Nếu
Biết Đi...Việt Nam
(01/30/2013)
Tác
giả : Vi
Anh
Mỗi
lần Giáng Sinh qua, là Tết gần đến, là mỗi lần một số người Việt nhứt là đồng
bào lớn tuổi nghĩ đến chuyện đi ...Việt Nam. Chấm chấm..., lưỡng lự mới nói ra
vì đi VN cũng có đôi đường. Nhớ cảnh nhớ người, có công có việc mà đi VN là
chuyện bình thường vì triều đại, chế độ là hình thức cai trị giai đoạn, còn
quốc gia dân tộc mới là thực thể, bản chất trường tồn vạn đại. Đất nước VN là
của chung, chớ không phải của riêng của CS Hà Nội.Nên có đường đi VN có lợi cho
chuyện chung và riêng; có đường làm hại cho nhân vị của chính người đi và chánh
nghĩa đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền cho quốc gia dân tộc VN.
Trước nhứt nếu người đi biết mình, biết quẳng cái mặc cảm tự ti đi, thì rất có lợi chung và riêng. Mặc cảm tự ti đó là mặc cảm thấy mình là người thua cuộc, người bị CS bỏ tù, người bỏ nước ra đi. Đó là mặc cảm vì mình tự quì xuống nên thấy CS lớn đáng sợ quá. Mặc cảm đó là mẹ đẻ của nỗi sợ không đối với VC. Tại sao không gột rửa nó đi khi mà CS đang sống trong cái chết. CS đã là chủ nghĩa đã thất bại. Đế quốc CS đã sụp đổ. Trung Cộng và Việt Cộng ở thế kẹt lớn phải mở cửa cho du lịch, đầu tư ngoại quốc vào để tự cứu, hô hào kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cố kéo dài và bám quyền chánh trị độc tài. Trong nước những vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, các nhà trí thức, những đảng viên CS phản tỉnh, thanh niên và những đồng bào quần vải áo bô đã đứng lên đấu tranh, chống CS, VC có đàn áp, trấn áp nhưng có diệt được đâu. Trái lại sức ép của CS càng tăng thì sức chống lại càng mạnh, càng đa dạng và đa diện rất là sáng tạo.
Còn ở hải ngoại, người Việt Hải Ngoại đã sống 37 năm trong tự do, dân chủ, có quyền công dân của các nước mà CS đang cầu cạnh về kinh tế và có đại diện ngoại giao tại VN, thì có gì mà phải sợ CS. Nỗi lo sợ VC ghi sổ bìa đen, không cấp visa đi VN mà không dám cho chụp hình khi biểu tình, không ghi tên khi giúp quỹ đấu tranh thật hoàn toàn là một huyền thoại, chẳng có một cơ sở hợp lý nào. Trái lại CS rất cần số tiền mỗi năm cả ba tỷ do người Việt gởi về và 2 tỷ của 300.000 người Việt về thăm quê hương, gia đình cố cựu đem theo để xài hay cho khi đi VN. Thử tưởng tượng người Việt Hải Ngoại đồng hè tẩy chay, cái gì sẽ xảy ra cho CS Hà Nội.
Thứ đến nếu người đi biết thâm ý của CS Hà Nội. CS Hà Nội là những người làm chánh trị bá đạo, cái gì dù tổn đức, bạc ác thế mấy họ cũng dám làm. Họ đã lợi dụng cái đau khổ của tù binh Mỹ để bắt bí Mỹ ký hiệp ước rút quân. CS Hà Nội đã lợi dụng hài cốt Mỹ, người Mỹ mất tích để bang giao rồi giao thương với Mỹ.
Bây giờ CS Hà Nội lợi dụng tình yêu quê hương, tình gia đình, bè bạn, biến “Việt Kiều” thành “cái vú sữa” cho VC và biến quê hương, mồ mả ông cha, thân bằng quyến thuộc của người Việt hải ngoại thành con tin, vật thế chấp cho VC. Tiền chuộc là 5 tỷ đô la vừa gởi vừa đem đi VN mỗi năm.
Sau cùng là nếu người Việt hải ngoại đi VN biết tương kế tựu kế. Trong đời thường hay trong chánh trị cũng vậy cái yếu của người này có thể sẽ là cái mạnh của người kia, và hay dở ở chỗ phải biết vận dụng chuyển cái yếu thành mạnh, để nhu thắng cương, nhược thắng cường. Cái yếu của người Việt Hải Ngoại trong việc đi về VN là do tình yêu đất nước và thân nhân. Đó là chuyện rất người và rất tự nhiên. Là con người ai chẳng yêu quê hương. Người Bắc Cực yêu quê hương tuyết trắng, ăn thịt sống, và đốt đèn mỡ hải cẩu. Người Phi Châu yêu quê hương rừng xanh, núi thẳm, sa mặc mênh mông. Quê hương càng nghèo khổ, càng cằn cỗi càng yêu bấy nhiêu như nhà văn Chayeaubriand của Pháp viết trong Génie du Christianisme.
Và làm người ai không có gia đình, không tình máu mủ. Gia đình là tương quan đấu đời, có trước tương quan xã hội và chánh trị. Không ai nỡ để cha mẹ, anh chị em mình đói, bịnh, con cháu mình thất học. CS Hà Nội đã khai thác cái yếu đó để mỗi năm có 5 tỷ Đô của người Việt Hải Ngoại.
Nhưng người Việt Hải ngoại có thể chuyển yếu thành mạnh, trong việc gởi tiền và đi về VN. Cho đến bây giờ thực tiễn cuộc sống xã hội VN cho thấy, tiền người Việt Hải ngoại gởi về cho thân nhân đã trở thành một vận động chánh trị hữu hiệu mà không cần tuyên truyền. Ở nông thôn nhà cao cửa rộng, người dân đều biết, không của VC là của Việt Kiều. Ở thành thị, sinh viên học sinh học trường có tiếng giỏi sinh ngữ, học tới nơi tới chốn không vì bị thiếu lệ phí, học phí mà bị đuổi ngang ra, cũng là con cháu Việt Kiều. Trên phương diện chánh trị, bất cứ ai -- kể cả CS Hà Nội với công an đông đặc như rươi-- cũng biết trong 5 tỷ mà người Việt Hải ngoại gới có tiền của hải ngoại gởi vể cho các phong trào đấu tranh chống CS trong nước.
Còn sự có mặt của đích thân người Việt Hải ngoại nơi nhà cửa, xóm làng của thân nhân, bè bạn, chốn cũ, quê xưa mình là một hiệu quả chánh trị bằng hằng chục báo online, hàng chục giờ phát thanh ở hải ngoại chuyển lửa về quê hương. Đồng bào trong nước nói, ngày nào, “thằng Hai, Ba, Tư” làm ruộng bữa đói bữa no nhờ làm “ taxi”, “canh me” “vượt biên” được. Ngày nào “mấy Ông quân dân cán chính VNCH” ở tù cải tạo về xương bọc da, vá vỏ xe đạp, chạy mướn xích lô, bán thuốc lá lẻ sống không đủ, Mỹ cho đi HO. Mươi mười năm sau, những người đó trở về, ai cũng có việc làm, ai cũng có lương, có trợ cấp, con cháu học hành tới nơi, tới chốn. Chỉ cần bà con xóm làng thấy sự thật đó là đã thấy tự do, dân chủ hay hơn, thành công hơn CS.
Sẽ hết sức thiếu sót nếu không phân tích vai trò của người Việt hải ngoại đi về VN trong việc phá vỡ độc quyền truyền thông của CS – một độc quyền mà sự tồn vong của chế đô CS tùy thuộc rất nhiều. Không có độc quyền này CS không biến dân chúng thành bầy cừu được. Không có độc quyền này CS không thể biến họ thành người chăn dắt được. CS rất linh hoạt để nắm độc quyền này. Lúc ở ngoài Miền Bắc chiến tranh, người dân không cảm thấy đói tin, thèm nghe, thèm đọc, thì CS Hà Nội chỉ có một số “báo đài”. Ngược lại khi dân đói tin, thèm đọc, thèm nghe thi CS cho báo đài tràn ngập lãnh thổ. Đảng có cả 700 tờ báo và hàng trăm truyền hình, truyền thanh. Nhưng chỉ báo đài của Đảng và nói một chiều, “theo lề phải của Đảng” mà thôi. Báo đài không lợi cho CS thì CS làm tất cả những gì có thể làm được và không từ bỏ cơ hội nào để phá. Vì lẽ đó quần chúng hoặc phải theo một chiều tuyên truyền CS, hoặc bị cô lập, tách rời khó truyền thông với nhau và với thế giới bên ngoài.
Trong hoàn cảnh bế tắc truyền cảm, truyền thông đó, nếu người Việt hải ngoại “nếu biết đi VN” sẽ tạo một ảnh hưởng lớn cho cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN. Cái làm dễ nhứt là ứng xử như một người Việt Hải ngoại có tự do, dân chủ, đầy đủ nhân quyền. Cái đúng nói đúng, cái sai nói sai. Cái tốt nói tôt, cái xấu nói xấu chẳng sợ ai. Khẳng định quyền lợi, xác định nghĩa vụ, không khôn vặt, bon chen, đút lót để được đi mau, đi dễ mà làm mất cái lớn hơn là quyền tự do, dân chủ, và quyền làm người của mình. Ăn nói đường hoàng, tin gì, nghĩ gì nói đúng với lương tâm, lương tri của mình dù với người nhà hay cán bộ. Tư cách hơn một chút là đến thăm những nhà đấu tranh. CS làm khó dễ, la lên, báo cho sứ quán, nới lớn cho báo chí, và đồng bào nghe.
Nếu biết đi...VN như thế, phong trào đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN sẽ có thêm một nhà tranh đấu. Còn nếu phong trào đấu tranh chống CS cứ “rầy rà” người đi, người gởi tiền về VN là làm một chuyện khó thành và vô tình xô đẩy bà con xa mình, vì khó mà chối bỏ nhu cầu có tính tâm lý và liên quan đến tình nghĩa gia đình và đất nước của con người được./. (Vi Anh)
Trước nhứt nếu người đi biết mình, biết quẳng cái mặc cảm tự ti đi, thì rất có lợi chung và riêng. Mặc cảm tự ti đó là mặc cảm thấy mình là người thua cuộc, người bị CS bỏ tù, người bỏ nước ra đi. Đó là mặc cảm vì mình tự quì xuống nên thấy CS lớn đáng sợ quá. Mặc cảm đó là mẹ đẻ của nỗi sợ không đối với VC. Tại sao không gột rửa nó đi khi mà CS đang sống trong cái chết. CS đã là chủ nghĩa đã thất bại. Đế quốc CS đã sụp đổ. Trung Cộng và Việt Cộng ở thế kẹt lớn phải mở cửa cho du lịch, đầu tư ngoại quốc vào để tự cứu, hô hào kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cố kéo dài và bám quyền chánh trị độc tài. Trong nước những vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, các nhà trí thức, những đảng viên CS phản tỉnh, thanh niên và những đồng bào quần vải áo bô đã đứng lên đấu tranh, chống CS, VC có đàn áp, trấn áp nhưng có diệt được đâu. Trái lại sức ép của CS càng tăng thì sức chống lại càng mạnh, càng đa dạng và đa diện rất là sáng tạo.
Còn ở hải ngoại, người Việt Hải Ngoại đã sống 37 năm trong tự do, dân chủ, có quyền công dân của các nước mà CS đang cầu cạnh về kinh tế và có đại diện ngoại giao tại VN, thì có gì mà phải sợ CS. Nỗi lo sợ VC ghi sổ bìa đen, không cấp visa đi VN mà không dám cho chụp hình khi biểu tình, không ghi tên khi giúp quỹ đấu tranh thật hoàn toàn là một huyền thoại, chẳng có một cơ sở hợp lý nào. Trái lại CS rất cần số tiền mỗi năm cả ba tỷ do người Việt gởi về và 2 tỷ của 300.000 người Việt về thăm quê hương, gia đình cố cựu đem theo để xài hay cho khi đi VN. Thử tưởng tượng người Việt Hải Ngoại đồng hè tẩy chay, cái gì sẽ xảy ra cho CS Hà Nội.
Thứ đến nếu người đi biết thâm ý của CS Hà Nội. CS Hà Nội là những người làm chánh trị bá đạo, cái gì dù tổn đức, bạc ác thế mấy họ cũng dám làm. Họ đã lợi dụng cái đau khổ của tù binh Mỹ để bắt bí Mỹ ký hiệp ước rút quân. CS Hà Nội đã lợi dụng hài cốt Mỹ, người Mỹ mất tích để bang giao rồi giao thương với Mỹ.
Bây giờ CS Hà Nội lợi dụng tình yêu quê hương, tình gia đình, bè bạn, biến “Việt Kiều” thành “cái vú sữa” cho VC và biến quê hương, mồ mả ông cha, thân bằng quyến thuộc của người Việt hải ngoại thành con tin, vật thế chấp cho VC. Tiền chuộc là 5 tỷ đô la vừa gởi vừa đem đi VN mỗi năm.
Sau cùng là nếu người Việt hải ngoại đi VN biết tương kế tựu kế. Trong đời thường hay trong chánh trị cũng vậy cái yếu của người này có thể sẽ là cái mạnh của người kia, và hay dở ở chỗ phải biết vận dụng chuyển cái yếu thành mạnh, để nhu thắng cương, nhược thắng cường. Cái yếu của người Việt Hải Ngoại trong việc đi về VN là do tình yêu đất nước và thân nhân. Đó là chuyện rất người và rất tự nhiên. Là con người ai chẳng yêu quê hương. Người Bắc Cực yêu quê hương tuyết trắng, ăn thịt sống, và đốt đèn mỡ hải cẩu. Người Phi Châu yêu quê hương rừng xanh, núi thẳm, sa mặc mênh mông. Quê hương càng nghèo khổ, càng cằn cỗi càng yêu bấy nhiêu như nhà văn Chayeaubriand của Pháp viết trong Génie du Christianisme.
Và làm người ai không có gia đình, không tình máu mủ. Gia đình là tương quan đấu đời, có trước tương quan xã hội và chánh trị. Không ai nỡ để cha mẹ, anh chị em mình đói, bịnh, con cháu mình thất học. CS Hà Nội đã khai thác cái yếu đó để mỗi năm có 5 tỷ Đô của người Việt Hải Ngoại.
Nhưng người Việt Hải ngoại có thể chuyển yếu thành mạnh, trong việc gởi tiền và đi về VN. Cho đến bây giờ thực tiễn cuộc sống xã hội VN cho thấy, tiền người Việt Hải ngoại gởi về cho thân nhân đã trở thành một vận động chánh trị hữu hiệu mà không cần tuyên truyền. Ở nông thôn nhà cao cửa rộng, người dân đều biết, không của VC là của Việt Kiều. Ở thành thị, sinh viên học sinh học trường có tiếng giỏi sinh ngữ, học tới nơi tới chốn không vì bị thiếu lệ phí, học phí mà bị đuổi ngang ra, cũng là con cháu Việt Kiều. Trên phương diện chánh trị, bất cứ ai -- kể cả CS Hà Nội với công an đông đặc như rươi-- cũng biết trong 5 tỷ mà người Việt Hải ngoại gới có tiền của hải ngoại gởi vể cho các phong trào đấu tranh chống CS trong nước.
Còn sự có mặt của đích thân người Việt Hải ngoại nơi nhà cửa, xóm làng của thân nhân, bè bạn, chốn cũ, quê xưa mình là một hiệu quả chánh trị bằng hằng chục báo online, hàng chục giờ phát thanh ở hải ngoại chuyển lửa về quê hương. Đồng bào trong nước nói, ngày nào, “thằng Hai, Ba, Tư” làm ruộng bữa đói bữa no nhờ làm “ taxi”, “canh me” “vượt biên” được. Ngày nào “mấy Ông quân dân cán chính VNCH” ở tù cải tạo về xương bọc da, vá vỏ xe đạp, chạy mướn xích lô, bán thuốc lá lẻ sống không đủ, Mỹ cho đi HO. Mươi mười năm sau, những người đó trở về, ai cũng có việc làm, ai cũng có lương, có trợ cấp, con cháu học hành tới nơi, tới chốn. Chỉ cần bà con xóm làng thấy sự thật đó là đã thấy tự do, dân chủ hay hơn, thành công hơn CS.
Sẽ hết sức thiếu sót nếu không phân tích vai trò của người Việt hải ngoại đi về VN trong việc phá vỡ độc quyền truyền thông của CS – một độc quyền mà sự tồn vong của chế đô CS tùy thuộc rất nhiều. Không có độc quyền này CS không biến dân chúng thành bầy cừu được. Không có độc quyền này CS không thể biến họ thành người chăn dắt được. CS rất linh hoạt để nắm độc quyền này. Lúc ở ngoài Miền Bắc chiến tranh, người dân không cảm thấy đói tin, thèm nghe, thèm đọc, thì CS Hà Nội chỉ có một số “báo đài”. Ngược lại khi dân đói tin, thèm đọc, thèm nghe thi CS cho báo đài tràn ngập lãnh thổ. Đảng có cả 700 tờ báo và hàng trăm truyền hình, truyền thanh. Nhưng chỉ báo đài của Đảng và nói một chiều, “theo lề phải của Đảng” mà thôi. Báo đài không lợi cho CS thì CS làm tất cả những gì có thể làm được và không từ bỏ cơ hội nào để phá. Vì lẽ đó quần chúng hoặc phải theo một chiều tuyên truyền CS, hoặc bị cô lập, tách rời khó truyền thông với nhau và với thế giới bên ngoài.
Trong hoàn cảnh bế tắc truyền cảm, truyền thông đó, nếu người Việt hải ngoại “nếu biết đi VN” sẽ tạo một ảnh hưởng lớn cho cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN. Cái làm dễ nhứt là ứng xử như một người Việt Hải ngoại có tự do, dân chủ, đầy đủ nhân quyền. Cái đúng nói đúng, cái sai nói sai. Cái tốt nói tôt, cái xấu nói xấu chẳng sợ ai. Khẳng định quyền lợi, xác định nghĩa vụ, không khôn vặt, bon chen, đút lót để được đi mau, đi dễ mà làm mất cái lớn hơn là quyền tự do, dân chủ, và quyền làm người của mình. Ăn nói đường hoàng, tin gì, nghĩ gì nói đúng với lương tâm, lương tri của mình dù với người nhà hay cán bộ. Tư cách hơn một chút là đến thăm những nhà đấu tranh. CS làm khó dễ, la lên, báo cho sứ quán, nới lớn cho báo chí, và đồng bào nghe.
Nếu biết đi...VN như thế, phong trào đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN sẽ có thêm một nhà tranh đấu. Còn nếu phong trào đấu tranh chống CS cứ “rầy rà” người đi, người gởi tiền về VN là làm một chuyện khó thành và vô tình xô đẩy bà con xa mình, vì khó mà chối bỏ nhu cầu có tính tâm lý và liên quan đến tình nghĩa gia đình và đất nước của con người được./. (Vi Anh)
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment