Sent: Monday, February 18, 2013 5:33 AM
Subject: Fw: Dương Thu Hương : Các anh còn ngủ đến bao giờ?
Subject: Fw: Dương Thu Hương : Các anh còn ngủ đến bao giờ?
Mời đọc bài viết của nhà văn Miền Bắc Dương thu Hương, người bộ đội vào Saigon ngày
30 tháng 4, 1975. Bà
nhìn thành phố và
cuộc sống của người dân
Miền Nam bà
đã bật khóc.
Mặt nạ đã
rơi xuóng, sự lừa bịp trắng trợn của giới lãnh
đạo Miền Bắc đã đem đến cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn
và họ đang
đưa đất nước VN vào vòng nô lệ
phương Bắc.
Dương Thu Hương hỏi các anh "bộ đội cụ
Hồ".
Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác.
Với dân chúng trong nước, giờ
đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu,
họ thôi là thượng đế và dân chúng thôi là những con nộm bị điều khiển bằng
thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền sáng tác.
Dân
chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những con
vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng không còn
được bóng tối che đậy.
Nhà
cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng. Nhưng bất kì kẻ cầm súng
nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng. Bởi vì, chẳng có thứ
vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào cũng cần bàn tay của con người, dù là
bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn tay cầm dao găm, súng lục. Khi
con người đã nhìn rõ sự thật, khi họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò
mị dân, khi họ hiểu họ là ai và họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách
nào, lúc ấy, các nòng súng sẽ đổi hướng.
Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày
hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của trên năm mươi gia
đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra
một nửa giây để tưởng niệm những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ đã từng quên
những người dân đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên
các chiến sĩ đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979. . .
Họ
quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì?
Khi
con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200. 000 euros tại đại lộ
Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân khoản ở ngân hàng
ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng như xe của cô Hồ
Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được chiếc xe ấy, để nàng
khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai triệu đô
la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt hắn. Đó
là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng
quay cũ kĩ của đám mới giầu.
Ai đó từng nói câu này:
“Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của
họ để có tiền”.
Giai
cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó: khát tiền, làm
mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội ác. Nhưng tư sản
đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn
nhiều: dân đen. Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có thể hút máu dân
đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên ổn lương tâm
vì không mắc tội giết cha.
Lấy ví dụ về tập đoàn
Vinashin. Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy
nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô la trong công
quỹ. Hàng triệu đô la ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng
loáng kia được đặt trên đất liền để làm “hiện vật bảo tàng”.
Nghe
tưởng như chuyện đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ
có ở Việt Nam , nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều
ngang ngược đó. Chỉ có ở xứ Việt Nam , khi tất cả các cuộc kí kết,
thương thuyết của chính phủ đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không
được quyền biết đến mới có thể xảy ra hiện tượng này.
Lấy
ví dụ thứ hai: các vụ buôn người. Dưới chế
độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều này nếu không là chính các
thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại buôn người? Vì buôn người thu lời
nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như zero nếu có quyền hành. Cho nên, buôn
người là nghề mới của đảng cộng sản Việt Nam , đảng thừa thãi quyền hành
vì không có đối trọng.
Đã
là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các điều luật
thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên gọi là “dân
đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các
bậc trị vì dân. Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải
tìm mọi cách để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ
công cụ này có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các
công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để
bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ
danh lâu nay.
Hãy đọc báo Công an nhân dân
đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm
nay:
“Được
Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam đưa Hùng,
Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến ngày 9/2/10,
Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy
Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng
Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu
tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao
động, tiền lương của công nhân ở một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên
truyền, kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà
xưởng, tài sản của doanh nghiệp. . .”
Thứ
nhất, tác giả bài báo này quên
rằng “Kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng,
tài sản của doanh nghiệp” là đích xác các hành động của người cộng sản Việt
Nam những năm trước cách mạng. Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều
quốc gia trên thế giới, khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc
lột của đám chủ nhân. Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận
giữa người làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao
động bị đe doạ.
Phải chăng tác giả bài báo
này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của ông ta là được quyền sử dụng
chiêu thức ấy còn những người khác thì bị cấm vì họ không được là người mà
chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới người”, nói cách khác: “người vượn
Néandertal”?
Thứ
hai, câu “lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong
chế độ lao động, tiền lương của công nhân. . . ” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật.
Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam
đang thực thi chính sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”.
Tại sao lại “bòn nơi khố
quạnh”? Vì ngu, vì tham, vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược
nên các quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những
người không có phương tiện để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng
một lần vì đói nghèo và sợhãi.
Tại
sao lại “đãi nơi quần hồng”? Vì người cộng sản lúc này thôi còn là
cộng sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố
bịch của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc
cái ống bơ đựng xu lẻ ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp
tương lai của họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải
đãi đám quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng
ấy.
Sự thật đơn giản, nếu người
ta nhìn thẳng vào nó.
Đám cầm quyền hôm nay đã rơi
từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản” xuống vũng bùn của“các con lợn truỵ
lạc phương Tây” mà trước đây họ thường sa sả chửi rủa, họ đang sống xả láng
trong cảnh phồn vinh mà trước đây họ mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang
là thứ “khỉ khoác quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ
mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng cảnh báo trước đây.
Trong
cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh đuổi ngoại
xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục, ngưỡng mộ, và có
toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình.
Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng
chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều Lý, triều Trần, triều Lê, triều Tây
Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy lừng chống kẻ xâm
lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi nghĩa dẹp loạn sứ
quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy nhất xây
dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại, những
gương mặt sáng chói trong lịch sử đất Việt đều là những anhhùng chống Tầu và
chống Nguyên – Mông. Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua
Nam ở”.
Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người
Việt Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết
sam như gã A. Q, đàn bà không bó chân như các mợ Tầu.
Tuân
theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công trong cuộc
cách mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó là vì tính đến
cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả năng nối tiếp truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất
nước Nam, coi sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ.
Cái tinh thần bất khuất ấy,
còn hay chăng?
Còn hay chăng, tinh thần dân
tộc của những người đã đổ máu để cắm ngọn cờ hồng lên thành Hà
Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân đã ôm bom ba càng vào mùa đông
năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”?
Nếu những anh hùng vô danh ấy
có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở.
Nếu những hiển linh của các
vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ nói sẽ là “Lũ người này đã phản
bội lại dân tộc, bọn sâu bọ
này đã bôi nhọ mặt chúng ta!”
Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc. Tại sao lại là con số này?
Tại sao có sự
lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng?
Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn
hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười một người trong bộchính trị. Không
lẽ cả mười một người này mắc chứng mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người
này mắc bệnh thiểu năng?
Nếu để cho mười một kẻ thiểu
năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt xứng đáng là các bệnh nhân của
trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ chưa từng thấy mà trong đó các con
bệnh bị tiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ
đẫn, không còn khả năng nhận thức sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán
đứng cho Tầu, và tương lai của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản
sao lại sầu thảm của những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó
tay trước lũ bán nước.
Chọn
ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng
hai mặt.
1.
Với triều đình Bắc Kinh
chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố: Thành Thăng Long cũng chỉ là một bộ
phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một lần với
đèn hoa của thủ phủ đại triều. Một khi thủ đô của một quốc gia đã định vị
nhưvậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác nhận danh tính chư hầu một cách công
khai. Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ lòng trung thành vô hạn và vô điều
kiện của đám hàng thần Hà Nội.
2. Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng
tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất nước. Kẻ
nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu diệt.
Chọn ngày quốc khánh Trung
Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng chứng hiển nhiên để mảnh vải rách
cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi xuống. Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá
hành vi bán nước của mình.
Nếu
như năm 1945, cha anh họ
là các anh hùng giải phóng
dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên,
chẳng những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên
lịch sử. Người Việt Nam ta có câu “hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này,
không những là những con “cẩu tử” mà còn là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”.
Những
người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họ là những con cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt
nào cũng lưu cữu một thành tố có tên gọi “chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm
thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu
đậm nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”.
Cuộc thực dân hoá của Pháp
100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời kì bắc thuộc của giặc Tầu. Họ
biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất
chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày hôm trước còn được tung hô hoàng đế, hôm
sau đã biến thành “Thằng chó săn, thằng phản tặc, phường bán nước”.
Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán
nước của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là
bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi dân
tộc. Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên kia đường
biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn Ánh.
Để đặt tên cho họ một cách rõ
ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu “cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ
xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây là bọn “dẫn hổ về thịt dê nha“
DẪN HỔ VỀ THỊT DÊ NHÀ.
Tại sao lại là hổ và dê?
Hổ, vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn
thực dân Pháp năm xưa nhiều lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng
hình ảnh con hổ chứ không thể là con rắn.
Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽthấy rằng toàn bộ bán đảo Đông
Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phần sống lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt
lên chính giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm
răng của nó. '
Đế quốc Trung Hoa sẽ trải rộng khắp châu Á. Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh
thành khác nhau của Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà
cầm quyền Hà Nội, kẻ dựng lên công trình bauxite Tây nguyên?
Bauxite ư? Trò lừa đảo!
Thiếu
gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam , tại sao không là Lào
Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác bauxite
để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân tích chán chê
lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thế giới cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là
Vùng bùn đỏ Hungaria.
Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước
hiển nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?
Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn
toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi con tính của họ là trở thành một thứ “Thái thú Tô Định
hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều.
Còn
Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng Việt,
Quảng Nam, Quảng Lạc. . . họ không cần quan tâm. Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược
lại lợi ích của nhân dân, biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ
cho Tầu, rằng kinh nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn
vô thức dân tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương
dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không
phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội
vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện
IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán.
Ông nghị Trần nói rằng “Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên
không thể có phản biện. Phản biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện
hả? Nhà tù đang còn nhiều chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù,
chúng tôi có các phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe cộ bây giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn một biện
pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu độc. Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà
thì cứng đơ ra mà chết. Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi
cũng không thua kém họ. . . ”
Những lời lẽ này nói lên điều
gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để của tính tội phạm và tư cách chó? Một
chính thể không còn lý do chính đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng
bạo lực, chỉ có thể sử dụng bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội,
tóm lại, bọn chó giữ nhà.
Không
còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, truỵ lạc, con
người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.
Bác chúng em
Vào những năm 1989, 1990, tôi
có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản,
người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ những
năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là “Người công an nhân dân, từ nhân
dân mà ra, do dân và vì dân”. '
Tôi hiểu vì sao cuộc kháng
chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản.
Nhưng
ông Lê Giản đã chết và“Người công an nhân dân”cũng đã chết theo. Cái chết này
xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng không phải là vô hình
vô ảnh.
Tôi chứng minh:
Cách đây ngót ba thập kỉ, khi
những lượt hoa quả đầu tiên từ phương bắc tràn vào nước ta,
các phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụ đã báo cáo lên bộ chính trị
rằng các thứ hoa quả này đều tẩm formaldéhyde (thuốc ướp xác chết) vô cùng
độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ mô liên kết của các tế bào và là
tác nhân gây ra bệnh ung thư.
Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ
biến sự thực trên vì “sợ mất lòng nước bạn”.
Các
sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người
thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợ chẳng hạn), đối với người
ngoài, họ tuyệt đối tuân thủ mệnh
lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt đối thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn
thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và
sẽ chết vì bệnh đó.
Tính kỉ luật của đám sĩ quan
này mới cao thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻ ngồi quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều
đình, chịu trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật
vào tai dân chúng, bỏ mặc mấy chục triệu người
bị đầu độc và chết dần chết mòn!
Đối
với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy.
Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sự chuyển biến chất lượng này:
từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với nhân
dân.
Ba thập kỉ đã qua, những kẻ
quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trở thành kẻ thù của nhân dân.
Bây giờ, gương mặt nào là
gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà
cắn cổ dân để bảo vệ ông chủ của nó?
Hãy
xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị cướp đất
biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là người già
và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long An, Bình Thuận đổ
đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu “Trả đất cho dân”, “Chống
cửa quyền, tham nhũng”.
Những người dân ấy đã bị đám công an và dân phòng béo
múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối xử ra sao? Mấy thế kỉ đã qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn
nha lại mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều:“Đầy nhà một lũ ruồi xanh”
và“Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi”.
Gần đây nhất, hãy nhìn hình
ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham
gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ
để kẹp suýt chết.
Tôi
tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm? Tại sao họ không
dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết những tên giặc Tầu,
lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh Hoá?
Nếu là những người mà nghề
nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến mạnh mẽ, tại sao họkhông dùng
khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại đi đàn áp những sinh viên yêu nước
biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí
khôn hay vì họ là những kẻ mù loà, óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà
ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì
khác ?
Vì
chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trả lời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứ hai, nhận xét khi tôi nhìn
tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25
tháng 7 năm nay.
Nhiều
người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã
đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại huyện Việt Yên vì tội
danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia đình anh Khương đã chở xác
chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền mạng.
Dân chúng xông lênủng hộ
gia đình nạn nhân, con số
lên đến hàng ngàn người, làm
thành một cuộc biểu tình rầm rộ chưa từng có trong lịch sử
tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già đã nói rằng còn đông hơn
ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất dậu.
Trong sự kiện này, tôi chú ý
đến một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng,
nhưng trước khí thế căm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng
chục người dân trèo lên xe đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào
công an cũng tê liệt vì mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó
berger. Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy
để thoát thân.
Có
lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi. Không phải công an nào cũng phú quý
vinh hoa như ông nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần những
người lính quèn chỉ đủ sức nuôi một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba
đứa con kèm theo cuộc sống của họ cũng không phải là “thiên
đường nơi hạ giới”.
Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo đảm cuộc sống ấy thì đó là
một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp lính bây giờ tương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông
tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân
chủ xảy ra ở Nga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới
rồi.
Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố
tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất của con tim, họ cũng hiểu rằng
chết vì một lý tưởng cao cả
thì đó là cái chết xứng đáng
không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì miếng cơm thì đó là cái chết của
con chó gác sân mà khi dân chúng nổi lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc
dùng câu liêm cắt cổ.
Khi
lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính
toán vị kỉ của mỗi con người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của
nó, nó là rào cản để chủ nghĩa cuồng tín không thể đặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà.
Một
người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính toán họ
được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có trang trải nổi
phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với lũ con còn lại, hay
sự hy sinh của họ chỉ để làm nặng thêm túi tiền các quan lớn,
khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (như ông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộ và các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi
lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổ dưỡng làn da mịn màng cho các
mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn
Hưởng)? Vân vân và vân vân. . .
Sự tính toán luôn có lợi cho
con người. Bởi thánh nhân thường hiếm mà kẻ trục lợi thường nhiều nên không
thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là
thánh nhân thì họ cũng là dân Việt.
Là
dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu sôi sục liên
tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay muộn, trước
hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân.
Dân Việt :
Ai là dân Việt?
Phải chăng đó là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc
Việt (Bách Việt) xưa kia sống ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản
sắc mà chưa bị đồng hoá như chín mươi chín tộc Việt kia?
Phải chăng vì sự cứng đầu này
mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều?
Ngoài
các lý do về nhu cầu bờ biển với các hải cảng, nhu cầu khoáng sản, còn một
nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra, đó là nhu cầu đồng
hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt.
Niềm kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng
là ở đó. Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ
Hán lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải
chịu thua?Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt
Nam, mảnh đất cỏn con, dường như là một “vết thương lòng, một sự tự ái” mà
vua chúa Trung Hoa không chịu được.
Cách đây vài năm, ai đó từng
nói với tôi rằng “Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính
sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”.
Đó là một nhận định sáng
suốt.
Năm
trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận
xem bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng hộ xâm chiếm Việt Nam .
Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến trên 90%. Cứ cho rằng Trung
Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn sợ hãi, họ phải tuân theo thượng
cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn lại vẫn là trên 70 phần trăm. Và
điều này là sự thật không ai có thể chối bỏ.
Năm
nay đã là năm 2010, thế kỉ
21, Trung Quốc không còn sống
dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi xác người thân cho nhau để chén
thịt. Kinh tế phát triển, các phương tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn
hoá được nâng cấp, sách báo lan tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân
Trung Quốc hoàn toàn bị dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ
hãi nhà cầm quyền, ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường
quốc số 2 trên thế giới. Vậy thì, cái “hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được” kia
không chỉ làm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổ họng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.
Vì lý do nào mà bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi
ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ định?
Vì
lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng loạt bài chửi
bởi, nhục mạ “lũ chó Việt Nam , phải đánh bọn chúng. Lũ chó Việt Nam, lần
này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”, và công bố một cách chi tiết chương
trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt ngày, phần còn lại của bán đảo
được quy định là một tuần, tóm lại là chương trình con hổ Trung Quốc nuốt
trọn con dê Đông Dương?
Liệu nhà cầm quyền phương Bắc
có thể ngang ngược làm những điều ấy chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là
một chính quyền độc lập mà không tự nguyện biến mình thành đám
gia nô cho vương triều Đại Hán?
Tôi dành những câu hỏi ấy cho
bạn đọc trả lời.
Tôi
chỉ xin nhắc họ rằng, chúng
ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt
mỏi để chống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã
nhìn thấy sự đánh mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.
Để tồn tại và được là chính
mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi xuống phương Nam . Lịch sử của dân
tộc Việt tóm gọn trong câu này: “ Nam tiến”!
Nam tiến, nam tiến và nam
tiến!
Cuộc
Nam tiến thứ nhất khởi sự dưới triều Lê, từ năm 1428
đến năm 1527. Kể từ đây, cuộc khai khẩn
và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ Thăng Long các đoàn quân xưa vượt
qua đèo Ngang, sau lưng họ là những đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá
rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng và lập làng xây ấp. Rồi tiến đến châu Ô,
châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai. Cứ
thế mà hành trình này tiếp tục cho đến mũi Cà Mau.
Nam tiến, đó là sự nghiệp
dựng nước của tổ tiên ta.
Bây giờ, chúng ta không còn
cơ hội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta
không thể Nam tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi đâu?
Người
Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai, đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn
đời tích tụ lại, đất đai ấy là nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ
mà họ có thể nương tựa vào để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ
mai sau.
Để giữ được non sông, để có
thể là người Việt mà không trở thành đám thiểu
số khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung
dưỡng một chính quyền bán nước, một chính quyền đã ngang nhiên
cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã biến ngọn cờThăng Long
ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng Bắc Kinh.
Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu
tiếp tục nuôi giữa lòng dân tộc mình một con rắn độc, cũng như Vua An Dương
Vương xưa đánh mất non sông vì trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản
tặc có tên là Mỵ Châu. Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ
Hà Nội giờ đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu.
Tuy
nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ luỵ tình
nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan dung. Tại đền
thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu tượng Mỵ Châu nằm gục
mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một cái lên lưng và nhổ một
bãi nước bọt để trừng phạt “con Mỵ Châu bán nước”. Còn tượng đá trong đền,
tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được hương khói do lòng
đồng cảm với “Mỵ Châu khờ dại và lụy tình”.
Dân Việt vốn không cuồng tín,
họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình.
Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ,
khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn chính quyền Mỵ Châu bây giờ không
một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ tình ai, nó chỉ luỵ cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán
của nó chỉ nhằm tu tạo, xây đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có
một đam mê duy nhất là liếm cho mượt bộ lông của chính nó mà thôi.
Mỵ Châu ngày nay là một con
đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc.
Người dân Việt phải chém cụt
đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại số phận bi thảm của An Dương Vương.
Dân tộc Việt không thể làm
được điều ấy, nếu quân đội không đứng lên cùng với họ.
Quân đội, những người lính
của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ?
DƯƠNG THU HƯƠNG
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment