Thành Thái thứ 10, tách ra thành 2 Huyện
Bình Sơn và Sơn Tịnh.. Sau tháng 8-1945, khu Tịnh Kỳ được hoàn thành bởi ba xã
An Kỳ-An Vịnh và Kỳ Xuyên. Xưa vùng này là một cù lao nằm cách đất liền, phải
dùng ghe vào các bến Mỹ Khê, Chợ Mới, Sa Kỳ hay xa hơn là Thị Xã Quảng Ngải và
các Thị Trấn Ba Gia, Ðồng Ké, Sông Vê, Ba Tơ. Từ năm 1993, qua việc xây dựng
nhà máy lọc dầu Dung Quất nên hải cảng Sa Kỳ đã được mở rộng, đồng thời với con
đường chạy từ cầu Khê Kỳ, qua Cửa Lở tới Kỳ Xuyên. Có lẽ do địa thế sông
nước bao quanh, nên từ mấy trăm năm về trước, Các Vị Chúa Nguyễn đã chọn An
Vĩnh làm căn cứ đặt Hải Ðội Hoàng Sa, với nhiệm vụ bảo vệ hải đảo, cũng
như khai thác các tài nguyên ngoài Ðông Hải. Ðình làng An Vĩnh trước đây rất đồ
xộ, là nơi Xuân thu nhị kỳ cúng tế những người lính Hoàng Sa, nay đả đổ nát chỉ
còn lại Chiếc Cổng Tam Quan. Ðiều này đủ để minh chứng với thế giới, việc Quần
Ðảo Hoàng Sa-Trường Sa là lãnh thổ lâu đời của Ðại Việt. Người Tàu chỉ ỷ vào sức
mạnh và tờ văn khế bán nước của Phạm Văn Ðồng năm 1958, để cướp chiếm nước ta,
như sau này chúng đã làm tại biên giới Việt Trung và Lãnh Hải trong Vịnh Bắc Việt.
Ở đây, hiện còn nhà thờ Cai Ðôi Phạm Quang Ánh, là người được Vua Gia Long cử
ra Hoàng Sa năm 1815, đo đạc, khảo sát lộ trình và tổ chức Hải Ðội. Ông được
nhà Nguyễn phong chức Thượng Ðẳng Thần khi mất. Tóm lại, từ thời các Chúa Nguyễn
(1558-1783), nhà Tây Sơn (1788-1802), Nhà Nguyễn (1802-1945), đã có Hải Ðội Hoàng
Sa. Ðặc biệt, năm 1836, Minh Mạng thứ 17, quần đảo Paracel hay bãi cát vàng, được
Công Bộ đặt tên là ‘ Bản Quốc Hải Cương Hoàng Sa Xứ, Tối thị
Hiểm Yếu’.
Từ năm 1954, Hoàng Sa là một đơn vị hành chánh thuộc tỉnh Quảng Nam-VNCH, được Tiểu
Ðoàn 1/TQLC bảo vệ. Từ năm 1959 tới 1974, Ðảo do các Ðơn Vị DPQ/Quảng Nam trú
đóng. Quần Ðảo Trường Sa ở phía Nam, cũng là một đơn vị hành chánh của tỉnh Phước
Tuy và do DPQ của tỉnh này bảo vệ, cho tới ngày 30-4-1975.
3- TRUNG CỘNG CƯỚP CHIẾM
HOÀNG SA CỦA VN :
Thật sự người Tàu chỉ chú ý tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN từ đầu
thế kỷ XX vì dầu hỏa, khí đốt và vị trí chiến lược của hai đảo trên. Sự tranh
dành cướp chiếm bắt đầu từ thời VN bị thực dân Pháp đô hộ, vì mất chủ quyền nên
không còn binh lực để bảo vệ lãnh thổ riêng của mình.
- 1907 Tổng đốc Quảng Châu đòi chủ quyền trên đảo Hoàng Sa.
- 1909 Hải quân Nhà Thanh tới Hoàng Sa hai lần, cắm cờ trên đảo và bắn 21 phát
đạn đại bác để thị oai.
-Ngày 30-4-1921, chính quyền Quảng Ðông ký văn thư số 831 tự động sáp nhập quần
đảo Hoàng Sa của VN vào đảo Hải Nam nhưng đã bị Triều đình Huế phản đối dữ dội
vào năm 1923.
- Năm 1933 , Pháp vì bị báo chí trong nước phản đối dữ dội, nên đã đem hải quân
ra đánh đuổi quân Tàu chiếm lại quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh, cầu tàu, đài khí
tượng trên hai đảo chính Hoàng Sa, Trường Sa.
- Tháng 12/1946 Ðài Loan lợi dụng việc giải giới Nhật, đã chiếm đảo Phú Lâm
trong nhóm Tuyên Ðức thuộc quần đao Hoàng Sa. Ðảo này lại lọt vào Trung Cộng
khi Mao Trạch Ðông chiếm lục địa Trung Hoa.
- Ngày 4/12/1950 Chu Ân Lai lớn tiếng đòi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
VN.
- Năm 1956 Trung Cộng lén lút chiếm thêm đảo Linh Côn trong quần đảo Hoàng Sa,
đang thuộc chủ quyền VNCH.
- Ngày 21/12/1959 Hải quân VNCH với sự trợ chiến của Tiểu đoàn 1 Thủy Chiến Lục
Chiến đã đánh Tàu Cộng , chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Duy Mộng, Quang Hòa trong
nhóm Nguyệt Thiềm, bắt giữ 84 tù binh và 5 thuyền binh nguy trang tàu đánh cá. Ngày
27/2/1959 Trung Cộng sau khi thua trận, đã ra thông cáo mạt sát Chính phủ VNCH
xâm phạm chủ quyền của Tàu, vì chính Hô Chí Minh cũng như Pham văn Ðồng đã
chính thức xác nhận bằng văn kiện, là hai quần đảo trên qua tên Tây Sa,
Nam Sa là lãnh thổ của Trung Hoa. Tuy nhiên để giữ hòa khí giữa hai nước, Tổng
Thống Ngô Ðình Diệm đã thả hết số tù binh trên về nước.
Từ ngày 4-9-1958, Trung Cộng vẽ bản đồ mới và tuyên bố lãnh hải của mình là
12 hải lý. Bản tuyên cáo này chỉ có Bắc Hàn công nhận đầu tiên. Tại Bắc Việt, Hồ
Chí Minh họp đảng để nhất trí và ban lệnh cho Phạm Văn Ðồng , ký nghị định công
nhận ngày 14-9-1958. Ngày 9-1-1974, Kissinger tới Bắc Kinh mật đàm với
Mao Trạch Ðông, được cho coi văn kiện mà Phạm Văn Ðồng đã ký xác nhận , hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH, chính là hai đảo Tây Sa-Nam Sa của Tàu.
Theo văn kiện và tuyên cáo lãnh hải 12 hải lý, thì chính VNCH đã chiếm đất của
Trung Cộng, từ năm 1958, do VC làm chứng và xác nhận. Ðược cơ hội vàng ròng,
tên cáo già Kissinger tương kế tựu kế, nhân danh Nixon, bật đèn xanh, cho Mao
đánh VNCH, đề thu hồi lãnh thổ.
Tính đến năm 1974, khi xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa, Hải quân VNCH rất hùng hậu
với quân số trên 40.000 người (sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ) , phân thành 5 vùng
duyên hải và 2 vùng sông ngòi. Hải quân có một hạm đội gồm 83 chiến ham đủ loại.
Ðể bảo vệ các sông ngòi, kênh rạch ở Nam phần, Hải quân đã thành lập 4 Lực lượng
dặc nhiệm hành quân lưu động, gồm LL tuần thám 212, LL thủy bộ 211, LL trung
ương 214 và LL đặc nhiệm 99. Ngoài ra còn Lực lượng Duyên phòng 213, Liên đoàn
Tuần giang, 28 Duyên đoàn, 20 Giang đoàn xung phong, 3 Trung tâm Huấn Luyện Hải
quân và nhiều căn cứ yểm trợ khắp nơi. Khi xảy ra cuộc hải chiến, Ðề đốc Trần
Văn Chơn là tư lệnh Hải quân. Tóm lại Hải quân VNCH rất hùng mạnh trong vùng
Ðông Nam Á.
Sau khi đạt được thắng lợi ngoại giao với Hoa Kỳ qua cặp Nixon-Kissinger,
đồng thời với sự đồng lỏa của Việt Cộng, nên giặc Tàu quyết tâm chiếm cho bằng
được hai quần đảo ngoài khơi Ðông Hải của VNCH. Dã tâm càng lớn từ năm 1973,
sau khi được tin các hảng dầu thăm dò cho biết vùng này có trử lượng rất lớn về
dầu khí. Lúc đó VNCH cũng đã bắt đầu ký nhiều hợp đồng, cho phép các hảng
dầu tới hai vùng đảo trên khai thác.Thế là ngày 11-1-1974, Trung Cộng lại
tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa. Ngày 19-1-1974, bất
thần Trung Công tấn công Hoàng Sa, gây nên trận hải chiến tuy ngắn ngủi nhưng đẫm
máu. Trung Cộng dù chiếm được đảo nhưng thiệt hại gấp 3 lần VNCH.
Cuộc hải chiến chấm dứt, các chiến hạm của VNCH đều rút lui, vì Hoàng Sa đã thất
thủ. Bấy giờ giặc Tàu mới bắt đâu thu dọn chiến trường và xua quân chiếm đóng tất
cả các đảo. Về phía VNCH còn kẹt lại trên đảo, gồm Trung đội DQP.Quảng Nam, các
quân nhân Hải quân, 7 Sĩ quan trong toán khảo sát địa chất, 4 nhân viên sở
khí tượng và 1 người Mỹ làm việc ở Tòa lãnh sự Hoa Kỳ thuộc Quân đoàn 1. Tổng cộng
là 42 người, đều bị giặc bắt làm tù binh, giải về thành phố Quảng Châu và giam
trong một trại tù, cạnh dòng sông Sa Giang. Ðây cũng chính là nơi mà hơn mấy chục
năm về trước, anh hùng Phạm Hồng Thái đã gieo mình tự vẫn, để không bị sa vào
tay giặc Pháp sau khi ném bom ám sát hụt Merlin, toàn quyền Ðông Dương đang có
mặt tại Hồng Kông. Lúc đó đúng 8 giờ sáng ngày mồng một tết nguyên đán, thời
gian hạnh phúc nhất của các dân tộc Á Ðông vui xuân theo âm lịch, trong đó có
VNCH. Riêng 42 tù binh VN liên tục bị bọn an ninh Trung Cộng , tra vấn, bắt buộc
phải nhận tội là đã chiếm đóng bất hợp pháp lãnh thổ của Tàu. Nhưng rồi không
biết vì sao, Ðặng Tiểu Bình ra lệnh phóng thích tất cả, đưa tới Hồng Kông để mọi
người hồi hương.
Lịch sử lại tái diển, ngày 14-3-1988, Trung Cộng lại nổ súng vào Hải quân VN
tại quần đảo Trường Sa. Trong cuộc hải chiến ngắn ngủi này, vì bộ đội CSVN được
lệnh không chống trả, nên chỉ phản ứng có lệ, vì vậy phía Trung Cộng không có ai
bị tử thương cũng như tàu chìm. Ngược lại, phía VN có nhiều tàu chiến bị chìm,
gồm : Chiến Hạm Thượng Hải của Tàu viện trợ , 1 Tuần Dương Hạm củ của VNCH để lại,
1 Hải Vận Hạm của Nga Sô viện trợ và trên 300 lính Hải quân bị thương vong một
cách oan uổng.
Mạnh được yếu thua là phương châm xử thế lâu đời của Trung Hoa. Bởi thế qua suốt
mấy ngàn năm lập quốc, vì thái độ trên đã làm cho nước Tàu loạn lạc triền miên
hầu như thời nào cũng có. Tóm lại người Hán dù là ai chăng nửa, chắc sẽ chẳng
bao giờ quên đuợc nổi hận nhục trong thời gian nước Tàu bị liệt cường xâu xé từng
mảnh. Người Anh đã chiếm Hồng Kông làm thuộc địa, còn Thượng Hải là tô giới. Tại
đâythực dân đã lập bảng niêm yết nghiêm cấm, không cho người Hoa và Chó
vào vườn hoa hay những nơi công cộng, dành cho người ngoại quốc. Trước cảnh
đau hận của dân tộc Hán, một học giả Nhật đã cảm khái viết :
‘ Á lục tiên hiền, ưng nhất
tiếu
Anh nhân diệt hoản, sở cầm
tù
Tùng kim hoán cải, công
viên bảng
bất cám Anh nhân, cập cẩu
lai ‘.
Liên Bang Sô Viết nay đã tan rã, chỉ còn lại đế quốc Trung Hoa là một tập hợp của
nhiều vùng đất của các dân tộc Mãn, Mông, Tạng, Hồi và Bách Việt , bị người Hán
xâm lăng và cưởng chiếm . Một đất nước mênh mông với hàng ngàn dân tộc dị chủng,
luôn mang thù hận và nghi kỵ, Trung Hoa không sớm thì muộn cũng sẽ bị tan rã
như các đế quốc La Mã, Ai Cập, Thổ Nhỉ Kỳ, Mông Cổ, Hung Nô và gần nhất là Ấn Ðộ,
Nam Tư và Liên bang Sô Viết.
Dân tộc Việt trong dòng sông lịch sử, cũng đã chấp nhận luật chơi ‘ mạnh được
yếu thua’, cho nên nay vì bất hạnh bị CS hèn mạt cầm quyền, đã phải
liên tục mất mát đất đai biển đảo vào tay giặc Tàu. Nhưng lịch sử luôn là sự
trùng hợp, chắc chắc con cháu người Việt trong tương lai gần, sẽ quật khởi chiếm
lại tất cả lãnh thổ. kể cả hai quân đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bị VC dâng bán
cho giặc khi cầm quyền. Thời nhà Trần, quân Ðại Việt dưới tài lãnh đạo của các
vua Trần và Hưng Ðạo Ðại Vương, một lòng tử chiến nên cuối cùng đã chiến thắng
quân Mông-Nguyên ba lần, khi chúng xâm lăng Ðại Việt. Nhờ vậy :ngày nay ta mới
có :
‘ Nam quốc sơn hà , Nam đế
cư
tiệt nhiên định phận tại
thiên thư
như hà nghịch lỗ lai xâm
phạm
nhữ đẳng hành khan thử bại
hư ‘
Thương biết bao những anh hùng vị quốc, trong đó có những chiến sĩ Hải quân năm
nào, đã anh dũng chống giặc Tàu xâm lăng, như tổ tiên ta đã bao đời banh thây đổ
máu để có ‘ Nam quốc sơn hà, nam đế cư ‘. Nay Biển Đông đang dậy sóng,
Hoàng Sa Trường Sa đã mất vào tay giặc Tàu đỏ. Trong lúc Việt Cộng chỉ đánh giặc
miệng và bi hài nhất qua vụ “ VN thi hành luật biển theo công ước
1992 từ ngày 1/1/2013” hay luôn miệng kêu gọi ngoại bang như Nga, Ấn Độ, Nhật..tới
bảo vệ lãnh hải và các đảo của mình sau khi tuyên bố “ Mỹ là kẻ thù đang diễn
biến hòa bình, còn Trung Cộng mới chính là đại ân nhân phải đời đời nhớ ơn (lời
Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Chí Vịnh, Nguyễn Đăng Thanh..) “ .
Hỡi ôi trong khi Biển Đông và Hải Đảo của VN lần hồi mất hết vào tay giặc Tàu. Trong
khi Hải tặc Trung Cộng chẳng khác gì bọn cướp biển Somalie ở Vịnh Eden (Sừng
Châu Phi) công khai cướp giết và khủng bố ngư dân VN từ Mống Cấy vào tới Hà
Tiên, thì CSVN chỉ biết bắt bớ, bỏ tù và đe dọa người dân trong nưóc, cấm Đồng
Bào chống “ Giặc Tàu xâm Lặng “, lại còn ra lệnh không được biểu
tình hay phát biểu, viết lách bất cứ một điều gì có liên quan tới phương Bắc, kể
cả những sử liệu, di tích và chiến công của những bộ đội Bắc Việt trong cuộc
chiến Chống Tàu tại biên giới Hoa Việt từ 1979-1985 và ngoài hải đảo Trường Sa
1988.
Hơn 800 về trước khi nhiều nước trên thế giới còn ăn lông ở lỗ thì Dân Tộc Việt
đã biết “ Hợp Quần Gây Sức Mạnh “ qua Hội Nghị Diên Hồng thời Trần chống
giặc Nguyên-Mông. Ngày nay Người Việt trong và ngoài nước tuy có bị CSVN kềm kẹp
bịt miệng, khủng bố nhưng mọi người cũng đã biết sử dụng những phương tiện truyền
thông và văn nghệ để nối kết “ Triệu Con Tim, Một Tấm Lòng “ thề giựt xập
chế độ phi nhân đảng trị, thối nát tham nhũng, bán nước cầu vinh của đảng Hồ.
Sông có thể cạn, núi cũng sẽ mòn vì thời gian còn chân lý thì bất di bất dịch “
VN ngày nào còn đảng búa-liềm, ngày đó dân tộc vẫn sồng dưới ách nô lệ của
giặc Tàu “.
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
-Bài viết của GS. Trần Ðại Sỷ,
Trần Gia Phụng, Chính Ðạo.
-Nam Quốc Sơn Hà
-Lê Công Phụng giải thích về
sự bán nước cho Tàu
-Pham Phong Dinh ‘Chiến Sử
VNCH’
-Hải Chiến Hoàng Sa của
NS.Ðoàn Kết.
-Sau bức màn đỏ của Hoàng
Dung
-Huynh Đệ Tương Tàn – Phạm
Quốc Bảo dịch
-Diễn Đàn Dân Làm Báo, Biển
Đông, Nguyệt San KBC Hải Ngoại..
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng Giêng 2013
MƯỜNG GIANG
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment