Vụ án Trần Quang Trân ở trại tù Tiên Lãnh
(Trích đoạn hồi ký của Bác Sĩ PHÙNG VĂN HẠNH)
Tôi muốn nói lên những đau khổ chất ngất của anh em tù chính
trị và quân đội trong ngục tù Tiên Lãnh. Làm y tế trại, tôi được gọi lên
phòng kiên giam để xác nhận cái chết của Nguyễn Công Vĩnh. Trước kia anh to
con, nhưng bây giờ xác anh teo táp, co rúm, da bọc xương, gò má lồi cao,
hai mắt mở trừng trừng.
Anh ta chết vì đói. Bọn cai tù có lệnh không cho
anh ăn uống. Bọn trật tự kể lại là những ngày cuối, trong mê sảng, anh bốc
những con dòi bò trong đường cống lên ăn, chắc anh tưởng là hạt cơm. Ðường
cống là một cái rảnh dọc theo bờ tường phòng kiên giam, dùng cho tù phạm
tiêu, tiểu tiện vào đấy.
Chắc có nhiều hồi ký trại giam Cộng sản đã tả cái
dã man, tinh vi của cái cùm sắt dài xuyên từ bờ tường này đến bờ tường kia.
Cảnh cô độc, đói khát, mơ tưởng những món ăn thời tự do, những tiểu xảo để
giết thì giờ thiên thu và để kéo dài chịu đựng, nói lên cái tàn bạo chưa
từng có của kiên giam. Chuồng cọp Côn Ðảo là thiên đường sánh với kiên
giam.
Vụ án Trần Quang Trân là một biến cố đặc biệt của trại Tiên Lãnh, nói lên
tinh thần bất khuất của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Ðây là một tổ chức có
mục đích, hệ thống. Một hoạt động dũng cảm, nhiệt tình, có tính cách quy mô
rộng lớn, bao gồm trên 100 sĩ quan và tù chính trị.
Bởi thế, khi vỡ lỡ,
công an điều tra mất vài tháng trước khi đưa nội vụ ra tòa với hai lần xử:
phúc thẩm và chung thẩm. Bản án chung thẩm là: Tuyên truyền chống phá cách
mạng, tổ chức cướp súng, cướp trại, âm mưu lật đổ chính quyền.
Sau đây là tên họ những người lãnh án phạt và thời gian ở tù thật sự:
-Thiếu úy Trần Quang Trân, án tử hình. Xử tử ngày 19.06.1982.
-Thiếu úy Trần Lân, án chung thân, ở tù 20 năm.
-Trung úy Ngô Văn Thạnh, án 20 năm, ở tù 19 năm.
-Ðại úy Nguyễn Văn Hưng, án 18 năm, ở tù 19 năm.
-Ðại úy Ðỗ Ngọc Nuôi, án 12 năm, ở tù 16 năm.
-Xã trưởng Võ Kinh, án 13 năm, ở tù 15 năm.
-Trung úy Ðỗ Văn Sĩ, án 13 năm, ở tù 16 năm.
-Ðại úy Ðinh Văn An, án 10 năm (chết trong tù Hàm Tân năm 1990).
-Trung sĩ Lê Cao Phúc, án 10 năm, ở tù 14 năm.
-Bác sĩ Tôn Thất Sang, án 10 năm, ở tù 15 năm.
-Lê Phò, án 10 năm, ở tù 10 năm.
-Ðại úy Nguyễn Minh, án 5 năm, ở tù 12 năm.
-Thiếu úy Huỳnh Tiến, án 3 năm, ở tù 11 năm.
Ngoài ra có một số bị kiên giam, song không bị án. Trong số những người
kiên cường này, phải kể Nguyễn Văn Ngật, Nguyễn Văn Ðiểu, Lê Quang, Lê Xuân
Mai, Phạm Lộc, Trần Thao, Châu Văn Mầu, Nguyễn Ngọc Trai, Trương Quang
Ðông.. Tóm lại có chừng 75 người xử theo biện pháp hành chánh, nghĩa là tập
trung cải tạo vô thời hạn, không biết ngày nào về, trung bình ở tù 10 năm.
Trừ hai người ra đi vĩnh viễn là anh Trân và An, số còn lại lãnh 9 thế kỷ
tù tội.
Chín thế kỷ đau thương triền miên ray rứt. Ðiểm đặc biệt của vụ án
là lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ. Những người có án nặng là thiếu úy và
trung úy.
Người được anh em mến phục nhất là anh Trần Quang Trân và Ðinh Văn An.
Trân, người thon nhỏ, mặt trắng thư sinh. Tính tình bặt thiệp, ưa đùa cợt, làm
thơ hay. Rất tiếc là thơ anh không ai ghi chép lại, vì thơ làm trong kiên
giam không giấybút. Song anh hơn Nguyễn Chí Thiện ở chỗ là anh đọc thơ cho
bọn Cộng sản giam giữ anh nghe. Làm thơ xong, anh đọc sang sảng, rất to,
cốt cho trại viên nghe, song cán bộ vội xua đuổi trại viên đi, không cho
nghe những lời ca yêu nước, hạch tội bọn Cọng sản vong bản, nô dịch chủ
thuyết ngoại lai, gieo rắc khổ đau cho nhân dân Việt Nam.
Trong đêm giao thừa đầu năm 1982, trong kiên giam lạnh lẽo, chờ ngày xử
chung thẩm, anh ngâm nga:
Ðón giao thừa giữa bốn bức tường vôi
Xuân lạnh lùng quá mẹ Việt Nam ơi !
Bao giờ dẹp tan loài quỷ đỏ
Mẹ con mình no ấm, rộn niềm vui.
(chưa chắc đã đúng trong nguyên tác, chỉ vì nghe từ đàng xa, và lại thời
gian xoi mòn trí nhớ).
Anh Trân thông minh hiếu học. Nếu đến được bến gờ tự do, anh sẽ là một
chuyên viên điện tử có hạng.
Trong tù, anh không ngừng trao dồi kiến thức,
học thêm ngoại ngữ. Ở Kỳ Sơn, anh được điều động lên cơ quan của tổng trại
2 để sửa chữa máy truyền tin và lắp ráp điện đài. Anh đã sửa chữa một máy
dò tìm vàng nhãn hiệu Trung cọng, mà nhiều kỹ sư đào tạo ở miền Bắc bó tay.
Anh là một chuyên viên điện tử tu nghiệp ở Nhật do tài trợ của hãng
Panasonic.
Với phương tiện nghèo nàn, anh tái tạo các linh kiện điện tử
trong công việc sửa chữa hàng ngày cho cơ quan, và lắp ráp những đài thu
thanh nhỏ cầm tay, phân phát cho các trại.
Ðể che mắt bọn cán bộ, linh kiện
được lắp vào các máy đo điện đã hư.
Muốn máy phát động, chỉ cần lắp vào một
dây dẫn điện ngắn, và có thể nghe nhiều đài phát thanh ngoại quốc như VOA,
BBC v..v..
Nhờ thế, tin tức về cuộc tấn công của Trung Quốc vào miền Bắc,
chiến tranh lạnh giữa Nga và Mỹ đều được phổ biến bí mật cho trại viên để
nuôi dưỡng ý chí quật cường.
Trại Kỳ Sơn, với quy chế tù binh, chế độ ăn uống,
lao động không khắc nghiệt như trại Tiên Lãnh.
Tôi nghĩ rằng quân đội miền
Bắc XHCN cũng tự hào về thành tích của họ, song không biết họ có thấy xấu
hổ khi đem đồng loại khác chính kiến ra hành hạ, đem bắn lén nhiều sĩ quan
như vụ bắn Ðại tá Võ Vàng, bề hội đồng Thiếu úy Huỳnh Tiết, một sĩ quan trẻ
miền Nam giỏi võ. Hận thù giai cấp đã làm họ tối mắt, không biết gì đến
tinh thần thượng võ và tình thương đồng loại. Chiến thắng lẫy lừng, cuối
cùng là để nhốt đồng loại vào trại tập trung hành hạ, còn Mỹ thì cao chạy
xa bay rồi.
Cuối năm 1978, sĩ quan trại Kỳ Sơn chuyển qua Tiên Lãnh. Công an là chuyên
viên cai quản tù trong XHCN. Những phương thức đàn áp như lao động cưỡng
bách, hạn chế dinh dưỡng, nội quy sắt máu, trừng trị tàn bạo, tối đa là
truyền thống quy củ trong quần đảo Goulag, nhà tù Trung Cộng, và một loạt
nhà tù miền Bắc mà nghe tên ai cũng giật mình.
Tất cả những phương thức ấy
đều được áp dụng ở trại Tiên Lãnh. Vài tháng sau nhập trại, toàn thể sĩ
quan trở nên rách rưới, ốm đói, phờ phạc, hãi hùng.
Vài người quá tuyệt
vọng đã tự tử chết. Trung tá Bình, Ðại úy Quy trốn trại không thoát.
Ðã có
lệnh từ trên là bắn chết một người để làm khiếp hãi trại viên. Trên đường
áp giải hai người trốn trại, bọn công an đã bắn lén từ phía sau, giết Trung
tá Bình và tri hô lên là vì tù nhân chạy trốn. Tôi có khám tử thi, và thấy
vết thương có lỗ vào phía sau lưng, đen thuốc súng, chứng tỏ nạn nhân bị
bắn rất gần. Thật là một thời kỳ u ám. Nhiều sĩ quan cấp tá bị kiên giam
rồi chuyển đi trại Ðồng Mộ.
Số người sợ hãi bị chiêu dụ làm ăng-tên tăng
lên đáng kể.
Soát phòng liên miên. Trạïi đông người lại có nhiều trại lẻ ở
xa, ban giám thị cần một hệ thống liên lạc hữu hiệu, nên anh Trân lại được
kêu ra để thiết lập một tổng đài điện thoại, đài liên lạc vô tuyến với Ty
Công an. Anh và Trần Lân được ở một căn nhà nhỏ riêng biệt dùng làm xưởng
sửa chữa máy móc điện tử.
Các cán bộ trong trại cũng nhờ sửa những máy thu
thanh cá nhân. Vì là việc làm không công, họ thường bồi dưỡng anh thịt,
trứng v..v..
Nhưng anh Trân không vì những ưu đãi ấy mà quên anh em. Anh
lặp lại việc đã làm tại trại Kỳ Sơn là lắp một máy thu thanh để nghe lén
các đài ngoại quốc. Anh đã thành công ở Kỳ Sơn vì không bị phát hiện, nhưng
lần nầy không may.
Trong vụ án xử anh và bạn hữu, chỉ có độc nhất một tang
chứng là cái máy đo điện trở, trong đó anh có lắp linh kiện điện tử để nghe
đài phát thanh. Các người bị kêu án là những người có ký vào bản nhận tội
khi công an tra tấn hoặc đe dọa. Có nhiều người giữ nhiệm vụ quan trọng,
song một mực chối hết, nên chỉ bị trừng trị bằng biện pháp hành chánh. Có
bằng cớ gì đâu, chẳng qua là nói miệng với nhau, chứ đâu có hội họp biên
bản gì. Song cuối cùng biện pháp hành chánh cũng giam giữ rất lâu, ít nhất
là trên mười năm. Nhiều khi hơn nữa. Xử án chỉ là bày trò hình thức.
Phân tích vụ án ta thấy hai phần rõ rệt: Phần loan truyền tin tức ngoại
quốc đem lại hưng phấn cho trại viên, ví dụ như cuộc nổi dậy của nhóm
Fulro, cuộc bao vây kinh tế Việt Nam của Tổng thống Mỹ Reagan.
Vì oán hận
lối đối xử dã man tàn bạo của bọn Cộng sản, ai cũng vui mừng khi nghe những
tin bất lợi cho chúng. Chẳng thấy viễn ảnh ngày về, những tin ấy mang lại chút
hy vọng mong manh. Ví dụ trường hợp bác sĩ Tôn Thất Sang làm y tế cho trại
Na sơn.
Sang vào tù vì tội vượt biên. Anh có nói một câu đơn giản mà bị án
10 năm. Nhân Lê Phò, từ trại Na Sơn về trại chính, anh nhắn với Trân là có
tin tức gì hay nói cho “mệ” biết với (con cháu vua thường tự xưng là mệ).
Sang không có tham gia gì vào tổ chức. Chỉ nghe câu ấy mà không báo cáo với
cán bộ, Phò cũng lãnh án 10 năm.
Thật là một chuyện không thể tưởng tượng
nổi, mà các nhà luật học khi nghe phải sững sờ. Những thiệt hại mà anh Sang
phải chịu trong tù đày, cùng những hậu quả dai dẳng trong cuộc sống định cư
ở Mỹ, ai sẽ chịu trách nhiệm đây ?
Các
nhà luật học phải có biện pháp đưa bọn Cộng sản Việt Nam ra tòa án quốc tế
để trả lời những tội ác đối với hàng triệu người vô tội.
Phần thứ hai của vụ án là tổ chức cướp
súng, cướp trại, đánh quận Tiên Phước, liên lạc với cuộc nổi dậy Fulro lập
chiến khu v..v..là những tiết lộ của đại úy Nguyễn Văn Hưng. Anh nói: “Hệ
thống nầy suốt trong thời gian ở tù và sau này khi còn ở Việt Nam, tôi
không hề tiết lộ cho ai.
Nhưng nay (anh đã định cư tại Mỹ) theo yêu cầu của
một số anh em, chúng tôi xin ghi lại chi tiết”.
Anh cho biết anh điều khiển
tổ chức trong nhiệm vụ là Tổng thư ký. Trân chỉ là trưởng ban liên lạc
ngoại vụ. Trần Lân lo liên lạc với Fulro.
Ðinh Văn An (chết trong tù) đại
đội trưởng đội xung kích, lo chiếm kho súng của trại. Thiếu tá Lê Quang là
trung đoàn trưởng trung đoàn giải phóng Quảng Nam Ðà Nẵng. Anh còn tiết lộ
nhiều ủy viên khác. Nói chung, anh em đã có ý chí quật cường, có can đảm
chấp nhận hiểm nguy.
Tiếp xúc với Fulro là có thật; nhân đi lao động ở Trà
Nóc, lúc còn ở trại Kỳ Sơn. Nghiên cứu về khả năng cướp súng là có thật.
Ngoài ra những điều khác chỉ nằm trong mơ ước
Phiên tòa dựng lên gọi là “tòa án nhân dân tối cao”, có cán bộ ở Hà Nội vào
dự, chỉ là xử cái ước mơ đó, chứ không có một hành động phá hoại nào cụ
thể. Trị từ trong tư tưởng. Cái dã man, phi lý và luật rừng là ở đó.
Phiên tòa đúng là một trò hề. Xử trong trại vì sợ dư luận dân chúng. Không
có luật sư biện hộ. Chánh án, phụ thẩm .... ăên bận lôi thôi. Bà phụ thẩm
có tên là Chát, mặc áo cụt, ăn trầu, ngồi chồm hổm trên ghế , ăn nói thiếu
văn hóa. Chỉ có lính công an là mặc đại lễ. Bị can cũng bị bịt mắt dẫn vào,
vành móng ngựa là một hàng ghế dài. Trại viên được nghỉ lao động để dự
phiên tòa, một biện pháp răn đe. Nói là cho bị can tự biện hộ, song ai nói
ra lời nào thì bị chận lại ngay. Phiên tòa chỉ có chánh án, phụ thẩm nói.
Phán quyết thìđem ra hỏi trại viên:
-Tên A có phải là phản động không? (Trại viên đuợc các ăng-tên mớm lời)
-Phải.
-Có đáng tử hình không?
-Rất đáng.
Ðúng là một tòa án nhân dân trong cải cách ruộng đất. Phần lớn trại viên
trả lời lí nhí. Một số khác im lặng.
Phải nói anh Trân là một người trẻ tuổi nhưng rất chững
chạc, đầy lòng vị tha và suy nghĩ. Anh thấy ý định của bọn Cộng sản là phải
có một án tử hình trong vụ nầy, anh đứng ra lãnh cái chết cho anh em.
Anh
chịu nhận tội, và thay mặt anh em, tỏ ra cái khí phách của một sĩ quan có
lý tưởng quốc gia.
Trước phiên tòa, anh không nói “thưa quan tòa” như ấn
định. Anh gọi họ là 'các ông” làm chánh án tức giận đập bàn nhắc lại. Song
anh không đổi cách xưng hô. Khi chánh án hỏi anh:
-Các anh đã được chính phủ khoan hồng cho vào đây để học tập cải tạo. Các
anh không thành tâm hối lỗi, mà tổ chức chống đối. Ðộng cơ nào thúc đẩy các
anh làm việc ấy?
-Các ông không có quyền xử tôi, vì các ông không có tổ quốc, mà chỉ là tay
sai đế quốc Cộng sản. Các ông không xứng đáng để tôi đối đáp. Lịch sử, dân
tộc Việt Nam sẽ xử các ông.
Chế độ các ông là một chế độ phi nhâïn, tàn
khốc. Nhà tù mọc lên khắp nơi. Dân chúng đói khổ lầm than, còn các ông sống
phè phỡn. Nhà tù của các ông là địa ngục sống trên trần gian.
Chánh án lại đập bàn bảo anh im, song anh cứ nói cho hết ý. Một công an
phải chồm tới, bịt miệng anh lại. Thật là hài hước, chốn công đường mà
không có tự do ngôn luận.
Khi tòa tuyên bố bản án tử hình và cho anh nói lời cuối cùng:
-Tôi biết chắc là chế độ phi nhân, tàn ác chưa từng có trong lịch
sử loài người của các ông gần đến ngày cáo chung. Chỉ tiếc là tôi không còn
sống để phục vụ đất nước.
(Nội dung những lời đối đáp trên đây rất trung thực. Tuy nhiên đây không
phải là những lời ghi chép tại chỗ, người nghe chỉ ghi lại theo trí nhớ).
Thái độ hiên ngang bình tỉnh, giọng nói chắc nịch không chút run rẩy của
anh làm cho cả hội trường bàng hoàng. Bọn công an, tổ xứ án sạm mặt trước
khí thế hùng dũng của anh.
Sau khi xử án, chúng cho anh một thời gian suy nghĩ lại và xin ân xá. Song
anh không viết đơn xin ân xá, vì anh biết đó chỉ là một đòn tâm lý để làm
giảm nhuệ khí của anh. Thế nào bọn chúng cũng đem anh ra bắn. Xin xỏ chỉ
thêm nhục. Bởi thế, trong thời gian chờ đợi, anh làm thơ và đọc to lên, mạt
sát chế độ tàn ác của Cọng sản. Sợ gương anh ảnh hưởng đến trại viên khác
và làm mất mặt chế độ, chúng đem anh ra bắn trước thời gian dự định.
Ngày 19.06.1982, lúc 12 giờ, chúng bịt mắt anh đẩy anh lên xe đưa ra pháp
trường. Toàn thể trại viên bị lùa vào phòng, đóng cửa nhốt lại. Ra đến cổng
trại, anh Trân la to:
-Xin vĩnh biệt anh em. Bọn Cộng sản đưa tôi đi bắn đây. “Ðả đảo Hồ Chí
Minh!” “Ðả đảo Cộng sản!” “Dân tộc Việt Nam sẽ chiến thắng Cộng sản!”.
Anh còn muốn hô nhiều khẩu hiệu nữa, song bọn công an đè anh xuống, nhét
chanh vào miệng. Sang bên cơ quan, anh ký tên vào bản án, chấp nhận tử
hình. Chúng dọn ra trước mặt anh một mâm cơm thịnh soạn. Anh từ chối không
ăn và dặn mang vào phòng giam cho bạn bè đang đói. Ra pháp trường anh không
chịu trói và bịt mắt. Anh té nghiêng xuống sau loạt súng đầu. Một tên công
an đến bắn phát ân huệ vào thái dương.
Trong tù tôi có lần nói chuyện với Trân. Anh ta cho rằng chừng cuối thế kỷ,
chế độ Cộng sản sẽ cáo chung.
Anh chết đi và không ngờ là thành trì của
XHCN Liên Xô và Ðông Âu tiêu tan 10 năm trước lời tiên đoán. Song chế độ Hà
Nội vẫn còn tồn tại mặc dầu biến chất đi nhiều. Lạc quan nay ở trong trận tuyến
của ta. Ta chỉ đi lên, bọn chúng chỉ đi xuống.
Trang sử đau buồn, đầy phản
phúc, nham hiểm, tàn bạo từ 1945 đến nay sắp cáo chung.
Cơ hội cho những
người muốn đóng góp để xây dựng cho một nước Việt Nam thật sự tiến bộ và
dân chủ, một xã hội công bằng và thịnh vượng sắp thành hình. Chỉ tiếc là
thiếu mặt anh Trân, như lời nói cuối cùng của anh trước tòa án.
Anh Trân là người anh hùng bất đắc dĩ. Hoàn cảnh đã xô đẩy anh đứng trước
một chọn lựa. Anh đã có chọn lựa đầy suy nghĩ và trách nhiệm. Việc phải
làm, không đùn lại cho ai, tự mình gánh lấy. Anh chết đi để lại người vợ
trẻ và hai con gái. Anh là người có thiện tâm, người tốt nhất trong chúng
ta như lời Tổng Thống Kennedy: “Những người tốt nhất trong chúng ta đã
chết”.
Bác Sĩ PHÙNG VĂN HẠNH
(bản nguyên tác của người viết)
Nguồn: h**p://phanchautrinhdanang.com/30thang4/Vuantranquangtran.htm
"Bạc lòng nhưng
chẳng cam lòng
mang theo nhục nước
vào trong mộ phần" HHC
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment